Minh Minh dịch
1. Sự đồng thuận của người dân
Một xã hội chính trị chỉ
tồn tại khi mọi người đồng thuận xây dựng một chính quyền. Sự thề nguyện trung
thành hay cam kết phục tùng một chính quyền không thể được thực hiện với sự ép
buộc, mà phải trên cơ sở tự nguyện. Mọi người đồng thuận tham gia vào một khế
ước và trao quyền lực cho chính quyền bởi vì họ muốn cuộc sống và tài sản của
họ được bảo vệ. Dù họ từ bỏ một số sự tự do tự nhiên của mình, nhưng chính
quyền mà họ tạo ra chỉ có những quyền mà họ đã trao cho nó. Sự ủy quyền này sẽ
kết thúc khi chính quyền vi phạm các luật thực định của công quốc.
Locke giải thích điều gì
tạo thành sự đồng thuận. Rõ ràng là việc sở hữu tài sản trong một công quốc
đồng nghĩa với việc người dân đã đồng thuận với luật pháp của công quốc đó. Ông
cũng viết về sự đồng thuận “ngầm”, tức là khi bạn cư trú tạm thời hay đi lại
trên các con đường của một công quốc thì chắc chắn bạn đồng ý tuân theo luật
pháp của công quốc đó. Dĩ nhiên, mọi người được tự do sở hữu tài sản như họ
muốn; và có thể rời bỏ một cồng đồng tới một cộng đồng khác, và đồng ý với luật
pháp của cộng đồng mới này.
Cuối cùng, nếu một người
xâm chiếm một công quốc mà không tạo ra một khế ước giữa anh ta với những thần
dân mới của ông ta, thì họ không có nghĩa vụ phải tuân phục ông ta. Vì vậy ý
tưởng về sự cai trị với sự đồng thuận là xuyên xuất trong toàn bộ tác phẩm Khảo luận thứ hai.
2. Bảo vệ quyền sở hữu
Locke viết “bảo vệ quyền sở hữu là mục đích của chính quyền, và vì mục
đích đó mà con người hình thành nên xã hội chính trị”. Lý thuyết về sở hữu của ông
là một trong những bộ phận quan trọng nhất của Khảo luận thứ hai và
thường xuyên xuất hiện trong tác phẩm. Trong chương 5, ông giải thích rằng quyền
sở hữu bao gồm quyền đối với sinh mạng và của cải. Trong trạng thái tự nhiên, mỗi
người có quyền nắm giữ và sắp đặt tài sản của mình như mình muốn. Nhưng thật
không may là, luôn có sự tranh chấp với người khác và không có bất cứ một bộ
luật sẵn có nào để bảo vệ anh ta và tài sản của anh ta. Dù anh ta có các quyền
tự nhiên để bảo vệ mình và trừng phạt kẻ gây hấn, nhưng trạng thái tự nhiên vẫn
có nhiều khiếm khuyết. Do đó, mọi người đồng ý hình thành nên một chính quyền
để bảo vệ tài sản của họ. Luật pháp được ban hành và được củng cố để bảo vệ các
công dân.
Bất cứ khi nào tài sản của người dân không được bảo vệ, thì họ đang ở trong
một trạng thái còn tệ hơn trạng thái tự nhiên. Nếu những người cai trị công
quốc là những người đe dọa đến quyền sở hữu của người dân, thì họ đang tạo ra
một trạng thái chiến tranh giữa họ và người dân.
3. Các vấn đề của các chế độ quân chủ chuyên chế
Locke tin rằng một chế
độ quân chủ chuyên chế không phù hợp với xã hội chính trị. Kinh nghiệm sống của
chính ông tại nước Anh thế kỉ 17 đã mang lại cho ông vô số bằng chứng hiển
nhiên về điều đó. Khi mọi người đồng thuận với một sự cai trị, thì sẽ là vô lý
khi họ tự đặt mình dưới sự kiểm soát của luật pháp, mà lại chấp nhận để một
người khác đứng bên ngoài luật pháp đó. Nếu mục đích của việc hình thành chính
quyền là bảo vệ tài sản, thì sẽ là vô lý khi cho phép một ông vua chuyên chế
tùy tiện làm những gì mà ông ta muốn với sinh mạng và tài sản của người dân.
Một ông vua chuyên chế có xu hướng cai trị chủ
quan, đồng bóng, và không thể đoán trước được. Vì không có bất cứ giới hạn nào
đối với sự cai trị của ông ta, và không ai thông qua các phán quyết chống lại
ông ta, người dân không thể kiện cáo. Ông ta không có tình cảm đối với người
dân, và lý do duy nhất ông ta không hủy hại họ là bắt họ làm việc cho ông ta vì
lợi ích của chính mình.
Locke tranh cãi về tính
hợp lý tính của một ông vua chuyên chế như vậy.
Ông không tin rằng Thượng đế đã hợp pháp hóa sự cai trị của ông ta và con cháu
ông ta bởi vì một sự cai trị như vậy vi phạm luật tự nhiên. Các nhà lý thuyết
chính trị và thần học khác, như Richard Filmer và William Barclay, thấy quyền
cai trị của vua bắt nguồn từ quyền cai trị của Adam. Locke phủ nhận điều này
bằng cách lập luận rằng không có cách nào để biết ai là hậu duệ của Adam, và
dạng chính quyền duy nhất hợp pháp là chính quyền do nhân dân tạo ra.
4. Trạng thái tự nhiên
Trạng thái tự nhiên là trạng thái mà con người sống trước khi họ đồng
thuận tạo nên một chính quyền. Locke đề cập tới điều này liên tục xuyên suốt
tác phẩm Khảo luận thứ hai để giải
thích trạng thái tự nhiên mà con người sinh ra, và tương phản nó với xã hội
chính trị. Trong trạng thái tự nhiên, con người được cai trị bởi lý tính. Họ
tìm cách bảo vệ mọi người và tôn trọng sinh mạng, sự tự do và tài sản của mọi
người. Họ có thể tích lũy bao nhiêu tài sản mà họ muốn, dù lý tính quy định
rằng họ không được lấy nhiều hơn những gì họ sử dụng vì nguy cơ lãng phí. Nếu
ai sử dụng vũ lực để chống lại người khác, thì anh ta đặt mình vào trạng thái
chiến tranh với người đó. Tất cả mọi người có quyền trừng phạt kẻ gây hấn bởi
vì người đó đã vi phạm luật tự nhiên và gây ra sự bất bình trong cộng đồng.
Trong khi Locke không có
một cái nhìn bi quan về bản chất con người như Hobbes, thì ông thừa nhận là con
người cần hình thành một xã hội chính trị để giải quyết những vấn đề xuất hiện
khi người này vi phạm luật tự nhiên và đe dọa sinh mạng và tài sản của người
khác.
5. Bình đẳng
Locke tin rằng Thượng đế
tạo ra mọi người với địa vị bình đẳng. Khi họ sinh ra, họ cùng có một số quyền
lợi như những người khác và có nghĩa vụ bảo vệ cuộc sống của người khác nếu họ
muốn cuộc sống của mình được bảo vệ. Thượng đế là tác nhân duy nhất có thể ban
tặng một số sự khác biệt giữa con người như: “tuổi tác hay đức hạnh ….”. Tuy
nhiên, tất cả mọi người có “sự tự do tự nhiên, và không phục tùng ý chí hay
thẩm quyền của bất cứ ai khác”. Ngay cả khi người dân lựa chọn người để trao
quyền, thì vẫn có một mức độ bình đẳng nhất định bởi vì lý tính quy định rằng
chính quyền không được thi hành quyền lực tùy tiện, và tuyệt đối lên người dân.
Bình đẳng là một chủ đề nằm
trong các chương thảo luận về các mối quan hệ cha con, vợ chồng. Trong khi
Locke không phải là người theo chủ nghĩa bình đẳng giới, ông đưa ra một vài ý
tưởng quan trọng liên quan đến quan hệ giữa nam và nữ. Ông không tin rằng quyền
của người cha là tuyệt đối; người mẹ cũng có nhiều quyền kiểm soát và ảnh hưởng
tới con cái. Cha mẹ cùng nhau quản lý, và cả hai nhận được sự tôn vinh và tôn
trọng từ các con của họ. Không ở đâu trong kinh thánh yêu sách con cái chỉ tôn
vinh người cha, hoặc người chồng có quyền tuyệt đối với người vợ. Trong hôn
nhân, người đan ông cần đưa ra quyết định cuối cùng cho cả hai nhưng điều này không
làm gia tăng quyền lực của người đàn ông. Trong thực tế, vì mục đích của hôn
nhân là sinh đẻ và nôi dưỡng con cái, nên khi những đứa con trưởng thành thì
người vợ có quyền ly dị người chồng nếu thấy điều đó là thích hợp.
6. Giới hạn đối với quyền lực
Khảo luận thứ hai tràn ngập với các ví dụ về cách làm thế nào để giới hạn quyền lực. Rõ
ràng Locke không chấp nhận chế độ quân chủ chuyên chế, và theo ông công quốc
phải được cai trị bởi chính quyền với quyền lực có giới hạn. Tuy nhiên, trước
khi thảo luận về những giới hạn đối với quyền lực trong một công quốc, thì cần
phải nhớ rằng ngay cả trong trạng thái tự nhiên với sự tự do hoàn hảo thì những
sự ràng buộc vẫn tồn tại và có vai trò quyết định. Khi con người trừng phạt kẻ
vi phạm luật pháp, thì họ chỉ trừng phạt anh ta trong trừng mực mà lý tính và
lương tâm cho phép, tương xứng với sự vi phạm của anh ta”. Sự bồi thường và sự
trừng phạt chỉ được biện minh khi không vượt quá bản chất của sự phạm tội.
Trong công quốc, quyền
lập pháp phải bị giới hạn. Luật pháp phải bền vững và công khai với mọi người
dân. Quyền lực không được sử dụng tùy tiện và người dân cũng không thể bị đặt
dưới sự kiểm soát của bất cứ thực thể nào khác, chẳng hạn các chính quyền bên
ngoài. Nếu cơ quan lập pháp được hình thành từ những người đại diện, thì việc
bầu cử phải được tổ chức theo thời gian quy định. Cơ quan hành pháp có thể sử
dụng đặc quyền hành động, và có thể tự do đưa ra các quyết định vì lợi ích cộng
đồng ngay cả khi vi phạm luật pháp, nhưng chỉ được sử dụng như vậy vì lợi ích
của các công dân của công quốc. Đặc quyền hành động cũng bị giới hạn, dù người
cai trị có thể thực thi nó với sự tự do rất lớn.
Những giới hạn này đối
với quyền lực là để bảo vệ các công dân. Nếu quyền hành pháp hay lập pháp vi
phạm sự ủy nhiệm giữa họ và người dân, thì người dân có quyền giải tán chính
quyền. Đây là giới hạn tối cao đối với quyền lực.
7. Thượng đế và mục đích của ngài
Khảo luận thứ hai không phải là một tác phẩm tôn giáo, nhưng nó đề cập đến Thượng đế và
mục đích của ngài đối với con người rải rác trong suốt tác phẩm. Locke viết
Thượng đế tạo ra mọi người bình đẳng trong trạng thái tự nhiên – rằng “tất cả
là tạo phẩm của một đấng tác tạo khôn ngoan vô hạn; tất cả là nô bộc của người,
được gửi đến thế giới theo lệnh của người, và vì mục đích của người; và thuộc
quyền sở hữu của người”. Vì là sở hữu của Thượng đế nên nhất thiết mọi người phải
tôn trọng tất cả những người khác, vì họ cũng là tài sản của người. Luật tự
nhiên là luật của Thượng đế. Sinh mạng, sự tự do, và tài sản phải được bảo vệ
và sự bảo toàn loài người, tạo phẩm của thượng đế, là tiêu chuẩn tối cao.
Về tài sản, Thượng đế
“ban thế giới chung cho con người, và cũng ban cho họ lý tính để biết cách khai
thác nó vì đời sống tốt đẹp nhất của họ”. Hoa trái và muôn thú trên trái đất là
để cho con người sinh tồn. Thượng đế cũng lệnh cho con người lao động và khai
phá trái đất, nhưng không muốn chúng bị lãng phí. Thượng đế muốn con người có
tài sản nhưng không muốn vì nó mà con người trở nên phù phiếm, tham lam.
Thượng đế cũng là người
phán quyết cuối cùng mà con người trông cậy vào khi họ bị đối sử sai trái.
Trong một công quốc khi mà người cai trị đi ra ngoài luật lệ và vi phạm đến cuộc
sống hay tài sản của người dân, thì người dân có quyền chống lại. Trong trường
hợp này, Thượng đế sẽ phán quyết liệu người dân có đúng đắn khi nổi loạn hay
không. Khi không có một thẩm quyền trần thế, thì thượng đế là người phán quyết
cuối cùng.
Do đó, Thượng đế tạo ra
con người bình đẳng, và muốn họ sống với người khác trong hòa thuận và tôn
trọng, cho phép họ tích lũy tài sản nhưng yêu cầu không được tham lam hay phung
phí.
Nguồn:http://www.gradesaver.com/second-treatise-of-government/study-guide/themes