Hiến Pháp là văn kiện cơ bản xác định những quyền dân chủ và bình đẳng của người dân chung sống trong một Quốc Gia .
Nói đến Anh Quốc, về tổ chức chính trị, là nói đến quê cha đất tổ của Đại nghị Chế (Parliamentary Government), khuôn mẫu của hầu hết các phương thức tổ chức Chính Quyền Tây Âu, cũng như Hoa Kỳ là nơi chôn nhau cắt rốn của Tổng Thống Chế, khuôn mẫu tổ chức hành pháp của một số lớn quốc gia trên thế giới, chúng tôi đã có dịp đề cập đến trong bài Tổng Thống Chế Hoa kỳ.
Nhưng từ ngày Quốc Hội Anh đặt viên đá góc tường, nền tảng cho Đại nghị Chế với câu Nhà Vua ở trong Quốc Hội ( The King in Parliament ), chúng tôi đã có dịp nhắc đền trong bài Quốc Hội, phương thức tổ chức Hành Pháp ở Anh có nhiều diễn biến.
Do đó, một số nhà chính trị học đề nghị thay từ ngữ Đại Nghị Chế bằng Nội Các Chế (Cabinet Government), một số khác bằng Thủ Tướng Chế ( Prime Government).
Sau đây chúng ta cùng nhau tìm hiểu về thể thức tổ chức Hành Pháp tại Anh Quốc cũng như lý do của những từ ngữ được đề nghị trên.
I . SƠ LƯỢC VỀ QUỐC HỘI LƯỠNG VIỆN.
Năm 1066 hoàng tộc Norman từ lục địa Âu Châu, vượt eo biển Manche qua chiếm hòn đảo Anh Quốc. Vua đặt quyền bính cai trị và luật lệ trên khắp tân vương quốc. Các lãnh chúa hàng năm phải nộp thuế cho vua.
Không đầy hai thế kỷ sau đó, năm 1215, các lãnh chúa trong vương quốc, các nam tước ( baron) hợp nhau tại Runnynmede, gần Windsor, cùng đồng ý ký Bản Đại Tuyên Ngôn các Quyền Tự Do ( Magna Charta Libertatum) để đặt yêu sách đối với vua:
- Nếu vua muốn lấy thuế nhiều hơn đã được quy định trong những điều khoản được ký kết,vua cần phải được sự thỏa thuận của Đại Hội Đồng (Magnum Consilium).
- Các nam tước cũng như những người dân tự do khác ( tức không phải dân nô lệ), vua không được đem ra xét xử bằng thẩm phám đoàn gồm toàn quan chức của vua, mà phải được thẩm phán đoàn dân sự xét hỏi, thẩm định và tuyên án.
Nếu chúng ta có thể xem Bản Đại Tuyên ngôn các Quyền Tự Do năm 1215 là tài liệu đầu tiên được viết ra, khởi điểm cho những điều khoản khác sẽ được ghi vào Hiến Pháp Anh Quốc, (có người còn đi xa hơn cho rằng Bản Tuyên Ngôn Tự Do trên dựa vào tinh thần tự do của Bản Tổng Kết Luật Lệ và Phong Tục của Anh Quốc (Tractatus de legibus et Consuetudinibus Angliae của Glan Will khoản năm 1189), thì trái lại Đại Hội Đồng không thể được coi là khởi điểm cho Quốc Hội Anh.
Các thành viên của Đại Hội Đồng là những nhân vật do vua trực tiếp chỉ định ( gồm những lãnh chúa cao cấp và những đấng bậc cao trọng trong giáo quyền).Như vậy Đại Hội Đồng không có tính cách đại diện dân cử của Quốc Hội, một trong ba điều kiện tiên quyết mà chúng tôi đã có dịp nói đến trong bài Quốc Hội .
Đại Hội Đồng chỉ là Hội Đồng Tư Vấn của vua, có đặc tính như các tổ chức của thời các lãnh chúa, kiểu Hội Đồng Thượng Thẩm của Pháp ( Etats Généraux de Paris) hay các tổ chức Quốc Hội Âu Châu trong thời Quân Chủ Chuyên Chế lúc đó.
Đại Hội Đồng của Anh Quốc lúc bấy giờ là tổ chức tư vấn của vua, để góp ý kiến với vua trong nhiều việc như:
- Bàn cãi những vấn đề quốc sự như đối ngoại, lập pháp, thuế má hay phụ cấp, cứu xét các đơn từ thỉnh nguyện, xét xử các vấn đề kiện tụng dân luật cũng như hình luật.
- Một mặt , kể từ ngày Bản Đại Tuyên Ngôn các Quyền Tự Do ra đời, quyền hành của vua dần dà bắt đầu bị đặt điều kiện , mặt khác một vài lãnh chúa uy quyền rất ương ngạnh lắm khi hành động bất cần được sự chấp thuận của vua, như vụ lãnh chúa Simon de Monfort, vào năm 1265 bất cần vua đã tự ý đứng ra triệu tập hai kỵ mã và hai thường dân ở mỗi thôn ấp ( borough) để thành lập Quốc Hội.
Trước tình trạng không mấy sáng sủa đó, nhà vua thấy thay vì mỗi năm phải thu ngân sách từ các lãnh chúa, vua có thể liên lạc trực tiếp với các cộng đồng địa phương, có nguồn lợi dồi dào và bảo đảm hơn lãnh chúa .
- Nhưng với sáng kiến vừa kể, một viễn ảnh mới được phát hiện.Các cộng đồng địa phương, làng xã, thôn ấp một mặt tuyên hứa bảo đảm ngân sách cho hoàng gia khỏi thiếu hụt, nhưng với điều kiện phải được cử người đại diện trực tiếp của họ trước hoàng gia để đạo đạt yêu sách và nhu cầu của họ.Cộng đoàn đại diện của các làng xã , thôn ấp tạo thành Hội Đồng có tính cách đại diện , được dân cử, khác với Đại Hội Đồng của vua cũng như nhiều hình thức Quốc Hội thời Trung Cổ .
Như vậy sự liên hệ giữa vua và làng xã thôn ấp đã được bắt đầu vào thế kỷ 13.
Làng xã thôn ấp tại địa phương là những đơn vị động lực phát triển kinh tế, bảo đảm liên tục cho ngân sách hoàng gia, với tổ chức tự trị về hành chánh.Và như vậy là đại diện của họ là Hội Đồng Đại Diện bên cạnh vua ở Westminster. Nói cách khác, từ thế kỷ 13 như vừa nói, họ đã cử người vào Quốc Hội với ý nghĩa hiện đại của chúng ta .
Còn nữa, theo gương của Simon de Monfort, năm 1295 vua Edward I, muốn cho Quốc Hội có nhiều đại diện của mọi tầng lớp quần chúng, đứng ra triệu tập Quốc Hội Kiểu Mẫu, gồm- thành phần các huân tước ( Lords),- các đấng bậc cao trọng trong tôn giáo (hai thành phần nầy được vua đứng ra chỉ định),- hai kỵ mã cho mỗi làng xã,- hai người dân tự do ( không phải dân nô lệ) cho mỗi thôn xóm hoàng gia và đại diện các giáo sĩ hạ cấp .
Nhưng Quốc Hội Kiểu Mẫu của vua Edward I kéo dài không được bao lâu.Bởi lẽ từ nửa thế kỷ 14 trở đi, hai nhóm quân tước và đấng bậc cao trọng giáo sĩ bắt đầu có những cuộc hợp riêng rẽ, vì có nhu cầu và lợi thú riêng thuộc giai cấp và giới chức của họ, tách rời nhóm đại diện làng xã thôn ấp, vì quyền lợi và nhu cầu của các nhóm khác biệt nhau.
Như vậy Quốc Hội Kiểu Mẩu tự chia thành hai nhóm, nhóm Thượng Viện và nhóm Hạ Viện.
Sự việc Quốc Hội trở thành Lưỡng Viện do những cuộc nhóm hợp riêng như vừa kể bắt đầu từ năm 1351.
Khác với hình ảnh thông thường mà chúng ta thấy tại Quốc Hội các nước, Quốc Hội nhóm trong một thính phòng hình bán nguyệt, ở Quốc Hội Anh quốc Quốc Hội nhóm trong một thính phòng hình chữ nhật.Ở phía cuối phòng trên bậc cao là bàn của vị Xướng Ngôn Viên ( Speaker), phía dưới, thấp hơn là bàn của các vị Thư Ký.Bên phải của vị Xướng ngôn Viên là những dãy bàn của các vị đại biểu phe thân chính phủ.Dãy bàn thứ nhất dành cho các Bộ Trưởng hay nhân viên chính phủ.
Phía trái của Xướng Ngôn Viên là những dãy ban dành cho những vị lãnh đạo các chính đảng đối lập. Theo ngôn ngữ của người Anh, nếu đương kim chính phủ được gọi là Chính Phủ Hành Quyền ( Executive Government) , thì thành phần đối lập được gọi là Chính Phủ Trong Bóng Tối ( Shadow Government).
Trong Quốc Hội Chính Phủ Hành Quyền có nhiệm vụ đưa ra đường lối, chương trình chính trị cho đất nước, thì Chính Phủ Trong Bóng Tối cũng có nhiệm vụ phê phán và đưa ra những đường lối , dự án mới cho Chính Phủ trong tương lai để dân chọn lựa trong kỳ bầu cử tới.
Do đó trong tinh thần dân chủ của người Anh, thành phần đối lập cũng cần thiết cho dân chủ không kém gì thành phần chính phủ đương nhiệm.
Vì thế, phe đối lập luôn luôn được phe đương quyền kêu gọi đối thoại một cách kính cẩn: Các Ngài Phe Đối Lập ( Her Majesty Opposition).
Trước nhiều vấn đề hệ trọng, việc Thủ Tướng Chính Phủ đương quyền tham khảo ý kiến phe đối lập trước khi quyết định là thể thức hành pháp dường như bắt buộc.
Trong các phiên họp tranh cãi tại Quốc Hội, vị đại biểu phát biểu ý kiến không trực tiếp nói thẳng với phía bên kia hay với một vị đại biểu khác đồng đảng với mình, mà luôn luôn quay về nói với vị Xướng Ngôn Viên, để vị nầy , sau khi thấu hiểu và thâu thập ý kiến của Quốc Hội, sẽ đến trình bày lại với vua.
Và có lẽ do vị trí của phe thân chính phủ và phe đối lập ở bên phải và bên trái vị Xướng Ngôn Viên, mà từ ngữ hữu phái và tả phái phát xuất từ đó ( vì tầm hiểu biết về lịch sử của chúng tôi có hạn, mong các bạn độc giả , nhứt là các bậc đàng anh dạy bảo thêm cho, xin cám ơn).
Theo tục lệ, kể từ ngày các làng xã, thôn ấp cử người vào Quốc Hội, xác thực hơn kể từ ngày Simon de Monfort gọi dân chúng ở thôn ấp ngồi vào Quốc Hội năm 1265, hay xác thực hơn nữa từ ngày Hạ Viện bắt đầu hoạt động, giữ vai trò chính yếu ( tính đến 1965 là đúng 700 năm), mọi dự án được đem ra bàn thảo trong Quốc Hội phải được đọc đi đọc lại đến 3 lần.Sỡ dĩ phải đọc lại đến 3 lần là vì các đại diện của Quốc Hội Simon de Monfort phần lớn là dân quê, nông dân mù chữ được chọn từ các thôn ấp.Thói quen đọc 3 lần đó, Quốc Hội Anh vẫn còn giữ đến ngày nay, mặc dù mục đích cũng như hoàn cảnh đã thay đổi:
- Lần thứ 1: Tường trình các dự án.
- Lần thứ 2: Quốc Hội bàn thảo chung sau khi nghe đọc lại, sau đó tùy theo lãnh vực của vấn đề, dự án sẽ được giao cho các Ủy Ban Chuyên Môn (Select Committees) cứ xét.
- Lần thứ 3: Sau khi Ủy Ban liên hệ xem xét tường tận các dự án, Quốc Hội sẽ nhóm hợp phiên khoáng đại, trong đó Ủy Ban Chuyên Môn sẽ đọc lại một lần nữa nguyên bản của dự án cùng với những ý kiến và phương thức thực hiện để Quốc Hội biểu quyết.
II - QUỐC HỘI, HIẾN PHÁP VÀ BẦU CỬ.
Trong bài nói về Hiến Pháp, có lần chúng tôi đã trình bày : Nếu Anh Quốc là Quốc Gia tiền phong đặt khuôn mẫu và thể thức cho cả toà nhà Quốc Hội Dân Chủ cho các nước Tây Âu, thì đối với Hiến Pháp Anh quốc không phải là mẫu mực để các nước dân chủ Tây Âu bắt chước.Bởi lẽ Anh Quốc không có một Hiến Pháp được viết ra trên giấy trắng mực đen tất cả những điều khoản, nguyên tắt nền tảng và thể thức tổ chức cho cơ cấu quốc gia như Hiến Pháp của các nước Tây Âu , kể cả Hoa Kỳ.
Nói như vậy không có nghĩa là Anh Quốc không có Hiến Pháp.Nói cách khác, các điều khoản của Hiến Pháp Anh Quốc không được ghi chép vào một bản văn duy nhứt, mà hàm chứa trong các văn bản được viết trải qua dòng lịch sữ thăng trầm của chính trị, xã hội , kinh tế của xứ sở:
- Hàm chứa trong các điều khoản luật pháp của làng xã, thôn ấp, ngay cả trước khi hoàng gia Norman đến chiếm hòn đảo Anh, được gọi là Luật Pháp Thông Thường (Common Law),- hàm chứa trong các lời tuyên án của các vị thẩm phán ( Cases),- hàm chứa trong các cư xử theo thói quen, tập quán của dân chúng (consuetudinary law).
Như trên chúng ta đã đề cập là văn bản đầu tiên được viết ra một cách rõ rệt , khởi đầu cho một vài nguyên tắc của Hiến Pháp Anh là Bản Đại Tuyên Ngôn các Quyền Tự Do ( Magna Charta Libertatum), từ giữa thế kỷ 13, lúc các làng xã, thôn ấp bắt đầu có đại diện trực tiếp với vua.Nói cách khác Hạ Viện bắt đầu mặc cả , đặt điều kiện với vua, biến những lời thỉnh nguyện thành những đòi hỏi , những dự án luật , những đòi hỏi dân có quyền mà nhà vua phải nhượng bộ ( Bill of Rights):
..Nếu nhà vua không ra sắc luật cho dân được quyền .., Quốc Hội sẽ không phê chuẩn dự khoản thuế mà vua dự liệu cho ngân sách .
Trong hai thế kỷ 15 và 16, nhiều cuộc chạm trán giữa Quốc Hội và Hoàng Gia đã đến độ căng thẳng, nhứt kà đối với Hoàng Gia Tudor.Sau cùng, căng thẳng đến độ các vị vua của Hoàng Gia Stewart nhiều lần định phủ quyết các quyết định của Quốc Hội, dựa vào truyền thống cố hữu.
- Vua thay Trời trị dân ,- luật của vua là ý muốn của Trời ,- vua không bị luật lệ nào ràng buộc ( legibus solutus).
Cuộc chạm trán còn kéo dài đến thế kỷ 17 - Năm 1628 vua Charles I đã phải chấp nhận Bản Văn Đòi Hỏi Các Quyền Lợi ( Bill of Rights),
- Và năm 1679 Sắc Luật Bảo Vệ Cơ Thể (Habeas Corpus Act) cũng được vua phê chuẩn , trong đó có điều khoản luật cấm bắt bớ giam cầm một cách vô cớ .Ngoài ra trong Bản Văn Đòi Hỏi Các Quyền Lợi được vua William và Hoàng Hậu Marie d'Orange ấn ký, vua và hoàng gia đều phải tuân giữ luật lệ như mọi người dân.
Với hai sắc luật vừa kể, chúng ta có thể coi là Quốc Hội chiếm lấy quyền thượng đẳng của Quốc Gia trên cả Vua và Hoàng Hậu.
Với Sắc Luật về Quyền Kế Vị (Act of Settlement) năm 1701, quyền thừa kế của Hoàng Gia không phải do thần quyền , mà do Quốc Hội quyết định.
Bắt đầu từ thế kỷ 18 trở đi, nhà vua không còn được quyền phủ quyết các quyết định của Quốc Hội nữa. Các dự án luật được đệ trình lên vua để vua ấn ký và trở thành luật đều được vua chuẩn y bằng những thành ngữ theo pháp ngữ cỗ, nói lên nguồn gốc Pháp Quốc Norman của Hoàng Gia:
- Nhà vua đồng ý ( le roi le veut)
- « Hãy thi hành như dự án luật muốn » ( soit fait come il est desiré).
Và nếu những dự án luật về ngân sách cho vua, thì vua sẽ phê chuẩn như sau :
- « Vua cám ơn các con dân tốt lành của Ngài, chấp nhận lòng tốt của họ và như vậy Ngài chấp nhận »( Le Roi remercie Ses bons sujets, accepte leur bénévolence, et ainsi le veut).
Ngoài ra những bản văn được viết ra một cách rỏ rệt như vừa trích dẫn kể trên với ngày tháng, Hiến Pháp Anh Quốc cũng hàm chứa nhiều bản tuyên án của các phiên tòa ( Cases).
- Bản Tuyên Án về Đặc Quyền của Hoàng Gia ( Case of Proclamations) năm 1611- hay Bản Tuyên Án Chống Lại Ngân Hàng Anh Quốc ( Bowles v. Bank of England) về vấn đề tài chánh,- cũng như nhiều Bản Án về dân luật cũng như hình luật được người dân Anh coi là những điều khoản nguyên tắc của Hiến Pháp. Do đó, một cách nào đó, các vị thẩm phán được coi là những vị cố vấn cho Quốc Hội Lập Hiến , cũng như Quốc Hội Thường Nhiệm trong việc soạn thảo ra dự án cũng như trong việc quyết định luật pháp .
Và sau cùng, những cách hành xử trong dân chúng theo tập tục, truyền thống cũng được người Anh coi là những điều khoản của Hiến Pháp để tổ chức xã hội của họ .
Việt Nam chúng ta có câu : Phép vua thua lệ làng hoặc
Quan có cần nhưng dân không vội,Quan có vội, quan lội quan đi .
Ở phần trên, chúng ta có đề cập đến việc các làng xã, thôn ấp ngay từ thế kỷ 13 đã bắt đầu cử người đại diện trực tiếp và thường trực của mình trước hoàng gia, nếu vua muốn được dân chúng trả thuế để bảo đảm cho ngân sách hoàng gia khỏi thiếu hụt.
Điều kiện của dân chúng là: Không cho dân chúng có đại diện, thì không trả thuế (no taxation without representation).Và nhà vua vì nhu cầu tài chính đã phải chiều ý dân.Từ đó làng xã thôn ấp có quyền cử người đại diện trực diện với vua.Các người đại diện của dân , cùng với các huân tước, các đấng bậc cao trọng trong tôn giáo ( do vua chỉ định) hợp thành Quốc Hội. Rồi vì nhu cầu và quyền lợi khác biệt, Quốc Hội duy nhứt lúc đầu đã tách ra thành Lưỡng Viện Quốc Hội.
Nhưng chúng ta sẽ vấp phải lỗi lầm lớn, nếu chúng ta nghĩ rằng việc tuyển cử các đại biểu từ làng xã, thôn ấp có tính cách bầu cử đại chúng ( universal suffrage) như hiện nay.Trên thực tế, lúc đó các ứng viên cũng như cử tri đều bị giới hạn bởi nhiều khó khăn.
Theo ước tính, lúc đầu những người có quyền bầu cử và ứng cử không quá 4% dân số.Để giới hạn quyền bầu cử, vua lật ngược lại câu đòi hỏi trên của dân: Không đóng thuế thì không có quyền được đại diện ( no representation without taxation).
Và những ai được coi là bảo đảm có khả năng đóng thuế, là những địa chủ, có đất đai ( theo quan niệm sở hữu thời trung cổ) .
Bởi vì chỉ có địa chủ ( theo quan niệm vừa kể) mới có đất đai, có lợi tức hàng năm vững chắc, đáng được tin cậy để giao cho việc quản trị hành chánh địa phương, có khả năng vô tư để xử những vụ kiện tụng nhỏ tại địa phương ( process by jury) và hành xử quyền đại diện của mình tại Quốc Hội Wesminster một cách vô vị lợi.
Nhiều người có những nguồn lợi khác, nhứt là trong thời gian kỹ nghệ Anh Quốc phát triển, không thiếu người đã trở thành giàu có gấp mấy lần địa chủ nhờ những nguồn lợi về thương mại và kỹ nghệ, vẫn không được quyền tuyển cữ và còn bị nghi ngờ là làm giàu bất chính, nếu nguồn tài lực của họ không biến thành sự giàu có cụ thể bằng việc mua lấy đất đai ( landed property) .
Và cũng vì phát triển kỹ nghệ mà một số thôn ấp bị dân chúng bỏ trống hay Thôn ấp ( Rotten Boroughs), nhưng vẫn được có đại diện ở Quốc Hội, trong khi đó thì nhiều khu vực mới, nhứt là những làng mạc đông đúc dân cư chung quanh khu kỹ nghệ vẫn không được có đại diện.Một trong những Thôn ấp được huân tước Russell, đại diện cho nhóm cải cách Quốc Hội đưa ra, đó là trường hợp Old Sarum, chỉ còn có 3 địa chủ , vậy mà cũng có đại diện ở Quốc Hội.Nhiều trường hợp như vậy đã được đem ra bàn cãi ở Quốc Hội để sửa đổi.Với Sắc Luật Bảy Năm , năm 1715, rồi đến Sắc Luật về Quốc Hội năm 1911, nhiệm kỳ Quốc Hội được thu ngắn lại 5 năm .
Với Sắc Luật Cải Tổ Qui Mô ( Great Reform Act) năm 1911, Quốc Hội phân chia lại lãnh thổ Anh Quốc thành nhiều đơn vị bầu cử mới, sau khi đã loại bỏ 56 Thôn ấp được kiểm chứng .
Đối với phụ nữ, cho mãi đến năm 1832, thể chế tuyển cử Anh quốc vẫn còn giữ thái độ nam tôn nữ ty. Năm 1832, với Sắc Luật Đại Cải Cách trước đó vẫn chưa cho phép phái nữ Anh Quốc được bỏ phiếu. Phái nữ phải chờ mãi đến năm 1918, với Sắc Luật Đại Diện Dân Chúng (Representation of the People Act) mới được đi bỏ phiếu, nếu họ có trên 30 tuổi.
Và năm 1928, với Đạo luật Nội Quy các cô 21 tuổi lần đầu tiên mới được đi bỏ phiếu .
III - HOÀNG GIA, CHÍNH PHỦ VÀ DÂN CHÚNG.
Qua những dòng lịch sử vừa trình bày trên, chúng ta thấy rằng quyền thế của vua càng ngày càng bị giảm bớt đi song song và ngược chiều với tiến trình lớn mạnh quyền lực của Quốc Hội.
So với uy quyền của các Vị Nguyên Thủ Quốc Gia tại các nước theo Đại Nghị Chế, quyền hành của vua ( hiện nay , của Nữ Hoàng Elisabeth) Anh Quốc bị thu gọn lại rất nhiều, nhưng uy thế của vua được dân chúng rất kính nể và thương mến.
Nhà vua hiện là biểu tượng cho sự đoàn kết quốc gia, cũng như tượng trưng cho sự hợp tác trong khối Thịnh Vượng Chung ( Commonwealth).
Đặc quyền mà Hiến Pháp qui định cho vua hiện nay được ghi như sau:
Quyền được hỏi ý kiến, quyền kích lệ, cảnh giác những mối nguy hiểm đối với bất cứ quyết định nào ( The right to be consulted, the right to encourage, the right to warn).
Hiện nay Hoàng Gia vẫn có một Hội Đồng Tư Vấn ( Privacy Council) gồm 300 thành viên.Nhưng trừ những cuộc Đại Lễ hoặc các cơ hội đặc biệt, ít khi Hội Đồng hội hợp đủ mặt.Trong các thành viên Hội Đồng Tư Vấn, một số người giữ chức vụ tương đương với nhiệm vụ của các Bộ Trưởng Chính Phủ.Hội Đồng Tư Vấn đã bắt đầu làm việc bên cạnh vua từ khoảng năm 1600 trở đi.
Năm 1701 Sắc Luật về Quyền Kế Vị cấm không cho vua chọn thành viên của Hội Đồng Tư Vấn từ các đại diện dân cử làng xã thôn ấp.Nói cách khác, chọn từ các đại biểu của Hạ Viện, sợ vua có thể mua chuộc họ để thao túng, lũng đoạn Quốc Hội.Một tu chính án cho sắc luật trên được biểu quyết năm 1707 đồng thuận cho vua được chọn thành viên của Hội Đồng Tư Vấn giữa các Hạ Nghị Sĩ, nhưng những người được chọn đương nhiên ( ipso facto) sẽ bị mất chức Dân Biểu Quốc Hội.
Muốn trở thành Nghị Sĩ lại, họ phải trãi qua một cuộc bầu cử trở khác.Và những sắc luật tu chính kế tiếp năm 1919, 1926 và 1936 ( Reelection of Ministers Act) bãi bỏ điều khoản bó buộc vừa được nêu lên.Các vị Bộ trưởng cũng như các nhân vật trong Chính Phủ vẫn là Nghị Sĩ của Hạ Viện ( một đặc tính của Đại nghị Chế, ngược với nguyên tắc phân chia quyền lực trong Tổng Thống Chế Hoa kỳ).
Trong quá khứ, từ ngày bắt đằu có Hội Đồng Tư Vấn ( từ năm 1600 trở đi), các vị đặc trách cơ quan mình ấn ký các quyết định của cơ quan bên cạnh con dấu và chữ ký của vua (cùng với những công thức bằng pháp ngữ cỗ chúng ta đã thấy ở trên) để xác nhận với vua rằng việc thực hiên quyết định vừa kể, vị Bộ trưởng đặc trách chịu trách nhiệm trước mặt vua.Bởi lẽ theo truyền thống Anh,
- Nhà Vua không bao giờ sai lầm hay làm sai ( The King can do no wrong),
- Nhà Vua không thể tự mình làm lấy ( The King can not act alone).
Nhưng dần dần với các tiến trình song song và ngược chiều về các lãnh vực quyền hành giữa vua và Quốc Hội , như đã nói, ấn ký của Vị Bộ Trưởng có nghĩa là trong trường hợp hành động sai lầm hay bất chính, Bộ trưởng có thể bị Hạ Viện truy tố và Thượng Viện xét xử.
Từ thế kỷ 18 trở đi, nhà vua càng ngày càng ý thức rằng Hội Đồng Tư Vấn, nhứt là các Vị Bộ Trưởng có nhiệm vụ hành pháp trực tiếp.Nhưng muốn thực hiện nhiệm vụ của mình, tức là cai trị đất nước một cách có hiệu quả, cần được sự đồng thuận và tín nhiệm của quốc Hội.Dần dần Quốc Hội bỏ đi thói quen truy tố ( Bill of Attainder) sau khi xét hành động của Vị Bộ Trưởng hay thành viên của Chính Phủ.
Thay vào đó Quốc Hội tỏ thái độ cho vua biết Vị Bộ trưởng hay thành viên liên hệ có được Quốc Hội tín nhiệm hay không.Trong trường hợp bị Quốc Hội bất tín nhiệm , vị Bộ trưởng liên hệ phải từ chức (trường hợp của Lord North, Thủ Tướng Chính Phủ dưới thời vua George III , năm 1782). Đặc tính của Đại Nghị Chế hiện hành.
Như chúng ta vừa nói, Hội Đồng Tư Vấn của vua gồm khoảng 300 thành viên để giúp vua trị nước.Nhưng trên thực tế, chỉ có một số thành viên của Hội Đồng giữ những chức tương đương với các Bộ Trưởng Chính Quyền hiện hữu.
Những thành viên Bộ trưởng nầy thường được vua gọi riêng thành một Hội Đồng Thân Tín ( Inner Council).Và vì lý do quan trọng và bí mật của nhiều vấn đề Hội Đồng Thân Tín thường được vua gọi đến hợp riêng với vua trong một căn nhỏ phòng dành riêng (Cabinet).Do danh từ căn phòng nhỏ dành riêng đó , mà những Chính Phủ có thể chế Hành Pháp gồm các Bộ Trưởng đồng hợp nhau để quyết định, được các nhà chính trị học tạm gọi là Nội Các Chế .
Sau khi Nữ Hoàng Anne Tudor mất đi, năm 1714 vua George Tudor, dòng dõi người Đức, sinh trưởng ở Hannover, sang Anh kế vị.
Vua George không biết tiếng Anh, chỉ nói được một cách không trôi chảy tiếng La Tinh, nên dần dần không mấy thích thú chủ toạ các buổi hợp của Hội Đồng Tư Vấn, nhứt là các buổi hợp của Hội Đồng Thân Tín hay Hội Đồng Nội Các .
Từ đó, cần có một vị trong các Bộ trưởng tham dự các buổi họp của Hội Đồng Thân Tín hay Hội Đồng Nội Các, sau các buổi họp , đến tường trình lên vua những điều Nội Các quyết định.
Thường Vị Bộ trưởng được chọn giữ nhiệm vụ nầy là Bộ trưởng Tài Chánh hay ngân Khố ( Treasure Lord). Việc vua không còn tham dự trực tiếp các phiên họp của Hội Đồng Nội Các, đưa đến sự kiện trên thực tế chỉ có Nội Các quyết định và hành xử quyền bính : Vua chỉ có quyền hành theo hình thức ( formalis) trên giấy tờ mà thôi.
Qua hai sự kiện vừa kể, Hội Đồng Tư Vấn và Hội Đồng Thân Tín hay Nội Các phải được Quốc Hội tín nhiệm mới hành xử quyền bính giúp vua trị nuớc một cách hữu hiệu và việc Nội Các tự nhóm họp và quyết định lấy mọi vấn đề hành quyền, quyền Hành Pháp của thể chế quân chủ độc tôn trong quá khứ dần dà được chuyển qua Quốc Hội và rồi Quốc Hội, với quyền chuẩn y hay bác bỏ ( xem bài Quốc Hội ) và qua thể thức tín nhiệm hay bất tín nhiệm , còn cầm giữ cả quyền hành pháp trong tay.
Nói cách khác Quốc Hội, cơ quan dân cử, là tiếng nói của dân, đại diện cho lý tưởng, nhu cầu và ước vọng của dân, là cơ quan định chế, hướng dẫn và kiểm soát cho thực hiện đường lối chính trị Quốc Gia. Đó là đặc tính then chốt của Đại Nghị Chế.
Nhưng trên thực tế Nội Các hay Hành Pháp mới là cơ quan hành xử quyền hành để thực hiện, mà Quốc Hội đồng thuận hay bác bỏ đó, theo thể thức Đại Nghi Chế.
Do đó mà câu hỏi được đặt ra, chúng tôi nêu lên ở phần đầu bài, thể chế trong đó Quốc Hội có quyền ( thực sự) chuẩn y hay bác bỏ đối với luật lệ , tín nhiệm hay bất tín nhiệm đối với Chính Phủ, còn việc hành xử quyền bính trong công việc thường nhật là do Chính Phủ thi hành, thể chế đó nên gọi là Đại nghị Chế (Parlamentarism Government) hay Nội Các Chế ( Cabinet Government).
Kế đến, với sự kiện một trong các Vị Bộ Trưởng của Hội Đồng Nội Các được lựa chọn với nhiệm vụ thân hành đến tường trình lại với vua những quyết định của phiên họp, dần dần các Vị Bộ Trưởng trong Nội Các xem Vị Bộ trưởng được tuyển chọn như là Thủ Lãnh của Nội Các, nhứt là vào năm 1721 Sir Robert Walpole được tuyển cử như là Vị Lãnh Đạo của Hội Đồng, Vị Bộ Trưởng trên các Bộ Trưởng hay Vị Thủ Tướng lãnh đạo Hội Đồng Nội Các. Tư tưởng Thủ Tướng là Vị Lãnh Đạo Tối Cao của Hội Đồng Nội Các được nhà chính trị học Jenning ghi lại như sau:
Ngài là Vị Thủ Tướng, bởi vì trổi vượt hơn các Vị Bộ trưởng khác, chứ không phải trổi vượt vì ngài là Thủ Tướng ( He is Prime Minister , because he is supremen, not supremen because he is Prime Minister).
Điều đó nói lên tài năng và đức độ của Vị Bộ trưởng sẽ được chọn lên làm Thủ Tướng để hướng dẫn Nội Các.
Hình ảnh của Vị Thủ Tướng thể hiện càng ngày càng rõ rệt cho việc hành xữ quyền hành và bảo đảm tình trạng vững chắc cho Chính Phủ hay Nội Các do ông lãnh đạo.Hình ảnh của Vị Thủ Tướng lâu bền , trong Chính Phủ do Robert Walpole đảm nhiệm ( 1721-1742) vẫn được xem là tiêu biểu cho Chính Phủ Đại Nghị Chế, Nội Các Chế hay Thủ Tướng Chế của Anh Quốc.Hiện nay theo thông lệ, Thủ Tướng được vua ( hay Nữ Hoàng) chỉ định là người lãnh đạo của chính đảng chiếm đa số ghế trong Quốc Hội.Rồi chính Thủ Tướng đứng ra chọn các Bộ Trưởng cho Nội Các của ông trong số các nghị Sĩ trong quốc Hội .
Nói cách khác, trong Đại Nghị Chế hiện nay, Thủ Tướng Chính Phủ là người được Quốc Hội tuyển chọn và Tổng Thống, vị Nguyên Thủ Quốc Gia bổ nhiệm.
Đó cũng là một đặc tính nữa của Đại Nghị Chế.
Và như trên đã nói, các Bộ Trưởng được chọn giữa các Nghị Sĩ ( nhờ các Sắc Luật Tu Chính Án năm 1919, 1926 và 1936) vẫn không mất quyền đại biểu của họ ở Quốc Hội.Họ vừa là Dân Biểu trong Quốc Hội, vừa là Bộ trưởng trong Chính Phủ ( lằn mức phân quyền trong Đại Nghị Chế không xác định rỏ rệt như trong Tổng Thống Chế là vậy.Thể thức phân quyền , kiểm soát và cân bằng trong Đại nghị Chế được tổ chức ngay trong lòng Quốc Hội, giữa thành phần đa số ủng hộ Chính Phủ đương quyền và thành phần thiểu số đối lập, một đặc tính nữa của Đại Nghị Chế, mà chúng tôi đã có dịp đề cập đến trong bài Thiểu Số Đối Lập, Hiến Pháp Cộng Hoà Liên Bang Đức).
Vị Thủ Tướng được chỉ định là người lãnh đạo chính đảng chiếm đa số trong Quốc Hội.Để bảo đảm cho Nội Các do mình lãnh đạo được vững mạnh, ông chọn lựa các Bộ trưởng từ các Dân Biểu cùng đảng phái đa số của ông để tham gia vào Nội Các Chính Phủ trong suốt nhiệm kỳ hành pháp do luật pháp quy định. Ngoại trừ vì lý do nào khác, với các Dân Biểu đồng đảng của Thủ Tướng khó mà xảy ra chuyện giữa đường gảy gánh tương tư , không ủng hộ ông nữa, bắt buộc ông phải từ chức.
Quốc Hội có quyền bất tín nhiệm bắt buộc Chính Phủ phải từ chức.
Ngược lại Chính Phủ cũng có quyền yêu cầu Tổng Thống ( nhứt là khi có sự đồng thuận của Tổng Thống và Thượng Viện, như Hiến Pháp Cộng Hoà Liên Bang Đức xác nhận, chúng tôi sẽ đề cập đến trong bài Chính quyền Cộng Hoà Liên Bang Đức, cơ chế chống độc tài và bất ổn , giải tán Quốc Hội trong trường hợp những xung khắc giữa Quốc Hội và Chính Phủ không còn cách nào giải quyết được.
Như vậy việc Chính Phủ có quyền yêu cầu giải tán Quốc Hội là việc làm để tránh cho quyền hành của Quốc Gia bị tê liệt và trao trả quyền quyết định lại cho toàn dân qua cuộc tuyển cữ mới .
Nhưng việc giải tán Quốc Hội không được các nhà chính trị học Anh Quốc coi như là quyền hạn của Hành Pháp ( Chính Phủ) đứng ra thi hành, mà là qua vị Thủ Tướng truất phế Quốc Hội.Thủ Tướng là người hiểu rỏ tình trạng đất nước, do việc hành xử quyền hành của ông. Đàng khác ông cũng là thành viên của Quốc Hội ( Thủ Tướng cũng như các Vị Bộ Trưởng trong Nội Các Chính Phủ là những Dân Biểu Quốc Hội), nhận thấy thành phần và đường hướng Quốc Hội như hiện thời không thể đáp ứng được nhu cầu của đất nước. Ông đệ trình lên vua, Vị nguyên Thủ Quốc Gia, để ngài giải tán Quốc Hội mà luật pháp đã quy định cho ngài .
Nhiều người bi quan cho rằng quyền yêu cầu giải tán Quốc Hội được giao cho Thủ Tướng như vừa kể có thể đi đến lạm dụng.
Thủ Tướng có thể nhận thấy tình hình chính trị, thực trạng xã hội có thể đem lại cho chính đảng ông nhiều phiếu hơn, nếu Quốc Hội bị giải tán và tổ chức lại bầu cử sau đó. Tư tưởng không mấy sáng sủa trên bị Thủ Tướng Disraeli đối chất. Ông đã không nghe theo lời các quân sư quạt mo xúi bậy giải tán Quốc Hội với mưu đồ vừa kể. Và sau đây là lý do của ông:
Một vị Thủ Tướng chiếm đa số sự ủng hộ ở Quốc Hội ( Hạ Viện) không có lợi gì tự nhiên đứng ra giải tán Quốc Hội với mục đích để đạt được thắng lợi ở những cuộc đấu sức dựa vào những hoàn cảnh tạm bợ hiện tại ( A Minister with a large majority in the House of Commons has no business to disolve merely with the object gaining an advantage at the polls due the transitory circumstances) .
Trong tâm thức và ngôn ngữ của ngưới Anh, Quốc Hội ( như trong thành ngữ Nhà Vua ở trong Quốc Hội ) , gồm có Vua và Quốc Hội Lưỡng Viện để quyết định và hành xử quyền bính quốc gia.Trên thực tế và qua các diển biến lịch sử mà chúng tôi có dịp nhắc đến ở trên, quyền lực quốc gia được Quốc Hội hành xử chỉ là Quốc Hội Hạ Viện. Do đó để nói đến Quốc Hội, nhiều lúc thay vì dùng danh từ Parliament, người Anh thường dùng Tòa Nhà của các Đại Diện Xã Ấp ( House of Commons) .
Như chúng ta đã có dịp đề cập đến, từ thế kỷ 18 trở đi, dường như nhà vua không bao giờ từ chối chẩn y các quyết định do Quốc Hội đã biểu quyết ( bằng những thành ngữ của pháp văn cổ ).Do đó quyền lực quản trị Quốc Gia chỉ còn thu gọn vào Quốc Hội Lưỡng Viện ( Đại Nghị Chế hay Quốc Hội Chế , Parliamentarism, là vậy).
Thượng Viện ( Chamber of Lords) được đặt dưới quyền chủ toạ của Vị Huân Tước Chưởng Án ( Chanceller of Lords).
Cho đến thế kỷ 18, phần lớn các ghế trong Hạ Viện, được ủy thác cho các Dân Biểu, đại diện làng xã, thôn ấp và phải được Thượng Viện đồng thuận.Điều kiện vừa kể, hiện nay, không được Quốc Hội đặt ra nữa. Và Thượng Viện chỉ còn quyền hành rất hạn hẹp.Nói đúng hơn, Thượng Viện Anh Quốc hiện nay là viện để các quyết định Quốc Hội được suy nghĩ thêm cặn kẽ hoặc là cơ quan để trì hoản thêm thời gian để vấn đề được chín mùi trước khi thực hiện.
Thành viên của Thượng Viện cho đến nay vẫn không thay đổi, có khoảng 1200 người :
- Trong đó có 800 Huân Tước được giữ chức cha truyền con nối,
- 26 của tôn giáo gồm 2 Tổng Giám Mục và 24 Giám Mục.
- Kế đến 21 Huân Tước Luật Pháp, là những Vi Thẩm Phán có nhiều công trạng được vua chỉ định có giá trị suốt đời.
- Và với Sắc Luật Quý Tộc Suốt Đời năm 1958 ( Life Peerage Act ) khoảng 330 nhân vật có công được vua phong lên hàng quý tộc sẽ là thành viên của Thượng Viện.
Nhiều vấn đề được Thượng Viện đem ra cứu xét, Hạ Viện và Chính Phủ quan tâm theo dõi. Nhưng trên thực tế, Thượng Viện không có quyền quyết định để luật lệ có hiêu quả.Với sắc luật về Quốc Hội năm 1911 và 1944, những đạo luật về ngân sách (Money Bills), một khi được Hạ Viện chuẩn y và được Xướng Ngôn Viên tuyên bố, sẽ đương nhiên trở thành luật, sau khi được vua ấn ký, có hay không có sự đồng thuận của Thượng Viện cũng vậy.Nhiều dự án luật khác cũng vậy, sau khi Hạ Viện chấp thuận 2 lần trong 2 phiên họp khác nhau và trải qua thời gian một năm, cho dù Thượng Viện bác bỏ, dự án đương nhiên trở thành luật do hiệu lực của Sắc Luật về quốc Hội năm 1944.
Ai trong chúng ta có được trong tay quyển Tự Điển Anh Ngữ Oxford English Dictionary, thử tìm các danh từ sau đây: Hiến Pháp, Đơn Vị Bầu Cử và Cử Tri. Chúng ta sẽ ngạc nhiên thấy rằng cả ba danh từ trên đều phát xuất từ một nguyên ngữ độc nhứt Constituere của La ngữ và có nghĩa là xây dựng, đặt nền tảng.
Không phải vô tình hay do thiếu từ ngữ mà người Anh chỉ dùng một từ ngữ để chỉ ba thực thể chính trị khác biệt trong nhiều ngôn ngữ khác, kể cả Việt ngữ. Nếu- Hiến Pháp được người Anh định nghĩa bằng Constitution ,- thì Đơn Vị Bầu Cử được ho gọi bằng Constituency ( đôi khi họ cũng dùng College).- Và Cử Tri được họ định nghĩa bằng Constituent ( bên cạnh những từ ngữ như Voter, Elector ..).
Suy nghĩ chính chắn hơn sự liên lạc giữa ba danh từ vừa kể, chúng ta sẽ thấy rằng tinh thần dân chủ của người Anh rất sâu sắc khi họ định nghĩa ba danh từ liên hệ trên bằng một nguyên ngữ La Tinh duy nhứt Constituere. - Nếu Constitution là Hiến Pháp, văn kiện cơ bản ghi lại những nguyên tắc nền tảng trên đó một quốc gia trong tương lai sẽ được xây dựng . Nhứt là đối với một nước dân chủ, Hiến Pháp là văn kiện cơ bản xác định những quyền dân chủ và bình đẳng của người dân chung sống trong một Quốc Gia .
- Thì Cử Tri , Constituent, là người dân đi bỏ phiếu là người đứng ra xây dựng, đặt nền tảng cho thể chế dân chủ của mình, ghi những quyền, tự do và nhiệm vụ của mình vào Hiến Pháp ( Constitution) . Bằng lá phiếu mình chọn lựa những điều khoản mà mình muốn cho mình và đồng bào mình cùng chung sống hạnh phúc và xứng đáng với nhân phẩm con người trong một Quốc Gia với mình.
Nới cách khác, cử tri hay người dân đi bỏ phiều trong thể chế dân chủ là nguyên tố tiên khởi để xây dựng nền dân chủ cho Quốc Gia. Tư tưởng vừa được đề cập có lẽ còn sâu sắc hơn cả tư tưởng Demokratía ( Dân Chủ) của Hy Lạp .
Cũng vậy, trong cuộc sống thường nhật, mặc dầu quyền lực Quốc Gia nằm trong tay Quốc Hội ( Đại Nghị Chế), hay quyền bính đó được thi hành xử do Hội Đồng Bộ trưởng ( Nội Các Chế ), hay các Bộ Trưởng trong Chính Phủ hành quyền dưới sự hướng dẩn của Thủ Tướng ( Thủ Tướng Chế ),
Nhưng chính Cử Tri, người dân đi bầu đứng ra « thiết lập nền tảng » và « xây dựng » ra Quốc Hội và Chính Phủ dưới những hình thức vừa kể qua lá phiếu của mình trong kỳ bầu cử Quốc Hội vừa qua. Quốc Hội và Chính Phủ hiện hữu có lẽ đã được « thiết lập » bằng những vị Đại Biểu khác, cũng như những vị Bộ Trưởng và Thủ Tướng khác, với đường lối chính trị, kinh tế và xã hội khác, nếu người Cử Tri đã đứng ra « thiết lập và xây dựng » một cách khác .
Cùng trong tinh thần vừa kể, Đơn Vị Bầu Cử được người Anh gọi là Constituency ( đôi khi bằng College ). Với Sắc Luật về thể thức phân chia lại số ghế trong Hạ Viện ( House of Commons - Redistribution of Seats Act ) năm 1948, Đơn Vị Bầu Cử được coi là một lãnh thổ có đại diện riêng biệt tại Hạ Viện ( An area having separate representation in the House of Commons ).
Với thể thức bầu cử đơn danh cho mỗi đơn vị, mỗi lãnh thổ được coi là cơ thể của những cử tri ( Body of voters) kết hợp nhau để xây dựng, thiết lập tòa nhà Quốc Hội. Mỗi Đơn Vị Bầu Cử sẽ được Vị Đại Diện mình ở toà nhà Quốc Hội nói lên tiếng nói và nguyện vọng của mình để cùng chung xây dựng nên Quốc Hội, cơ quan điều khiển Quốc Gia . Hay nói như Gs Blondel,
Đơn Vị Bầu cử là hảng xưởng tại địa phương chế tạo ra nền chính trị cho toàn quốc .
Bởi vì, mặc dầu Vị Dân Biểu của Đơn Vị Bầu Cử do địa phương bầu ra, nhưng một khi ngồi vào chiếc ghế của Toà Nhà Quốc Hội, Vị Dân Biểu không còn là kỵ mã xông xáo bênh vực cho quyền lợi phe nhóm, địa phương , mà là Vị Đại Diện nói lên tiếng nói và ước vọng cho cả Quốc Gia, nói như tư tưởng lỗi lạc của Edmund Burke, mà có lần chúng tôi đã trích dẩn trong bài Dân Biểu ( Ayling, Edmund Burke, His Life and Opinions, London, John Murray, 1988).
So với Tổng Thống Chế Hoa kỳ, trong đó hai mấu chốt của tổ chức quyền lực Quốc Gia là nguyên tắc phân quyền và nguyên tắc kiểm soát và cân bằng , trong Đại Nghị Chế của Anh Quốc, nguyên tắc phân quyền không được nhấn mạnh môt cách tuyệt đối.Thay vì quyền lực Quốc Gia bị phân chia cách biệt giữa lập pháp và hành pháp, trong Đại nghị Chế phương thức cộng tác hỗ tương giữa các quyền lực Quốc Gia được nhấn mạnh một cách nổi bậc hơn.
Mặc dầu khi thực thi, Lập Pháp và Hành Pháp có thể thức và lãnh vực hành động khác nhau. Nhưng về cơ cấu quốc gia, Hành Pháp muốn có tư cách chính danh để hành quyền một cách hữu hiệu , phải được sự tín nhiệm của đa số Nghị Sĩ trong Quốc Hội, nếu ngược lại một Chính Phủ bị Quốc Hội bất tín nhiệm sẽ mất đi tư cách danh chính ngôn thuận để tiếp tục cai trị đất nước.
Về phía Quốc Hội cũng vậy, Quốc Hội hành xử quyền lực Quốc Gia một cách vô trách nhiệm, có thể bị Chính Phủ đề nghị Vua giải tán.
Trong thể thức thực thi quyền hành cũng vậy, các dự án luật cũng như chương trình chính trị để điều khiển Quốc Gia, Chính Phủ phải được Quốc Hội tín nhiệm và ngược lại, do việc các Bộ trưởng và Thủ Tướng cũng như nhân viên cao cấp trong Chính quyền là những vị Nghị Sĩ trong Quốc Hội, các dự án luật cũng như việc hướng dẫn đường lối chính trị của Chính Quyền được Quốc Hội cùng bàn thảo với sự hiện diện và góp ý của các thành viên Chính Phủ.
Như vậy kết quả của các cuộc tranh luận ở Quốc Hội có kết quả và càng theo sát chương trình của Chính Phủ, cũng như chương trình và đạo luật của Chính Phủ không đi ra ngoài đường hướng của Quốc Hội hoặc ngược lại ý muốn của dân chúng, mà thành viên của Quốc Hội là những người đại diện. Đó cũng là ý nghĩa của sự liên hệ giữa ba từ ngữ Constittution-Constituency-Constituent , cùng phát xuất từ một danh từ La- ngữ độc nhứt Constituere mà chúng ta đã xét qua ý nghĩa trên.
IV - MỘT VÀI NHẬN ĐỊNH.
Qua hai bài Tổng Thống Chế Hoa kỳ và Anh Quốc - Đại nghị Chế chúng ta có thể rút được một vài nhận xét sau đây:
Hoa Kỳ :
Đọc lại những Điều Khoản Thỏa Ước Liên Bang cũng như thành quả của Hiến Pháp Philadelphia, chúng ta đã xác định rằng mặc dầu 13 Tiểu Bang, cựu thuộc địa Anh Quốc, của Hoa Kỳ đồng ý với nhau hợp thành Quốc Gia Liên Bang, nhưng mỗi Tiểu bang vẫn giữ quyền tối thượng của mình, mà họ đã phải trả đắt giá trong cuộc chiến chống lại mẩu quốc Anh để được độc lập. Tinh thần yêu chuộng tự do đó, chống lại mọi hình thức chuyên chế độc tài bất cứ từ đâu đến, họ luôn nắm chặt lấy bằng mọi cách.
Anh quốc :
Nhờ hoàn cảnh thuận lợi đưa đẩy, tức là vua cần ngân sách phải nhượng bộ dân để được dân trả thuế, nhưng cũng nhờ trí óc sáng suốt, người Anh biết lợi dụng thời thế chiếm lấy dần dần quyền bính từ tay của thể chế quân chủ chuyên chế, biến Anh quốc thành một quốc gia dân chủ ( mặc dầu dưới hình thức Quân Chủ Lập Hiến).
Nếu ở Hoa kỳ , người Mỹ đã biết bảo đảm tự do, dân chủ của họ không những bằng cách phân chia quyền lực Quốc Gia theo chiều ngang : lập pháp, hành pháp, tư pháp cùng với hệ thống kiểm soát và cân bằng ,cũng nhu theo chiều dọc : quyền lực được phân tán từ Chính Phủ và Quốc Hội Liên Bang đến Tiểu Bang, Tỉnh , Quận, Làng Xã .. .để khỏi rơi vào tay những kẻ bất chính có mưu đồ đen tối nào đó, thì ở Anh dân chúng chỉ thấy an tâm khi giao quyền lực Quốc Gia cho Quốc Hội , một cơ chế gồm những vị Đại Diện cho chính dân bầu ra, hay do chính người dân đứng ra định đoạt, đặt nền tảng, xây dựng, thiết lập .
Cũng vậy, nếu dân chúng Hoa Kỳ thấy cần có vị lãnh đạo hành pháp có nhiều quyền lực, để bảo đảm cho sự hợp nhất Quốc Gia Liên Bang ( gồm các Tiểu Bang độc lập ), cũng như để tổ chức Quốc Gia Liên bang vững mạnh về chính trị, kinh tế và quân sự đối đầu lại các cường quốc quân sự khổng lồ lúc bấy giờ, Anh, Pháp, Tây Ban Nha, nên đã chọn Tổng Thồng Chế làm tổ chức hành chánh , thì ở Âu Châu , Anh, Pháp, Đức , Ý, Tây ban Nha và hầu hết các quốc gia Tây Âu khác, nếu không muốn nói là tất cả, đều chọn Đại Nghị Chế làm thể chế tổ chức Quốc Gia, sau những kinh nghiệm ê chề về độc tài của họ.
- Người Anh đã phải dành lại từ tay vua từng mãnh đất của quyền lực và tự do qua gần 6 thế kỷ ( kể từ thế kỷ 13) với nhiều chiến lợi phẩm được ghi lại trong các Sắc Luật.
- Người Pháp đã phải trả giá bằng xương máu cho các cuộc khởi xướng tự do dân chủ từ Cuộc Cách Mạng 1789.
- Người Đức với vết thương Đức Quốc Xã .
- Người Ý với kinh nghiệm độc tài đẩm máu của Phát Xít ( Fascismo) còn in đậm trên dưới 50 năm qua với Mussolini.
- Người Tây Ban Nha với quyền lực hét ra lửa của Generalissimo Franco..
Đại Nghị Chế là phương thức các quốc gia Tây Âu ủy thác lối sống dân chủ và tự do của họ.
- Pháp với Bán Tổng Thống Chế;
- Anh, Đức, Ý, Tây ban Nha với Đại nghị Chế .
- Bán Tổng Thống Chế, Thủ Tướng Chế, Nội Các Chế tựu trung cũng chỉ là Đại Nghị Chế hay Đại Nghị Chế biến thể.
Tất cả đều đặt lối sống dân chủ, tự do của mình ở Toà Nhà Quốc Hội để được ngủ yên giấc, chống lại các cơn ác mộng độc tài , bạo chúa lúc nào cũng đội lốt dưới mọi hình thức sẳn sàng trở lại.
Tìm hiểu thể chế chính trị
Vương Quốc Anh
________________________________________
Thể chế chính trị (hay Hiến chế) của một quốc gia bao gồm các nguyên tắc pháp lý chi phối các mối tương quan hổ tương giữa người dân và tầng lớp người hành xử quyền lực Nhà nước, xác định các cơ cấu tổ chức và chức năng của guồng máy chính quyền cũng như các nguyên tắc chỉ định tầng lớp người hành xử quyền lực đó.
Vương quốc Thống nhất Anh (The United British Kingdom) mà ta thường gọi là Vương quốc Anh là một quốc gia gồm các xứ Scotland, Wales, Northern Ireland và England (phần còn lại của đảo Anh và được chia thành 12 vùng hành chánh địa phương). Chế độ chính trị tại Vương quốc Anh có nhiều đặc điểm đáng chú ý: Trước tiên đó là quê hương, nơi xuất phát của các chế độ Nghị viện. Sau đó, tuy trên lý thuyết là một chế độ Quân chủ Lập hiến, nhưng bản chất của chế độ nghị viện Anh đã tiến hóa, hoàn toàn thay đổi và ngày nay thật sự là một chế độ Dân chủ kiểu mẫu ổn định, đặt căn bản trên một Nghị viện dân cử và một Hoàng gia, tượng trưng cho sự thống nhất lãnh thổ, tự đặt mình ở ngoài mọi khuynh hướng chính trị, chỉ đóng vai trò tượng trưng để trao quyền hành pháp cho các đại diện dân cử. Đặc điểm quan trọng nhất là tính linh động của Hiến chế hiện nay, tuy không được hoàn toàn quy định bằng một văn bản Hiến pháp thành văn rõ rệt như ở các quốc gia tiên tiến hiện đại khác, nhưng vẫn được giải thích một cách chính xác mà không tạo ra các tranh chấp tương phản.
Vì vậy, việc tìm hiểu sự hình thành các định chế chính trị ở Anh có ý nghĩa rất lớn cho việc tìm hiểu các các chế độ chính trị hiện nay. Các định chế chính trị ở Anh quốc được hình thành dần dần theo thực tế mà không có một lý thuyết định sẵn.
I . SƠ LƯỢC VỀ QUỐC HỘI LƯỠNG VIỆN.
Năm 1066 hoàng tộc Norman từ lục địa Âu Châu , vượt eo biển Manche qua chiếm hòn đảo Anh Quốc. Vua đặt quyền bính cai trị và luật lệ trên khắp tân vương quốc. Các lãnh chúa hàng năm phải nộp thuế cho vua. Không đầy hai thế kỷ sau đó, năm 1215, các lãnh chúa trong vương quốc, các nam tước ( baron) hợp nhau tại Runnynmede, gần Windsor, cùng đồng ý ký Bản Đại Tuyên Ngôn các Quyền Tự Do ( Magna Charta Libertatum) để đặt yêu sách đối với vua:
- Nếu vua muốn lấy thuế nhiều hơn đã được quy định trong những điều khoản được ký kết,vua cần phải được sự thỏa thuận của Đại Hội Đồng (Magnum Consilium).
- Các nam tước cũng như những người dân tự do khác ( tức không phải dân nô lệ), vua không được đem ra xét xử bằng thẩm phám đoàn gồm toàn quan chức của vua, mà phải được thẩm phán đoàn dân sự xét hỏi, thẩm định và tuyên án.
Nếu Bản Đại Tuyên ngôn các Quyền Tự Do năm 1215 là tài liệu đầu tiên được viết ra, khởi điểm cho những điều khoản khác sẽ được ghi vào Hiến Pháp Anh Quốc, (có người còn đi xa hơn cho rằng Bản Tuyên Ngôn Tự Do trên dựa vào tinh thần tự do của Bản Tổng Kết Luật Lệ và Phong Tục của Anh Quốc (Tractatus de legibus et Consuetudinibus Angliae của Glan Will khoản năm 1189), thì trái lại Đại Hội Đồng không thể được coi là khởi điểm cho Quốc Hội Anh. Các thành viên của Đại Hội Đồng là những nhân vật do vua trực tiếp chỉ định ( gồm những lãnh chúa cao cấp và những đấng bậc cao trọng trong giáo quyền). Như vậy Đại Hội Đồng không có tính cách đại diện dân cử của Quốc Hội, một trong ba điều kiện tiên quyết mà chúng tôi đã có dịp nói đến trong bài Quốc Hội .
Đại Hội Đồng chỉ là Hội Đồng Tư Vấn của vua, có đặc tính như các tổ chức của thời các lãnh chúa, kiểu Hội Đồng Thượng Thẩm của Pháp ( Etats Généraux de Paris) hay các tổ chức Quốc Hội Âu Châu trong thời Quân Chủ Chuyên Chế lúc đó. Đại Hội Đồng của Anh Quốc lúc bấy giờ là tổ chức tư vấn của vua, để góp ý kiến với vua trong nhiều việc như:
- Bàn cãi những vấn đề quốc sự như đối ngoại, lập pháp, thuế má hay phụ cấp, cứu xét các đơn từ thỉnh nguyện, xét xử các vấn đề kiện tụng dân luật cũng như hình luật
- Một mặt , kể từ ngày Bản Đại Tuyên Ngôn các Quyền Tự Do ra đời, quyền hành của vua dần dà bắt đầu bị đặt điều kiện , mặt khác một vài lãnh chúa uy quyền rất ương ngạnh lắm khi hành động bất cần được sự chấp thuận của vua, như vụ lãnh chúa Simon de Monfort, vào năm 1265 bất cần vua đã tự ý đứng ra triệu tập hai kỵ mã và hai thường dân ở mỗi thôn ấp ( borough) để thành lập Quốc Hội. {1}
Trước tình trạng không mấy sáng sủa đó, nhà vua thấy thay vì mỗi năm phải ngửa tay ăn xin ngân sách từ các lãnh chúa, vua có thể liên lạc trực tiếp với các cộng đồng địa phương, có nguồn lợi đồi dào và bảo đảm hơn lãnh chúa {2}. Nhưng với sáng kiến vừa kể, một viễn ảnh mới được phát hiện.Các cộng đồng địa phương, làng xã, thôn ấp một mặt tuyên hứa bảo đảm ngân sách cho hoàng gia khỏi thiếu hụt, nhưng với điều kiện phải được cử người đại diện trực tiếp của họ trước hoàng gia để đạo đạt yêu sách và nhu cầu của họ.Cộng đoàn đại diện của các làng xã , thôn ấp tạo thành Hội Đồng có tính cách đại diện , được dân cử, khác với Đại Hội Đồng của vua cũng như nhiều hình thức Quốc Hội thời Trung Cỗ {3}Như vậy sự liên hệ giữa vua và làng xã thôn ấp đã được bắt đầu vào thế kỷ 13.
Làng xã thôn ấp tại địa phương là những đơn vị động lực phát triển kinh tế, bảo đảm liên tục cho ngân sách hoàng gia, với tổ chức tự trị về hành chánh.Và như vậy là đại diện của họ là Hội Đồng Đại Diện bên cạnh vua ở Westminster. Nói cách khác, từ thế kỷ 13 như vừa nói, họ đã cữ người vào Quốc Hội với ý nghĩa hiện đại của chúng ta . Theo gương của Simon de Monfort, năm 1295 vua Edward I, muốn cho Quốc Hội có nhiều đại diện của mọi tầng lớp quần chúng, đứng ra triệu tập Quốc Hội Kiểu Mẫu, gồm:
- thành phần các huân tước ( Lords)
- các đấng bậc cao trọng trong tôn giáo (hai thành phần nầy được vua đứng ra chỉ định)
- hai kỵ mã cho mỗi làng xã,- hai người dân tự do ( không phải dân nô lệ) cho mỗi thôn xóm hoàng gia và đại diện các giáo sĩ hạ cấp {4}
Nhưng Quốc Hội Kiểu Mẫu của vua Edward I kéo dài không được bao lâu. Bởi lẽ từ nửa thế kỷ 14 trở đi, hai nhóm quân tước và đấng bậc cao trọng giáo sĩ bắt đầu có những cuộc hợp riêng rẽ, vì có nhu cầu và lợi thú riêng thuộc giai cấp và giới chức của họ, tách rời nhóm đại diện làng xã thôn ấp, vì quyền lợi và nhu cầu của các nhóm khác biệt nhau.
Như vậy Quốc Hội Kiểu Mẩu tự chia thành hai nhóm, nhóm Thượng Viện và nhóm Hạ Viện. Sự việc Quốc Hội trở thành Lưỡng Viện do những cuộc nhóm hợp riêng như vừa kể bắt đầu từ năm 1351.
Khác với hình ảnh thông thường mà chúng ta thấy tại Quốc Hội các nước, Quốc Hội nhóm trong một thính phòng hình bán nguyệt, ở Quốc Hội Anh quốc Quốc Hội nhóm trong một thính phòng hình chữ nhật.Ở phía cuối phòng trên bậc cao là bàn của vị Xướng Ngôn Viên ( Speaker), phía dưới, thấp hơn là bàn của các vị Thư Ký.Bên phải của vị Xướng ngôn Viên là những dãy bàn của các vị đại biểu phe thân chính phủ.Dãy bàn thứ nhất dành cho các Bộ Trưởng hay nhân viên chính phủ. Phía trái của Xướng Ngôn Viên là những dãy ban dành cho những vị lãnh đạo các chính đảng đối lập. Theo ngôn ngữ của người Anh, nếu đương kim chính phủ được gọi là Chính Phủ Hành Quyền ( Executive Government) , thì thành phần đối lập được gọi là Chính Phủ Trong Bóng Tối ( Shadow Government). Trong Quốc Hội Chính Phủ Hành Quyền có nhiệm vụ đưa ra đường lối, chương trình chính trị cho đất nước, thì Chính Phủ Trong Bóng Tối cũng có nhiệm vụ phê phán và đưa ra những đường lối , dự án mới cho Chính Phủ trong tương lai để dân chọn lựa trong kỳ bầu cử tới.
Do đó trong tinh thần dân chủ của người Anh, thành phần đối lập cũng cần thiết cho dân chủ không kém gì thành phần chính phủ đương nhiệm. Vì thế, phe đối lập luôn luôn được phe đương quyền kêu gọi đối thoại một cách kính cẩn: Các Ngài Phe Đối Lập ( Her Majesty Opposition). Trước nhiều vấn đề hệ trọng, việc Thủ Tướng Chính Phủ đương quyền tham khảo ý kiến phe đối lập trước khi quyết định là thể thức hành pháp dường như bắt buộc.
Trong các phiên hợp tranh cải tại Quốc Hội, vị đại biểu phát biểu ý kiến không trực tiếp nói thẳng với phía bên kia hay với một vị đại biểu khác đồng đảng với mình, mà luôn luôn quay về nói với vị Xướng Ngôn Viên, để vị nầy , sau khi thấu hiểu và thâu thập ý kiến của Quốc Hội, sẽ đến trình bày lại với vua. Và có lẽ do vị trí của phe thân chính phủ và phe đối lập ở bên phải và bên trái vị Xướng Ngôn Viên, mà từ ngữ hữu phái và tả phái phát xuất từ đó.
Theo tục lệ, kể từ ngày các làng xã, thôn ấp cử người vào Quốc Hội, xác thực hơn kể từ ngày Simon de Monfort gọi dân chúng ở thôn ấp ngồi vào Quốc Hội năm 1265, hay xác thực hơn nữa từ ngày Hạ Viện bắt đầu hoạt động, giữ vai trò chính yếu ( tính đến 1965 là đúng 700 năm), mọi dự án được đem ra bàn thảo trong Quốc Hội phải được đọc đi đọc lại đến 3 lần. Sỡ dĩ phải đọc lại đến 3 lần là vì các đại diện của Quốc Hội Simon de Monfort phần lớn là dân quê, nông dân mù chữ được chọn từ các thôn ấp.Thói quen đọc 3 lần đó, Quốc Hội Anh vẫn còn giữ đến ngày nay, mặc dù mục đích cũng như hoàn cảnh đã thay đổi
- Lần thứ 1: Tường trình các dự án.
- Lần thứ 2: Quốc Hội bàn thảo chung sau khi nghe đọc lại, sau đó tùy theo lãnh vực của vấn đề, dự án sẽ được giao cho các Ủy Ban Chuyên Môn (Select Committees) cứ xét.
- Lần thứ 3: Sau khi Ủy Ban liên hệ xem xét tường tận các dự án, Quốc Hội sẽ nhóm hợp phiên khoáng đại, trong đó Ủy Ban Chuyên Môn sẽ đọc lại một lần nữa nguyên bản của dự án cùng với những ý kiến và phương thức thực hiện để Quốc Hội biểu quyết.
II, HIẾN PHÁP VÀ NGHỊ VIỆN.
A, Sự hình thành hiến pháp.
Không được quy định bằng một văn bản chính xác và thường được giải thích một cách linh động, trong tinh thần phục thiện, tôn trọng lẽ phải,…Hiến chế ở Vương quốc Anh bao gồm một số các điều lệ và nguyên tắc được chính thức ghi nhận trong các văn bản lịch sử hay được chấp nhận như là các thông lệ, tập tục đã có trong quá khứ..
Phần căn bản của Hiến chế có nguồn gốc trong các văn bản chính thức, kết quả của các tranh chấp lâu dài từ thế kỷ XIII cho đến nay, đáng kể là:
1, Bản Đại Hiến chương (Magna Carta, 1215) mà Vua John phải ký kết với Hội Đồng Cố vấn (King's Counsil - Mầm mống sau này của Nghị viện), giới hạn quyền lực của Nhà Vua cũng như xác định vai trò của Hội đồng: Nhà Vua không được thâu thêm một thuế nào nếu không được sự thoả thuận của Hội đồng và việc xét xử các người dân phải được thực hiện theo đúng các luật lệ.
2, Bản Tuyên bố về các Quyền (Declaration of Rights,1689) mà Mary Stewart và William of Orange phải chấp nhận khi được Nghị viện phong làm Nữ hoàng và Vua của Anh quốc, đánh dấu sự thành lập chế độ nghị viện, quy định các đặc quyền của Nghị viện: Các lụật đều phải được thông qua ở Nghị viện; Nhà Vua không còn quyền làm lụật một mình và trì hoãn các luật lệ hiện hành; Nhà Vua không có quyền duy trì quân đội trong thời bình và phải triệu tập Nghị viện một cách đều đặn. {5}
3, Luật Kế thừa (Act of Settlement, 1701) do Nghị viện áp đặt, xác định các tiêu chuẩn thừa kế Vương quyền, đồng thời quy định tính cách độc lập của ngành tư pháp: Các thẩm phán chỉ có thể bị Nhà Vua cách chức khi Nghị viện yêu cầu.
4, Luật Nghị viện (Parliament Act, 1911) xác định vai trò ưu tiên của Hạ viện trong lãnh vực lập pháp: Thượng viện không thể ngăn chặn quá một tháng các luật về ngân sách đã được Hạ viện thông qua; đối với các dự luật khác đã được Hạ viện thông qua. Thượng viện cũng không còn quyền phủ quyết quá hai năm, sau thời hạn này các luật sẽ được chuyển đến Nhà Vua để đóng dấu ban hành. Luật này được Nghị viện thông qua, nhờ áp lực của Vua George V trên Thượng viện. Đến năm 1949, đạo luật mới về Nghị viện lại thâu ngắn thời gian phủ quyết của Thượng viện xuống còn một năm. {6}
Các Án lệ cũng là một nguồn quan trọng của Hiến chế. Trong một hệ thống đẳng cấp, các Tòa án cấp dưới phải phù hợp với các quyết định đã có ở các Tòa cấp trên, các phán quyết của các thẩm phán cũng có giá trị như là một luật. Trong các điều này ta có thể nhắc đến các phán quyết sau: Nhà Vua không thể tạo ra một luật chỉ bằng một lời Tuyên cáo bình thường (Case of Proclamation, 1611); Một Quyết định đơn phương của Hạ viện không thể thay đổi các luật lệ đương hành (1839); Ngành hành pháp không có quyền đánh thuế một công dân nếu không có lệnh của Nghị viện (1922); Nhân viên an ninh có quyền ngăn chận các cuộc hội họp khi có lý do chứng tỏ vi phạm an ninh công cộng (1935); Mọi người khi bị nhân viên an ninh bắt giữ phải được thông báo lý do (1947),
Tuy nhiên các luật căn bản này chỉ chiếm một phần nhỏ trong các quy chế tổng quát điều hành guồng máy quyền lực nhà nước hiện nay. Không có một văn kiện lập pháp chính thức nào đề cập đến các quy định về cơ cấu và chức năng của hai cơ cấu chính yếu nắm giữ quyền lực hiện nay là Hạ viện (hay Viện Thị xã - Chamber of Commons) và Nội các (hay Văn phòng Chính phủ - Office) mà chỉ được chấp nhận như là những quy ước. Việc chỉ định người lãnh đạo đảng thắng cử ở Hạ viện vào chức vụ Thủ tướng chính phủ và quyền hạn của chức vụ này cũng ở trong một tình trạng tương tự. Một số các quy ước này, sau một thời gian áp dụng, được chính thức hoá và trở thành các luật đuợc Nghị viện thông qua nhưng phần lớn còn lại chỉ được chấp nhận một cách gián tiếp và giải thích một cách linh động như là các tập tục truyền thống, các thông lệ đã được dùng trong quá khứ...và được áp dụng trong tinh thần phục thiện và lợi ích chung hay vì tính cách hiệu lực thực tiễn.
Qua quá trình tranh chấp để đạt được các điều căn bản trên, chế độ chính trị hiện nay trong Vương quốc Anh là một chế độ quân chủ lập hiến trong đó thực tế quyền lực quốc gia đều thuộc về Nhân dân, qua trung gian của các đại diện dân cử họp thành Hạ viện, cơ quan chính yếu nắm giữ quyền lập pháp. Trong thực tế, trọng tâm của các quyền lực trong Vương quốc được tập trung dưới sự điều hành của vị Thủ tướng chính phủ.
B, Nghị viện.
Nghị viện ngày nay có mầm mống đầu tiên là Hội đồng Cố vấn Nhà Vua (King’s Council), xuất hiện từ thế kỷ XI, khi William of Normandy từ lục địa vượt biển đánh chiếm Anh quốc và đặt quyền cai trị và luật lệ khắp nơi trên Vương quốc mới. Để tìm hậu thuẩn, Nhà Vua thường triệu tập Hội đồng để giải thích đường lối của mình. Nhà Vua cai trị và ban hành luật pháp dựa trên sự thoả thuận và lời khuyến cáo của Hội đồng. Hội đồng chỉ có tính cách cố vấn và gồm hai thành phần, đại diện cho tầng lớp giáo chủ cao cấp và đại phong kiến. Dần dần, với sư phát triển của nền kinh tế và các đô thị, Hội đồng được nới rộng thêm với đại diện các thị trấn, cho phép nhà Vua gia tăng nguồn lợi một cách trực tiếp để giải quyết các khó khăn tài chánh. Đại Hiến chương (Magna Carta, 1215) là văn bản đầu tiên giới hạn quyền lực của Nhà Vua cũng như xác định vai trò của Hôi đồng Cố vấn, lợi dụng lúc Vua John yếu thế, trở về Anh sau khi thua trận và mất hết các lãnh địa ở Pháp.
Năm 1295, để xin thêm tài trợ cho chiến tranh ở Pháp và ở Scotland, Edward I cho triệu tập Hội đồng Cố vấn với đại diện của ba thành phần. Từ đó Hội đồng được chính thức gọi là Nghị viện Kiểu mẫu (The Model Parliament) mà chức năng căn bản được nhắc lại trong văn kiện Xác nhận Hiến Chương (Confirmation of the Charter, 1297). Để tránh khỏi phải đóng thêm các thứ thuế mới, các đại diện tôn giáo sau đó tách ra khỏi Nghị viện Dưới thời của Edward III, vì sự khác biệt về quyền lợi và mục tiêu tranh đấu, hai thành phần còn lại trong Nghị viện cũng tách ra thành hai Viện riêng biệt: Thượng viện hay Viện Quý Tộc (House of Lords) và Hạ viện hay Viện Thị Xã (House of Commons). Nhà Vua chỉ định thành phần của Thượng viện trong tầng lớp phong kiến quý tộc, trong khi đó thành phần của Hạ viện gồm có các đại diện của giới thương gia ở các thành phố và các Hiệp sĩ, đại diện cho tầng lớp tiểu điền chủ ở các địa phương.{7}
Là đại diện cho thành phần chủ động cho sự phát triển kinh tế, ảnh hưởng và thế lực tài chánh của Hạ viện ngày càng tăng, xuất hiện như là một lực lượng chính trị độc lập, giúp Vua Richard II phục hồi lại uy quyền của mình, trước sự lộng quyền của John of Gaunt, thủ lãnh tầng lớp quý tộc đa số trong Thượng viện... Trong cuộc tranh chấp Wars of the Roses (1450-1485) về sự thừa kế ngôi Vua ở Anh giữa hai gia đình Lancaster và York, tầng lớp quý tộc đại phong kiến ở Anh chia thành hai phe tranh chấp tương tàn, đánh phá lẫn nhau: Nghị viện trong thời kỳ này chỉ là công cụ của các thế lực tạm thời nắm giữ được quyền lực. Dưới triều đại Tudor, Anh quốc ra khỏi chế độ phong kiến các Lãnh chúa, đồng thời thực hiện một cuộc cải cách tôn giáo và xây dựng một chế độ Quân chủ độc đoán,... dựa trên tầng lớp quý tộc mới, chiếm đa số ờ Hạ viện, gồm các thương gia giàu có, đại điền chủ,... mà quyền lợi kinh tế lại gắn liền với Anh giáo Tin lành. Mặt khác, các phát triển về kinh tế làm cho các Vua bớt phụ thuộc vào Nghị viện. Nghị viện chỉ là một công cụ, phụ hoạ với Nhà Vua và chỉ được triệu tập trong những cơ hội đặc biệt bất thường cần thông qua các sắc thuế mới hoặc thi hành chính sách về tôn giáo.
Qua triều đại Stewart thì ngược lại, các tranh chấp giữa Vương quyền và Nghị viện có hai nguyên nhân chủ yếu. Trước tiên, James I thừa hưởng một tình trạng tài chánh kiệt quệ và tình trạng chiến tranh với Tây Ban Nha đã kéo dài hơn 20 năm từ thời Elisabeth I, làm cho James I và Charles I phải phụ thuộc vào Nghị viện để tìm ngân sách mà vẫn không giải quyết được các khó khăn và áp dụng các biện pháp độc đoán. Sau đó là sự khác biệt về chính sách tôn giáo. Gốc ở xứ Scotland, các Vua Stewart lại muốn trở lại Thiên chúa giáo cũng như áp dụng một đường lối ngoại giao thân thiện với các Vương quốc Thiên chúa giáo Pháp và Tây ban nha,... Ngược lại, với đa số xuất phát từ thành phần mà quyền lợi kinh tế đã gắn liền với Anh giáo Tin lành, Hạ viện đi vào một thời kỳ tranh chấp gay gắt với Vương quyền, dẫn tới cuộc nội chiến Cách mạng 1641-1660, với một chế độ độc tài toàn trị mới, dưới danh nghĩa của Nghị viện. {8}
Cuộc tranh chấp lại tiếp diễn dưới thời Phục hưng. Charles II (và James II) muốn áp dụng một chính sách khoan dung đối với mọi khuynh hướng tôn giáo. Ngược lại, Nghị viện, với đa số theo Giáo hội Cải cách Tin lành, lại muốn thanh lọc khỏi giáo hội và chính quyền mọi thành phần tôn giáo khác
Để tránh các Vương triều Thiên chúa giáo sẽ còn nối tiếp lâu dài, một liên minh Tin lành được thành lập (Cách mạng thứ hai, 1688), với sự tham gia của thành phần đa số Whigs và một số thành viên Tories,... cho phép William of Orange (tín đồ Tin lành và là con rể của James II) đem quân từ Hòa lan đổ bộ vào Anh. Mary Stewart và William of Orange được Nghị viện phong làm Nữ hoàng và Vua của Anh quốc, sau khi đã ký chấp nhận Bản Tuyên bố về các Quyền (1689), đưa Vương quốc Anh vào thời đại mới với Chế độ Nghị viện: Nghị viện nắm quyền lập pháp, Nhà Vua chỉ còn quyền hành pháp.
III, CHÍNH PHỦ VÀ HOÀNG GIA.
A, Chính phủ.
Năm 1714, khi Anne Stewart qua đời, con của Công chúa Sophia được đảng đa số Whigs đưa lên ngôi Vua, mở đầu cho Triều đại Hanover và đưa Anh quốc vào một thời kỳ mới, đặt nền tảng cho Chế độ Nghị viện hiện nay. Cho đến thời kỳ này, Nghị viện chỉ có vai trò chính yếu là bỏ phiếu chấp thuận hay từ khước các sắc luật về thuế vụ và để cho Nhà Vua điều hành ngành hành pháp qua trung gian của Hội đồng Tư vấn (Privy Council), thành lập từ thời Henry VIII và đóng vai trò như một Nội các ngày nay nhưng các Bộ trưởng đều do Nhà Vua bổ nhiệm hay bãi miễn và chịu trách nhiệm trước Nhà Vua.
Là người gốc Đức, Vua George I, cũng như con là George II, đều không thông thạo Anh ngữ và không quan tâm đến chính sự, tự thoả mãn để cho thành phần đa số ở Nghị viện (đương thời là phe Whigs ở Hạ viện) điều hành và định đoạt công việc quản trị hành chánh trong Vương quốc. Nội các (hay Chính phủ) được xuất hiện như là một Uỷ ban đặc biệt, thay thế Hội đồng Tư vấn, gồm các nhân vật quan trọng trong phe đa số ở Nghị viện và thường được người có thế lực nhất, đóng vai trò của Thủ Tướng trong Hội đồng Nội các ngày nay, triệu tập hội họp trong một Văn phòng (Cabinet - Office) để soạn thảo, tranh luận và quy hoạch chính sách của Nội các. Trên nguyên tắc Nội các được đặt dưới sự kiểm soát của Nghị viện. Nhưng trên thực tế thì người cầm đầu Nội các cũng là người lãnh đạo phe đa số ở Nghị viện nên chi phối và kiểm soát được Nghị viện.
Năm 1760, George III lên ngôi, muốn phục hồi Vương quyền, không còn lý do gì phải uỷ thác quyền lực của mình cho một Thủ tướng như trước,...và tìm mọi cách, kể cả các phương pháp mua chuộc các cử Anh như phe Whigs đã dùng trước đây,... để tạo ra ở Hạ viện một đa số Tories thuận lợi cho mình. Nhưng chiến tranh thuộc địa gặp nhiều khó khăn tài chánh vì phải duy trì một đoàn quân lớn ở Bắc Mỹ. Chính sách thuế vụ, ưu tiên cho nền kinh tế ở chính quốc Anh và bất lợi cho các lãnh thổ thuộc địa bên ngoài, gây bất mãn và đưa đến sự thành lập năm 1776 của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, tách khỏi Đế quốc Anh. Sau thất bại này, phe Whigs trở lại chính quyền vào năm 1783 dưới sự lãnh đạo của William Pitt, the Younger. Năm sau, một liên minh được mau chóng thành lập, Pitt the Younger trở thành người lãnh đạo của một khuynh hướng Tories, hoàn toàn đổi mới, và được George III chấp nhận giao cho chức vụ Thủ Tướng, lãnh đạo Nội các. Từ đó vai trò của Thủ Tướng và Nội các được chấp nhận như một thông lệ và trở thành nền tảng của Chế độ Nghị viện trong đó Thủ tướng là người lãnh đạo thành phấn đa số ở Hạ viện và thành lập Nội các từ thành phần đa số của mình để nắm quyền hành pháp. Hội đồng Tư vấn chỉ còn vai trò thuần tuý cố vấn cho Nhà Vua. {9}
Bản chất của chế độ cũng bắt đầu thay đổi. Trước đây, Nhà Vua là đối tượng các tranh chấp, cuộc tranh chấp diễn ra trong Hạ viện, dưới hình thức chống đối hay binh vực Vương quyền. Giờ đây, Nhà Vua không còn là đối tượng các tranh chấp mà tự nguyện uỷ nhiệm các đặc quyền (hành pháp) của mình cho Hạ viện và cuộc tranh chấp được diễn ra giữa các phe nhóm trong Hạ viện để nhận các đặc quyền đã được Nhà Vua ủy nhiệm. Là người lãnh đạo Đảng đa số thắng cử ở Hạ viện, tuy được Nhà Vua chỉ định nhưng trên thực tế, Thủ tướng thực sự cũng được xem như là người đại diện dân cử trực tiếp.
Thế chiến thứ nhất là một cơ hội củng cố quyền hạn của chức vụ Thủ Tướng và của Nội các, vì nhu cầu cấp bách, cần phải lấy những quyết định để đối phó kịp thời với tình hình, trước khi trình bày trước Nghị viện. Sự kiện này sau đó thường được dùng để giải quyết những cuộc khủng hoảng trầm trọng và trở thành một tập tục cho đến năm 1937 mới được chính thức quy định trong Luật Bộ trưởng Vương quốc (Ministers of the Crown Act.), đồng thời với sự xuất hiện chính thức của chức vụ Lãnh tụ đối lập cũng như của Chính phủ đối lập (Shadow Cabinet).
Thừa hưởng các đặc quyền của Nhà Vua đồng thời là lãnh tụ đảng đa số ở Hạ viện, Thủ tướng thực sự là trung tâm điểm nắm giữ quyền lực trong Vương quốc: Hành pháp, Lập pháp. Thủ tướng đóng vai trò của một vị Nguyên thủ quốc gia, lãnh đạo Nội các, chỉ huy Quân đội, ngành Ngoại giao và guồng máy Hành chánh (Civil Service). Thủ tướng và các Bộ trưởng chiu trách nhiệm trước Hạ viện nhưng không chịu trách nhiệm trước Nhà Vua. Ngược lại, Thủ tướng có nhiệm vụ thường xuyên thông báo với Nhà Vua các quyết định của Chính phủ và là nhân vật duy nhất có quyền thực tiễn giải tán Hạ viện.
Là người lãnh đạo của Đảng đa số ở Hạ viện, Thủ tướng cũng là nhân vật chủ động nắm giữ quyền lập pháp. Trong thực tế, khoảng 90% các dự luật ở Hạ viện đều do Nội các đề xướng. Hạ viện thường chỉ đóng vai trò hỗ trợ cho Nội các trong quá trình thông qua các dự luật đó. Nhất là trong lãnh vực tài chánh, chỉ có Nội các mới có quyền đề nghị càc dự lụât chi thu ngân sách mà Hạ viện không thể trì hoãn các tranh luận và phải lấy quyết định trong giới hạn 32 ngày. {10}
Nội các, gồm khoảng 100 thành viên (Bộ trưởng, Quốc vụ khanh, Cố vấn,...) đều do Thủ tướng tự do lựa chọn trong số các Nghị sĩ của đảng của mình ở Nghị viện. Điều bận tâm duy nhất của Thủ tướng trong việc thành lập Nội các là tìm sự cân bằng giữa các khuynh hướng khác nhau trong nội bộ của đảng mình, phân phối tương xứng các chức vụ trong Nội các mà vẫn giữ được đa số ở Hạ viện. Ở Anh quốc, các Nghị viên đều có thể kiêm nhiệm các chức vụ hành pháp. Các thành viên trong Nội các được sự hổ trợ của các Thư ký Nghị viện để giải quyết các quan hệ giữa Nội các và Nghị viện. Các thành viên của Nội các chỉ có thể hiện diện và phát biểu trong Viện của mình. Thủ tướng phải là thành viên của Hạ viện và các Bộ trưởng thuộc Thượng viện chỉ có thể trình bày và bảo vệ chương trình của mình trước Hạ viện một cách gián tiếp, qua trung gian của người Thư ký Nghị viện phụ tá của mình. Ngoài ra, cho đến năm 2005, Bộ trưởng Tư pháp phải là thành viên của Thượng viện đồng thời là Chủ tịch Thượng viện.
Nội các làm việc trên nguyên tắc trách nhiệm tập thể: Khi đã lấy quyết định trên một vấn đề cụ thể thì mọi thành viên phải chấp nhận quyết định chung, nếu không muốn từ chức. Làm việc trực tiếp với Thủ tướng là Hội đồng Nội các, hình thức thu hẹp của Nội các, khoảng 20 thành viên, gồm các Cố vấn đặc biệt và các Bộ trưởng quan trọng (như Bộ trưởng Tư pháp, Nội vụ, Tài chánh, Ngoại giao,...) để hoạch định chương trình và đường lối chung của Nội các mà những nét chính đã được nêu ra trong cuộc bầu cử Hạ viện. Trên nguyên tắc, Nội các phải thực hiện chương trình này một cách cụ thể, soạn thảo các Luật áp dụng, nghiên cứu các dự án thực hiện. Thủ tướng điều hành trực tiếp: chủ toạ, sắp đặt chương trình nghị sự, hướng dẫn các tranh luận và lấy các quyết định cần thiết trong các phiên họp của Hội đồng Nội các. Thủ tướng dùng phần lớn thời gian của mình để tham dự các phiên họp của Nội các, của Hạ viện, hội kiến với Nhà Vua, tham dự các cuộc gặp gỡ quốc tế,... Thủ tướng điều hành quyền Hành pháp, xử dụng một guồng máy Hành chánh (Civil Service) quan trọng, đặc biệt là Văn phòng thư ký của Nội các, Văn phòng thư ký riêng, một cơ quan báo chí riêng cho Thủ tướng và nhiều cơ quan chuyên môn kỹ thuật trong mọi lãnh vực.
Mặc dầu khi thực thi, Lập Php v Hnh Php cĩ thể thức v lnh vực hnh động khc nhau. Nhưng về cơ cấu quốc gia, Hnh Php muốn cĩ tư cch chính danh để hnh quyền một cch hữu hiệu , phải được sự tín nhiệm của đa số Nghị Sĩ trong Quốc Hội, nếu ngược lại một Chính Phủ bị Quốc Hội bất tín nhiệm sẽ mất đi tư cch danh chính ngơn thuận để tiếp tục cai trị đất nước.
Về phía Quốc Hội cũng vậy, Quốc Hội hnh xử quyền lực Quốc Gia một cch vơ trch nhiệm, cĩ thể bị Chính Phủ đề nghị Vua giải tn.
Trong thể thức thực thi quyền hnh cũng vậy, cc dự n luật cũng như chương trình chính trị để điều khiển Quốc Gia, Chính Phủ phải được Quốc Hội tín nhiệm , v ngược lại, do việc cc Bộ trưởng v Thủ Tướng cũng như nhn vin cao cấp trong Chính quyền l những vị Nghị Sĩ trong Quốc Hội, cc dự n luật cũng như việc hướng dẫn đường lối chính trị của Chính Quyền được Quốc Hội cng bn thảo với sự hiện diện v gĩp ý của cc thnh vin Chính Phủ.
B, Hoàng gia.
So với uy quyền của các Vị Nguyên Thủ Quốc Gia tại các nước theo Đại Nghị Chế, quyền hành của vua ( hiện nay , của Nữ Hoàng Elisabeth) Anh Quốc bị thu gọn lại rất nhiều, nhưng uy thế của vua được dân chúng rất kính nể và thương mến.
Nhà vua hiện là biểu tượng cho sự đoàn kết quốc gia, cũng như tượng trưng cho sự hợp tác trong khối Thịnh Vượng Chung( Commonwealth).
Đặc quyền mà Hiến Pháp qui định cho vua hiện nay được ghi như sau:
Quyền được hỏi ý kiến, quyền kích lệ, cảnh giác những mối nguy hiểm đối với bất cứ quyết định nào ( The right to be consulted, the right to encourage, the right to warn).
Hiện nay Hoàng Gia vẫn có một Hội Đồng Tư Vấn ( Privacy Council) gồm 300 thành viên.Nhưng trừ những cuộc Đại Lễ hoặc các cơ hội đặc biệt, ít khi Hội Đồng hội hợp đủ mặt.Trong các thành viên Hội Đồng Tư Vấn, một số người giữ chức vự tương đương với nhiệm vụ của các Bộ Trưởng Chính Phủ.Hội Đồng Tư Vấn đã bắt đầu làm việc bên cạnh vua từ khoảng năm 1600 trở đi. Năm 1701 Sắc Luật về Quyền Kế Vị cấm không cho vua chọn thành viên của Hội Đồng Tư Vấn từ các đại diện dân cử làng xã thôn ấp.Nói cách khác, chọn từ các đại biểu của Hạ Viện, sợ vua có thể mua chuộc họ để thao túng, lũng đoạn Quốc Hội.Một tu chính án cho sắc luật trên được biểu quyết năm 1707 đồng thuận cho vua được chọn thành viên của Hội Đồng Tư Vấn giữa các Hạ Nghị Sĩ, nhưng những người được chọn đương nhiên ( ipso facto) sẽ bị mất chức Dân Biểu Quốc Hội.
Trong quá khứ, từ ngày bắt đằu có Hội Đồng Tư Vấn ( từ năm 1600 trở đi), các vị đặc trách cơ quan mình ấn ký các quyết định của cơ quan bên cạnh con dấu và chữ ký của vua (cùng với những công thức bằng pháp ngữ cỗ chúng ta đã thấy ở trên) để xác nhận với vua rằng việc thực hiên quyết định vừa kể, vị Bộ trưởng đặc trách chịu trách nhiệm trước mặt vua.Bởi lẽ theo truyền thống Anh.
- Nhà Vua không bao giờ sai lầm hay làm sai ( The King can do no wrong),
- Nhà Vua không thể tự mình làm lấy ( The King can not act alone).
Nhưng dần dần với các tiến trình song song và ngược chiều về các lãnh vực quyền hành giữa vua và Quốc Hội , như đã nói, ấn ký của Vị Bộ Trưởng có nghĩa là trong trường hợp hành động sai lầm hay bất chính, Bộ trưởng có thể bị Hạ Viện truy tố và Thượng Viện xét xử.
Từ thế kỷ 18 trở đi, nhà vua càng ngày càng ý thức rằng Hội Đồng Tư Vấn, nhất là các Vị Bộ Trưởng có nhiệm vụ hành pháp trực tiếp.Nhưng muốn thực hiện nhiệm vụ của mình, tức là cai trị đất nước một cách có hiệu quả, cần được sự đồng thuận và tín nhiệm của quốc Hội.Dần dần Quốc Hội bỏ đi thói quen truy tố ( Bill of Attainder) sau khi xét hành động của Vị Bộ Trưởng hay thành viên của Chính Phủ.
Thay vào đó Quốc Hội tỏ thái độ cho vua biết Vị Bộ trưởng hay thành viên liên hệ có được Quốc Hội tín nhiệm hay không.Trong trường hợp bị Quốc Hội bất tín nhiệm , vị Bộ trưởng liên hệ phải từ chức (trường hợp của Lord North, Thủ Tướùng Chính Phủ dưới thời vua George III , năm 1782). Đặc tính của Đại Nghị Chế hiện hành.
Như chúng ta vừa nói, Hội Đồng Tư Vấn của vua gồm khoảng 300 thành viên để giúp vua trị nước.Nhưng trên thực tế, chỉ có một số thành viên của Hội Đồng giữ những chức tương đương với các Bộ Trưởng Chính Quyền hiện hữu.
Những thành viên Bộ trưởng nầy thường được vua gọi riêng thành một Hội Đồng Thân Tín ( Inner Council).Và vì lý do quan trọng và bí mật của nhiều vấn đề Hội Đồng Thân Tín thường được vua gọi đến hợp riêng với vua trong một căn nhỏ phòng dành riêng (Cabinet).Do danh từ căn phòng nhỏ dành riêng đó , mà những Chính Phủ có thể chế Hành Pháp gồm các Bộ Trưởng đồng hợp nhau để quyết định, được các nhà chính trị học tạm gọi là Nội Các Chế {11}
Sau khi Nữ Hoàng Anne Tudor mất đi, năm 1714 vua George Tudor, dòng dõi người Đức, sinh trưởng ở Hannover, sang Anh kế vị.
Vua George không biết tiếng Anh, chỉ nói được một cách không trôi chảy tiếng La Tinh, nên dần dần không mấy thích thú chủ toạ các buổi hợp của Hội Đồng Tư Vấn, nhứt là các buổi hợp của Hội Đồng Thân Tín hay Hội Đồng Nội Các {12}
Trên lý thuyết, quyền hành pháp vẫn thuộc về Hoàng gia (tượng trưng là Nhà Vua, hiện nay là Nữ hoàng Elisabeth II, lên ngôi năm 1953). Trước đây, Nhà Vua điều hành trực tiếp quyền này qua trung gian của Hội đồng Tư vấn (Privy Council), thành lập năm 1540, dưới thời Henry VIII. Các thành viên của Hội đồng là những Bộ trưởng, chịu trách nhiệm trước Nhà Vua.
Trong thực tế hiện nay, Nhà Vua tự đặt mình trên các tranh chấp của các đảng phái chính trị và điều này cho phép duy trì vị trí của Hoàng gia trong Vương quốc: Nhà Vua ủy nhiệm, giao phó đặc quyền của mình cho một Thủ tướng để lãnh đạo Nội các, gồm có nhiều Bộ trưởng xuất phát từ Nghị viện, chịu trách nhiệm trước Hạ viện nhưng không chịu trách nhiệm trước Nhà Vua. Nhà Vua "trị vì mà không cai trị", luôn luôn tự phù hợp với đường lối do Thủ tướng đưa ra, tham dự vào đời sống chính trị một cách tượng trưng, trong nhiều lãnh vực khác nhau và trở thành biểu tượng cho sự thống nhất của lãnh thổ của Vương quốc.
Trước tiên, Hoàng gia là Biểu tượng của khối Liên hiệp Anh và là Nguồn gốc của mọi Danh dự: Nhà Vua có đặc quyền ban phát các chức danh Quý tộc, các huân chương danh dự. Nhà Vua bổ nhiệm Thẩm phán các Tòa thượng thẩm, Sĩ quan của các binh chủng, Thống đốc trong các lãnh thổ trong Liên hiệp Anh, các Nhà ngoại giao,... dựa trên đề nghị của Thủ tướng.
Nhà Vua cũng có một vai trò quan trọng trong truyền thống ngành tư pháp: Nhà Vua là "Nguồn gốc của Công lý", các Toà án đều là "Toà án Hoàng gia" và các Thẩm phán được Nhà Vua bổ nhiệm...
Đối với Nghị viện, chỉ có Nữ hoàng mới có quyến khai trương các khóa họp hàng năm của Nghị viện. Nữ hoàng cũng có quyền giải tán và triệu tập Nghị viện. Khi Nội các bị Hạ viện bất tín nhiệm trên một vấn đề quan trọng ở giữa nhệm kỳ thì Thủ tướng phải từ chức, Nữ hoàng giải tán Hạ viện để bầu lại một Hạ viện mới. Thủ tướng cũng có thể yêu cầu Nữ hoàng giải tán Hạ viện, khi thời cơ thuận lợi, để tìm một đa số thuận lợi hơn trong một Hạ viện mới.
Trên lý thuyết, Nữ hoàng có đặc quyền lựa chọn và bổ nhiệm Thủ tướng Chính phủ. Đặc quyền này được xác định như là một tập tục nhưng không được ghi trong một văn bản Hiến chế nào cả. Tuy nhiên ngày nay việc lựa chọn Thủ tướng hầu như đã trở thành một quy ước: Người lãnh đạo đảng thắng cử trong cuộc bầu cử ở Hạ viện sẽ đương nhiên được Nữ hoàng chọn làm Thủ tướng. Khi Nội các bị Hạ viện bất tín nhiệm và bắt buộc phải từ chức thì Nữ hoàng sẽ đề nghị với người lãnh đạo đảng đối lập thành lập Nội các nếu tìm được một đa số mới ở Hạ viện. Trong trường hợp ngược lại, Nữ hoàng sẽ giải tán Hạ viện để bầu một Hạ viện mới... Nữ hoàng cũng có quyền lựa chọn các Bộ trưởng nhưng trên thực tế ngày nay, các Bộ trưởng đều do Thủ tướng đề nghị và đều được Nữ hoàng chấp nhận và bổ nhiệm.
Trong thực tế, Nữ hoàng luôn luôn phản ứng phù hợp với đường lối của Nội các, dựa trên nguyên tắc Nội các xuất phát từ các đại diện dân cử. Ngược lại, Nữ hoàng có quyền được tham khảo ý kiến, quyền khuyến khích và quyền cảnh cáo đối với các Bộ trưởng. Nói một cách khác, Nữ hoàng có quyền làm cố vấn cho Nội các. Trong thời gian các khoá họp hàng năm của Nghị viện, Nữ hoàng đón nhận sự hội kiến của Thủ tướng, ít nhất mỗi tuần một lần. Trong các dịp này, Thủ tướng có thể yêu câu Nữ hoàng dùng các đặc quyền của mình để triệu tập hay giải tán Nghị viện hay ban phát các chức phẩm danh dự. Ngược lại, Nữ hoàng trao đổi cùng Thủ tướng các nhận xét về đường lối của Nội các và đưa ra các đề nghị thay đổi cụ thể. Thủ tướng không bị bắt phải thay đổi chính sách của mình theo ý kiến của Nữ hoàng.
Trong hơn một nữa thế kỷ trị vì trên Vương quốc Anh (kể từ năm 1953), Nữ hoàng Elisabeth II là tượng trưng cho sự liên tục của quyền hành pháp, đã cộng tác thường xuyên với 9 vị Thủ tướng và trở thành một nhân vật quan trong, có nhiều kinh nghiệm trong mọi lãnh vực, đối nội cũng như đối ngoại. Nhất là, tự đặt mình ở trên mọi đảng phái chính trị, ở ngoài mọi tranh chấp giữa các phe phái,... cách tiếp cận của Nữ hoàng vào chính trường thường có tính cách khách quan, dựa trên các lợi ích chung, không bị gò bó với quyền lợi riêng tư của các phe phái,... càng củng cố cho vị trí và vai trò Nữ hoàng.
IV. HỆ THỐNG BẦU CỬ VÀ CÁC ĐẢNG CHÍNH TRỊ.
Mọi xã hội dân chủ cụ thể đều phải đặt căn bản trên sự tôn trọng những giá trị và các quyền căn bản của con người, đặc biệt là các quyền công dân, cụ thể là quyền tham dự vào các sinh hoạt chính trường để bày tỏ quan điểm của mình và quyền ứng cử và bầu cử để chọn lựa tầng lớp người điều hành công cuộc xây dựng chung.
Cho đến đầu thế kỷ XIX xã hội Anh vẫn chưa thoát khỏi tình trạng phân chia giai cấp. Tầng lớp quý tộc điền chủ truyền thống bảo thủ Tories vẫn nắm giữ guồng máy cai trị (nghị viện, quân đội và quyền tư pháp). Trong khi đó các tầng lớp nghèo khổ vô sản, thợ thuyền thì hoàn toàn ở ngoài hệ thống cai trị.
Thành phần của Thượng viện thuộc hàng quý tộc và do Nhà Vua chỉ định. Hệ thống bầu cử đương thời cho Hạ viện lại ưu đãi các địa phương nông thôn và bất lợi cho các thành phố lớn. Quyền bầu cử và ứng cử là một đặc ân dành cho một thiểu số người giàu có,... và Hạ viện cũng chỉ là đại diện cho tầng lớp thiểu số trưởng giả giàu có. Mỗi địa hạt cai trị (các thành phố hay các thị trấn ở các địa phương), mặc dầu các chênh lệch xa nhau về dân số, đều có quyền như nhau, được cử hai đại diện vào Hạ viện, làm cho các vùng nông thôn dân ít lại có quá nhiều đại diện trong khi các thành phố lớn, nẩy sinh ra trong cuộc cách mạng kỹ nghệ, lại không được đại diện đúng mức với sự đóng góp vào sự thịnh vượng của Vương quốc.
Trong cuộc tranh chấp giữa Vương quyền và Nghị viện, lần đầu tiên cuộc bầu cử Hạ viện năm 1679 được diễn ra dưới hình thức lưỡng cực với hai thành phần đối lập nhau, làm thay đổi bộ mặt sinh hoạt chính trị. Một bên là Đảng Nhà Vua (The Court Party), sau này gọi là Tories và xuất phát từ tầng lớp quý tộc địa chủ, ủng hộ các Vua Stewart và là tiền thân của Đảng Bảo thủ. Đối lập là Đảng Nông Dân (The Country Party), sau này gọi là Whigs, đương thời đại diện cho giới thương gia, tài chánh, muốn thiết lập các Vương triều Tin lành dưới sự kiểm tra của Nghị viện và là tiền thân của Đảng Tự do.
Các hoạt động tương trợ công đoàn đã xuất hiện từ đầu thời George III nhưng bị cấm hoạt động và chỉ xuất hiện trở lại dưới thời George IV với các đấu tranh chính trị, chủ yếu là cải tổ hệ thống bầu cử. Cũng từ đó các khuynh hướng Tories và Whigs mới đi vào hình thức tổ chức chặt chẽ như các đảng chính trị hiện nay.
Với sự hỗ trợ của một phần quan trọng tầng lớp công nhân và thành phần doanh nhân trong Whigs, Luật cải cách bầu cử (The Reform Bill, 1832) lần thứ nhất được thông qua, nới rộng quyền bầu cử và điều chỉnh sự chênh lệch số đại diện giữa nông thôn và thành thị nhưng tầng lớp công nhân vẫn không có quyền bầu cử. Đến năm 1867, Luật cải cách bầu cử (lần thứ hai) được thông qua, cho phép gia tăng số đại diện của tầng lớp trung lưu ở nông thôn và quyền bầu cử của giới thủ công nghiệp và thợ chuyên môn ở các thành phố. Khởi đầu Luật này được Đảng Tự do (Whigs) đưa ra và, dưới áp lực của các thành phần xã hội cấp tiến và giới công đoàn, được Đảng Bảo thủ (Tories) thông qua mặc dầu có sự chống đối của phe hữu.
Một số luật khác được Nghị viện thông qua: Luật bầu bằng phiếu kín (Ballot Act,1872); Luật Illegal Practices Act,1883: Ngăn ngừa các tệ nạn bất hợp pháp và hạn chế ngân sách chi phí của các ứng cử viên; Luật quy định mức lợi tức tối thiểu về quyền bầu cử (1884); Luật điều chỉnh các đơn vị và thể thức bầu cử thực hiện theo lối đơn danh, đa số, một vòng, và một Nghị sĩ cho mỗi đơn vị, ngoại trừ 23 thị trấn đặc biệt (1885). Các luật này họp thành Luật cải cách bầu cử lần thứ ba, được chính phủ Đảng Tự do đưa ra nhưng gặp phải sự chống đối của Thượng viện bảo thủ và chỉ được thông qua, nhờ vào áp lực của Nữ hoàng Victoria. Với luật mới, hầu hết mọi người đều có quyền bầu cử, ngoại trừ nữ phái, các thành phần được hưởng trợ cấp xã hội và những người chưa có chỗ định cư độc lập cố định.
Giới phụ nữ, tuy đã đông đảo đi vào đời sống lao động trong các xí nghiệp nhưng cho đến cuối thế kỷ XIX vẫn chưa có quyền bầu cử để tranh đấu cho quyền lợi của chính mình. Năm 1897, Liên hội quyền đầu phiếu phụ nữ (National Union of Women’s Suffrage Societies) được thành lập, khuynh hướng ôn hòa. Năm 1903, Liên hội chính trị và xã hội phụ nữ (Women’s Social and Political Union) ra đời, với một lập trường cấp tiến và chấp nhận cả các phương pháp bạo động. Để được chính quyền quan tâm, các tổ chức tranh đấu không ngần ngại dùng bạo động: biểu tình, hội họp công cộng, phá hoại các trang bị công cộng, đốt phá các cơ sở chính quyền, các xí nghiệp, đặt bom đạn,... ngày càng tăng, phản ứng bất lợi trong dư luận, lý do cho phép chính quyền đàn áp vào năm 1912. Sau Thế chiến thứ nhất, Luật Đại biểu Nhân dân (Representation of the People Act, 1918) mới xác định quyền bầu cử, phái nam cho mọi người trên 21 tuổi và (hầu hết) phái nữ trên 30 tuổi. Năm 1919, Luật hủy bỏ phân biệt giới tính (Sex Disqualification Removal Act) được ban hành, cho phép phụ nữ được tham dự vào mọi ngành nghề và chức vụ công cộng của guồng máy chính quyền,... giải phóng nữ giới trên phương diện kinh tế. Đến năm 1928 thì không còn sự phân biệt giới tính, mọi người (nam hay nữ) đều có quyền bầu cử như nhau, khi 21 tuổi, thực hiện nguyên tắc phổ thông đầu phiếu.
Kể từ sau các Luật đại diện nhân dân (Representation of the People Act, 1969 và 1970), mọi công dân trên 18 tuổi đều có quyền bầu cử (ngoại trừ các Thượng Nghị sĩ, các tù nhân và các người bị các án tội vi phạm hối lộ bầu cử trong 5 năm trước đó) trong khi đó giới hạn của quyền ứng cử vào Hạ viện là 21 tuổi (ngoại trừ các người ngoại quốc, các Thượng Nghị sĩ, các chức sắc cao cấp về tôn giáo, các bịnh nhân tâm thần, các phạm nhân hối lộ bầu cử, các phạm nhân đã có án tù trên một năm và các phạm nhân vì tội phản bội). Luật loại trừ ứng cử vào Hạ viện (House of Commons Disqualification, 1975) cũng không cho phép ứng cử vào Hạ viện các nhân viên của Nhà nước (thẩm phán, công chức cao cấp, quân nhân và cảnh sát đương nhiệm, các nhân vật đãm nhận các chức vụ trong các Ủy ban trong chính phủ hay trong các tổ chức công quyền).
Mở đầu cho thế kỷ XX và cho triều đại Windsor là một biến chuyển quan trọng, làm căn bản thay đổi thực chất các tranh chấp chính trị ở Anh quốc: Liên hội công đoàn TUC và các khuynh hướng xã hội quyết định hợp nhất tổ chức để thành lập Uỷ ban đại diện lao động (Labour Representation Committee), sửa soạn cho bầu cử Hạ viện năm 1906: Lần đầu tiên Hạ viện có sự hiện diện của giới công nhân. Đảng Tự do thắng cử với một đa số lớn. Uỷ ban đại diện lao động có 26 Nghị sĩ và đổi tên thành Đảng Lao động (Labour Party). Kể từ đó, Đảng Lao động tranh đấu theo chương trình của mình, độc lập với đường lối của Đảng Tự do. Chính trường hoàn toàn thay đổi, nhất là khi hai Đảng Tự do và Bảo thủ đang đi vào các tranh chấp nội bộ, trên nhiều vấn đề. Đảng Bảo thủ chủ trương thống nhất Ireland với Anh quốc và sát nhập các lãnh thổ Transvaal và Orange của dân Boers vào xứ Nam Phi nhưng lại chia rẽ trên chính sách Bảo trợ mậu dịch. Trong khi đó Đảng Tự do lại chia thành ba nhóm: Phe hữu Tự do Đế quốc (Liberal Imperialists, chủ trương thống nhất với Ireland và ủng hộ Nam Phi), Phe Tự do Trung tâm (Midedle of the way Liberals, muốn thực hiện các cải cách xã hội, tranh thủ để giới công nhân khỏi rơi vào ảnh hưởng của Đảng Lao động) và phe Tân Tự do (New Liberal), chủ trương chính sách can thiệp của chính quyền vào lãnh vực quốc phòng và trợ cấp xã hội.
Đảng Tự do tiếp tục cầm quyền cho đến năm 1923 thì mất đa số ở Hạ viện. Vì nhu cầu chiến tranh, năm 1915 Asquith thành lập một chính phủ liên hiệp với Đảng Bảo thủ và Đảng Lao động. Chiến tranh bắt buộc các đảng phái thay đổi lập trường. Đảng Tự do phải từ bỏ nguyên tắc tự do mậu dịch, đưa Lloyd lên thay thế Asquith và lập chính phủ liên hiệp với Đảng Bảo thủ năm 1916, làm tăng sự chia rẽ trong nội bộ Đảng Tự do. Sau chiến tranh, Anh quốc đi vào một thời kỳ khủng hoảng kinh tế, ngoại thương suy giảm, thất nghiệp gia tăng và làm xuất hiện trở lại các đấu tranh nghiệp đoàn. Sự tách rời khỏi Vương quốc của Ireland Tự do làm suy yếu vị trí của Đảng Tự do trong Hạ viện: Sau cuộc bầu cử năm 1923, với 159 ghế, Đảng Tự do mất đa số. Trong khi đó Đảng Lao động, ngay từ năm 1920 đã khôn khéo từ chối sự gia nhập của Đảng Cộng sản để chứng minh với dư luận lập trường ôn hòa của mình, gặt hái được 191 ghế ở Hạ viện và cho phép cầm đầu một chính phủ liên hiệp với Đảng Tự do. Đảng Tự do chỉ còn lại 40 ghế sau bầu cử năm 1924 và 17 ghế sau năm 1935, đánh dấu sự suy tàn của Đảng Tự do. Anh quốc đi vào một con đường lưỡng cực mới, với hai đảng chính yếu: Đảng Lao động và Đảng Bảo thủ thay phiên nhau cầm quyền từ sau thế chiến thứ hai. {13}
Từ năm 1997 đến nay Đảng Lao động cầm quyển, dưới sự lãnh đạo của Tony Blair, đã thực hiện được một số các cải tổ quan trong cho Thượng viện (Constitutional Reform Act,1999, 205), thiết lập quy chế tự trị, thực hiện Quyền Lập pháp địa phương qua các Viện dân cử cho các xứ Scotland, Wales, Northern Ireland để giải quyết các vấn đề địa phương (Luật Scotland Act, Government of Wales Act, Nothern Ireland Act, 1998) và thêm vào Hiến chế Luật nhân quyền (The Humain Rights Act, 1998).
Thể thức bầu cử thực hiện theo lối đơn danh, đa số, một vòng trong mỗi đơn vị địa phương (theo đó ứng cử viên nhận được nhiều phiếu nhất được tuyên bố trúng cử) có nhiều hậu quả. Trước tiên là nguyên nhân thuận lợi đưa đến hiện tượng phân cực lưỡng đảng: các cư tri thường có khuynh hướng "bầu hữu ích" bầu cho các ứng viên có nhiều hy vọng nhất và bắt buộc các đảng chính trị phải liên hiệp với nhau trước khi bầu cử. Sau đó là khuynh hướng thuận lợi cho các vùng tự trị địa phương đồng nhất về sắc tộc (Đó là trường hợp ở các xứ Wales, Scotland và Northern Ireland) nhưng lại bất lợi cho các đảng nhỏ mà số cử tri lại bị phân tán trên toàn lãnh thổ (như trường hợp hiện nay của Đảng Tự do). Nhìn chung, hiện tượng phân cực lưỡng đảng là yếu tố chính cho sự ổn định chính trị. {13}
V, TƯ PHÁP ANH QUỐC.
Dưới các Triều đại Anglo - Saxons, trên Vương quốc Anh có ba hệ thống Luật khác nhau, áp dụng trong ba vùng khác nhau: Luật Đan Mạch áp dụng ở miền Bắc và Đông Bắc, Luật Mercie áp dụng ở vùng trung tâm và Luật Wessex ở miền Nam và miền Tây. Trong mỗi hệ thống, luật pháp lại tuỳ thuộc vào các tập tục của mỗi địa phương.
Sau năm 1066, từ lục địa vượt biển đánh chiếm Vương quốc Anh, William the Conqueror cho đặt quyền bính cai trị và luật lệ khắp nơi nhưng, để yên lòng dân Anglo-Saxons, các toà án mới chỉ từ từ thay thế các toà án cũ ở các địa phương và vẫn tiếp tục áp dụng các Luật theo tập tục cũ. Song song, các tòa án tôn giáo cũng được thành lập, áp dụng Luật Hội Thánh chung cho giới Cơ đốc giáo, đồng thời cũng có thẩm quyền trong lãnh vực hôn nhân và thừa kế. Nhà Vua chỉ trực tiếp hành sử quyền tư pháp tối cao, xét xử các tranh chấp liên quan tới an ninh hay tới các nhân vật cao cấp trong Vương quốc hay khi các tòa án bình thường không tìm được giải pháp.Giúp Nhà Vua điều hành công việc này là Hội đồng Tư vấn (Curia Regis) bao gồm các nhân vật quan trọng trong Vương quốc.
Từ thế kỷ XII, Nhà Vua thường gởi các đại diện của Hội đồng tư vấn đến tham dự và giám sát các phiên toà của các toà án địa phương. Các đại diện này của Nhà Vua, gọi là các Thẩm phán lưu động (Itinerant Judges hay Circuit Judges) họp thành nhiều Uỷ ban: Commission of Goal Delivery (Ủy ban giải tỏa các tù nhân không được xét xử), Commission of Oyer et Terminer (Ủy ban xét xử các tội phản bội Vương quốc), Commission of Assizes (Ủy ban đại hình xét xử các vụ án dân sự và hình sự quan trọng). Đồng thời quyền tư pháp cũng dần dần được tách rời khỏi Nhà Vua và Hội đồng tư vấn và được Nhà Vua uỷ thác cho các Giám mục và các Bá tước và đặt trụ sở ở Westminster, cùng với các Thẩm phán lưu động để phân tích, tổng hợp và tìm kiếm các giải pháp áp dụng cho mọi vùng và thống nhất các luật, dựa trên nguyên tắc tìm kiếm các sự kiện liên hệ tới sự việc được xét xử và tôn trọng các quyết định đã có từ trước. {14 }
Cho đến giữa thế kỷ XIII, bộ Luật phổ thông (The Common Law) được hoàn thành và được áp dụng ở miền Nam và ở xứ Wales. Trong các vùng khác, để tránh các phản ứng của các Lãnh chúa, các toà án của Nhà Vua cũng chỉ được thành lập từ từ ở các địa phương, các Thẩm phán hòa giải (Justices of the Peace - Magistrates) bắt đầu xuất hiện vào cuối thế kỷ XIV, được Nhà Vua và Huân tước Chưởng án bổ nhiệm vào các tòa Magistrates' Courts. Trong mọi trường hợp, với các toà án được thành lập ở Wesminster (La Cour de l'Échiquier, La Cour des Plaids Communs, La Cour du Banc du Roi), các Thẩm phán của Nhà Vua nắm giữ ba lãnh vực chủ yếu: tài chánh trung ương, bất động sản và an ninh quốc phòng. Mọi tranh tụng khác vẫn còn được tiếp tục giải quyết ở các tòa án địa phương cho đến cuối thời trung cổ (giữa thế kỷ XV) mới được hoàn toàn thay thế bằng các Tòa án Nhà Vua, áp dụng Luật phổ thông thống nhất.
Vào thời điểm này, việc xử dụng luật pháp để giải quyết các tranh chấp trong xã hội là một đặc ân và phải qua nhiều thủ tục hành chánh phức tạp, không theo đúng thủ tục thì việc kiện tụng sẽ bị bãi bỏ. Ngoài ra, từ thế kỷ XIV, lại xuất hiện nhiều vụ tranh tụng vượt ra ngoài thẩm quyền của các tòa áp dụng Luật phổ thông. Muốn tiếp cận với pháp đình, người thưa kiện thường phải cầu xin Nhà Vua cho phép xét xử tranh chấp, vì tính cách bất thường và không hợp thủ tục tố tụng. Với danh nghĩa là Suối nguồn của Luật pháp (Fountain of Justice), Nhà Vua lúc đó, không dùng Luật pháp (Luật phổ thông) mà dùng Lương tâm (Conscience) của mình để xét xử theo lẽ Công bình (Equity), tạo ra một hình thức các Luật ngoại lệ, đặc biệt, bất thường...Đến cuối thế kỷ XV, Nhà Vua uỷ nhiệm chức năng luật pháp của mình cho Huân tước Chưởng án (Lord Chancellor), Bô trưởng Tư pháp. Từ đó Bộ Tư pháp cho thành lập một tòa án riêng biệt, goi là Tòa Chưởng án (Court of Chancery), nới rộng các thủ tục, không bị giới hạn vì các thủ tục cứng nhắc của Luật phổ thông và khai triển thêm các giải pháp mới cho những vấn đề cụ thể khác. Tòa Chưởng án hoạt động cạnh tranh song song và tranh chấp với các tòa án áp dụng Luật phổ thông, nhiều khi đi đến những phán quyết đối nghịch lẫn nhau. Diễn ra trong thời kỳ quân chủ chuyên chế toàn trị dưới các Triều đại Tudor và Stewart, các tranh chấp công khai bùng nổ và được James I giải quyết năm 1616, dựa trên nguyên tắc: Khi có tranh chấp vì những phán quyết tương phản lẫn nhau thì phán quyết của Tòa Chưởng án được chính thức áp dụng. {15 }
Đối với các trường hợp tranh chấp theo đó Luật phổ thông không có giải pháp hay đi đến một giải pháp không tương xứng thì giải pháp duy nhất là qua Tòa Chưởng án, sau khi đã xử dụng mọi phương tiện ở các tòa án áp dụng Luật phổ thông.
Cho đến giữa thế kỷ XIX, các Tòa án áp dụng Luật phổ thông cũng bắt đầu xử dụng trực tiếp những giải pháp ngoại lệ đã được trù liệu trong Tòa Chưởng án, trong mục tiêu đơn giản các thủ tục và giảm bớt các chi phí tố tụng. Các giải pháp này sau đó được hợp thức hóa trong các Luật Tư pháp (Judicature Acts, 1873, 1875 và 1881): Các tòa án cao cấp ở Westminster (áp dụng Luật phổ thông) và Tòa Chưởng án được thống nhất lại trong một cơ cấu duy nhất gọi là Tòa Tư pháp tối cao (Supreme Court of Judicature), gồm ba cấp: Các Tòa Sơ thẩm, Tòa Thượng thẩm (Court of Appeal) và Viện Quý tộc (Toà án Tối cao Vương quốc - House of Lords). Các Tòa sơ thẩm gồm có các Tòa án về dân sự (High Court of Justice) và Tòa án Vương quốc (Crown Court, chuyên về Hình sự). Tòa án dân sự gồm ba phỏng: Tòa Nữ hoàng (Chambre du Banc de la Reine), Tòa Chưởng án (Chambre de la Chancellerie) và Tòa Gia đình (Chambre de la Famille). Các Tòa Tư pháp tối cao có thể dùng cùng một lúc cả hai nguồn Luật (Luật phổ thông và Luật ngoại lệ).
Nhìn chung lại, luật pháp được hình thành rất sớm trong lịch sử của Vương quốc và áp dụng cho tất cả mọi người, kể cả Nhà Vua. Nhờ đó mà các tòa án có một vị trí quan trọng, bảo đảm sự độc lập đối với ngành hành pháp. Theo quy ước chung, các thẩm phán không được quyền đóng một vai trò tích cực trong đời sống chính trị và phát biểu lập trường của mình trên những vấn đề đang gây ra các tranh biện tương phản chính trị. Từ sau Luật Thừa kế (1701), Tư pháp mới trở thành độc lập với ngành hành pháp và nhiều lần xác định tính độc lập của mình đối với hành pháp, dựa trên nguyên tắc các thẩm phán phải trừu tượng hoá lập trường chính trị cố hữu của mình khi phán quyết trên một trường hợp đặc biệt. Trong thực tế, tính độc lập này cũng thường bị giới hạn, nhất là khi các thẩm phán cũng thường được bổ nhiệm vào những Uỷ ban điều tra trên những vấn đề lợi ích tổng quát phức tạp. Trong những trường hợp này, các thẩm phán thường phải làm theo khuynh hướng của hành pháp,... Tương tự, Huân tước Chưởng án, nhân vật cao nhất trong hệ thống Tư pháp, cũng là thành viên của Nội các, với tư cách là Bộ trưởng Tư pháp và bắt buộc phải lấy một lập trường chính trị rõ ràng.
Với nguyên tắc dùng các Án lệ như là một nguồn của luật, một phần quan trọng của các luật hiện hành thường là sản phẩm của các thẩm phán, càng làm gia tăng uy tín và tính độc lập của các thẩm phán. Trong khi Nghị viện nắm giữ chủ quyền về lập pháp thì các thẩm phán cũng có chức năng giải thích các luật và xác định tính độc lập của mình đối với lập pháp bằng cách giải thích các Văn bản luật trong một chiều hướng khác với chủ ý của các người làm luật. Các thẩm phán không được phép căn cứ trên các bản tường trình của các Uỷ ban ở Nghị viện để tìm kiếm chủ đích của người làm luật. Tuy nhiên, tính độc lập này cũng có giới hạn vì Nghị viện vẫn nắm giữ toàn quyền về lập pháp. Các Thẩm phán không có quyền tuyên bố tính cách Bất Hợp Hiến của các luật, buộc phải áp dụng các luật mới nhất được Nghị viện thông qua.
Các thẩm phán trong các toà án cao cấp đều do Nữ hoàng bổ nhiệm, dựa trên đề nghị cũa Huân tước Chưởng án (Bộ trưởng Tư pháp) và với sự bảo lãnh của Uỷ ban Tư pháp Thượng viện (Appellate Committee of the House of Lords). Các thẩm phán của toà án tối cao Vương quốc cũng do Nữ hoàng bổ nhiệm nhưng theo đề nghị của Thủ tướng, sau khi tham khảo ý kiến của Huân tước Chưởng án. Với Luật cải tổ Hiến pháp (Constitutional Reform Act, 2005), các Ủy ban Tư pháp Thượng viện và Ủy ban Tư pháp của Hội đồng Tư vấn được thay thế bằng Toà án tối cao (Supreme Court), độc lập với Thượng viện và Huân tước Chưởng án. Các Nghị viên Luật pháp lại tách rời khỏi Thượng viện để trở thành Thẩm phán Toà án tối cao (Justices of the Supreme Court) trong hệ thống tư pháp của Vương quốc và có thẩm quyền vô hạn định. Huân tước Chưởng án không còn chủ tọa Toà án tối cao cũng như được tham khảo ý kiến trong việc bổ nhiệm như trước. Chủ tịch và Phó Chủ tịch của Toà án Tối cao là các vị lớn tuổi nhất, trong khi các thành viên mới khác sẽ được Nữ hoàng bổ nhiệm, theo đề nghị của Thủ tướng.
Sự độc lập của các Thẩm phán thường gắn liền với điều lệ tuyển dụng. Các tòa án trong Vương quốc Anh được chia thành hai loại: Các toà án cấp dưới ở các địa phương và các tòa án cao cấp trên toàn Vương quốc.Các thẩm phán ở các toà án địa phương (Thẩm phán lưu động (Circuit Judges) và Thẩm phán hòa giải (Justices of the Peace - Magistrates) các tòa Magistrates' Courts)) được Huân tước Chưởng án bổ nhiệm với các kỳ hạn nhất định đều có thể bị thải hồi sau kỳ hạn đã định. Các thẩm phán trong các Tòa án cao cấp đều được Nhà Vua bổ nhiệm, theo đề nghị của Bộ trưởng Tư pháp, gần như không thể bị thải hồi, chỉ có thể bị Nhà Vua bãi chức, theo đề nghị của Hạ và Thượng viện (Luật Tòa án tối cao (Supreme Court Act, 1981)). Để bảo đảm thêm sự độc lập, Luật 1981 cũng bảo đảm lương bổng của các thẩm phán toà án cao cấp không thể bị suy giảm hàng năm và trích từ một ngân khoản đặc biệt.
Để bảo vệ tính độc lập, các thẩm phán không thể bị truy tố trong lúc hành xử chức năng và trong giới hạn thuộc về thẩm quyền của mình. Các phán quyết ở các toà án đều có hiệu lực, chỉ có thể bị đình chỉ bởi một phán quyết của một toà cấp trên. Các thẩm phán của các toà án cao cấp (ngoại trừ Toà án tối cao) khi hành xử chức năng và vượt quá thẩm quyền của mình chỉ bi truy tố khi hành động một càch bất lương, trái với lương tâm của mình. Ngược lại, các thẩm phán của các toà án cấp dưới khi hành xử chức năng và vượt quá thẩm quyền của mình đều có thể bị truy tố.
VI, NHẬN XÉT.
Nhìn một cách tổng quát, Hiến chế hiện nay ở Anh quốc rất là phức tạp, về hình thức cũng như về nội dung. Tuy đã được hoàn chỉnh và mang lại cho Vương quốc Anh một chế độ ổn định từ nhiều thế kỷ nay nhưng vẫn còn nhiều cải tổ .
Về hình thức, Hiến chế không được hoàn toàn quy định bằng một Văn bản Hiến pháp thành văn rõ rệt, nhiều vấn đề chỉ được ghi nhận một cách không chính xác như là các tập tục truyền thống, các thông lệ đã được dùng trong quá khứ,... gây nhiều trở ngại và hiểu lầm cho việc giải thích nội dung của Hiến chế. Về nội dung, tuy thực hiện được hầu hết các chức năng cũa các chế độ dân chủ hiện đại nhưng còn chứa đựng nhiều điểm cơ bản cần được cải tổ để bảo đãm tính dân chủ.
- Tính chất dân chủ không được thể hiện qua các thành phần ở Thượng viện và qua các đặc quyền của Hoàng gia.
- Thể thức bầu cử thực hiện theo lối đơn danh, đa số, một vòng trong mỗi đơn vị cử tri, tuy là một yếu tố chính của hiện tượng lưỡng đảng và thuận lợi cho sự ổn định chính trị, nhưng bất lợi cho các chính đảng nhỏ, làm cho Hạ viện không đại diện đúng mức đối với mọi khuynh hướng chính trị.
- Hạ viện là cơ quan duy nhất nắm giữ quyền lực tuyệt đối trong Vương quồc có khả năng làm thay đổi Hiến chế một cách toàn diện (trong một chiều hướng thuận lợi hay bất lợi cho nền dân chủ). Hiến chế ở Anh quốc hiện nay không có một cơ cấu nào, độc lập với quyền lập pháp và hành pháp, có nhiệm vụ kiểm tra hay suy xét tính "hợp lý" của các luật, để bảo vệ các quyền căn bản nhất của người dân. Trong nhiệm kỳ của mình, Hạ viện nắm trọn quyền lực lối cao trong Vương quốc, mọi luật (dân chủ hay phãn dân chủ) đều có khả năng xuất hiện.
- Không có một sự phân quyền giữa lập pháp và hành pháp. Đồng thời, vị trí của Thủ tướng trong Hạ viện và trong Nội các có khả năng đưa đến một sự tập trung mọi quyền lực vao tay một cá nhân.
- Sự phân lập tam quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp chỉ được thực hiện một cách tương đối trong nhiều cơ cấu tổ chức khác. Chức năng của nhiều nhân vật và nhiều cơ cấu khác nhau lại chồng chéo lên nhau.
Năm 1991, Trung tâm Nghiên cứu Chính trị Công cộng (Institute for Public Policy Research), thuộc khuynh hướng Lao động và Tự do - Dân chủ, đã đưa ra một dự án cải tổ: Hiến pháp Vương quốc (The Constitution of the United Kingdom) gồm các điểm chính sau đây:
- Trình bày lại Hiến chế bằng một văn bản Hiến pháp bao gồm mọi khía cạnh về đời sống công cộng, xác định vai trò và quyền hạn của ba thành phần chính của Nhà nước: Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp.
- Thay thế Thượng viện hiện nay bằng một viện thứ hai, hoàn toàn do dân bầu ra.
- Thực hiện thể thức bầu cử theo lối liên danh tỷ lệ cho cả Thượng viện và Hạ viện.
- Xác định vai trò đại diện Vương quốc của Hoàng gia nhưng bãi bỏ những đặc quyền khác của Hoàng gia.
- Thiết lập các Viện dân cử địa phương ở các xứ Scotland, Wales, Northern Ireland cũng như ở 12 vùng còn lại trong Vương quốc để thực hiện quyền lập pháp địa phương.
- Thêm vào Hiến chế một Hiến chương tương tự như bản Hiến chương Nhân quyền Âu châu
Cho đến nay, một phần các đề nghị này được thực hiện: Thành lập Nghị viện địa phương ở Scotland, Wales, Northern Ireland; Hiến chương nhân quyền Âu châu được chấp nhận và quyền tư pháp được tách rời khỏi ảnh hưởng của Thượng viện.
Nhìn chung, trong thực tế hiện tại, các điểm bất lợi nêu ra trên đây về Hiến chế cũng chỉ là những giả thuyết đã không thể xẫy ra ở Anh. Xã hội Anh đã tiến hoá không thể trở về với quá khứ với các hình thức độc quyền. Kể từ khi chế độ nghị viện được hình thành từ nhiều thế kỷ, dân trí trong xã hội ở Anh đã đạt được một trình độ hoàn mỹ, xây dựng một chế độ dựa trên tinh thần phục thiện, tôn trọng lẽ phải, tôn trọng các quyền căn bản của người đối lập để phục vụ lợi ích chung, tránh được các hình thức tranh đấu cực đoan. Các đặc tính này được thể hiện qua mọi tầng lớp người dân và trong mọi khía cạnh của đời sống chính trị, đáng được nhắc lại qua một vài sự việc cụ thể sau:
- Trước tiên là tinh thần tự giác của Hoàng gia, tự đặt mình trên các tranh chấp của các đảng phái chính trị, đóng vai trò tượng trưng và uỷ nhiệm các đặc quyền của mình cho những đại diện trực tiếp của người dân,... đã biến đổi thực chất của chế độ để ngày nay trở thành một chế độ thực sự dân chủ.
- Vai trò trung gian của Xướng ngôn viên Hạ viện và sự thể chế hoá vai trò của chức vụ lãnh tụ đối lập cũng như của chính phủ đối lập trong các sinh hoạt Nghị trường cũng là những yếu tố bảo đảm và củng cố tính dân chủ của chế độ.
- Vai trò độc lập của các thẩm phán cũng nhằm một mục tiêu.
- Sau hết, những lạm dụng quyền lực chắc chắn cũng chỉ là những sự việc tạm thời, không thể đứng vững ở Anh quốc, trước sự trưởng thành của dư luận cùng với các cuộc bầu cử tự do.
Nói đến Anh Quốc, về tổ chức chính trị, là nói đến quê cha đất tổ của Đại nghị Chế (Parliamentary Government), khuôn mẫu của hầu hết các phương thức tổ chức Chính Quyền Tây Âu, cũng như Hoa Kỳ là nơi chôn nhau cắt rốn của Tổng Thống Chế, khuôn mẫu tổ chức hành pháp của một số lớn quốc gia trên thế giới, chúng tôi đã có dịp đề cập đến trong bài Tổng Thống Chế Hoa kỳ.
Nhưng từ ngày Quốc Hội Anh đặt viên đá góc tường, nền tảng cho Đại nghị Chế với câu Nhà Vua ở trong Quốc Hội ( The King in Parliament ), chúng tôi đã có dịp nhắc đền trong bài Quốc Hội, phương thức tổ chức Hành Pháp ở Anh có nhiều diễn biến.
Do đó, một số nhà chính trị học đề nghị thay từ ngữ Đại Nghị Chế bằng Nội Các Chế (Cabinet Government), một số khác bằng Thủ Tướng Chế ( Prime Government).
Sau đây chúng ta cùng nhau tìm hiểu về thể thức tổ chức Hành Pháp tại Anh Quốc cũng như lý do của những từ ngữ được đề nghị trên.
I . SƠ LƯỢC VỀ QUỐC HỘI LƯỠNG VIỆN.
Năm 1066 hoàng tộc Norman từ lục địa Âu Châu, vượt eo biển Manche qua chiếm hòn đảo Anh Quốc. Vua đặt quyền bính cai trị và luật lệ trên khắp tân vương quốc. Các lãnh chúa hàng năm phải nộp thuế cho vua.
Không đầy hai thế kỷ sau đó, năm 1215, các lãnh chúa trong vương quốc, các nam tước ( baron) hợp nhau tại Runnynmede, gần Windsor, cùng đồng ý ký Bản Đại Tuyên Ngôn các Quyền Tự Do ( Magna Charta Libertatum) để đặt yêu sách đối với vua:
- Nếu vua muốn lấy thuế nhiều hơn đã được quy định trong những điều khoản được ký kết,vua cần phải được sự thỏa thuận của Đại Hội Đồng (Magnum Consilium).
- Các nam tước cũng như những người dân tự do khác ( tức không phải dân nô lệ), vua không được đem ra xét xử bằng thẩm phám đoàn gồm toàn quan chức của vua, mà phải được thẩm phán đoàn dân sự xét hỏi, thẩm định và tuyên án.
Nếu chúng ta có thể xem Bản Đại Tuyên ngôn các Quyền Tự Do năm 1215 là tài liệu đầu tiên được viết ra, khởi điểm cho những điều khoản khác sẽ được ghi vào Hiến Pháp Anh Quốc, (có người còn đi xa hơn cho rằng Bản Tuyên Ngôn Tự Do trên dựa vào tinh thần tự do của Bản Tổng Kết Luật Lệ và Phong Tục của Anh Quốc (Tractatus de legibus et Consuetudinibus Angliae của Glan Will khoản năm 1189), thì trái lại Đại Hội Đồng không thể được coi là khởi điểm cho Quốc Hội Anh.
Các thành viên của Đại Hội Đồng là những nhân vật do vua trực tiếp chỉ định ( gồm những lãnh chúa cao cấp và những đấng bậc cao trọng trong giáo quyền).Như vậy Đại Hội Đồng không có tính cách đại diện dân cử của Quốc Hội, một trong ba điều kiện tiên quyết mà chúng tôi đã có dịp nói đến trong bài Quốc Hội .
Đại Hội Đồng chỉ là Hội Đồng Tư Vấn của vua, có đặc tính như các tổ chức của thời các lãnh chúa, kiểu Hội Đồng Thượng Thẩm của Pháp ( Etats Généraux de Paris) hay các tổ chức Quốc Hội Âu Châu trong thời Quân Chủ Chuyên Chế lúc đó.
Đại Hội Đồng của Anh Quốc lúc bấy giờ là tổ chức tư vấn của vua, để góp ý kiến với vua trong nhiều việc như:
- Bàn cãi những vấn đề quốc sự như đối ngoại, lập pháp, thuế má hay phụ cấp, cứu xét các đơn từ thỉnh nguyện, xét xử các vấn đề kiện tụng dân luật cũng như hình luật.
- Một mặt , kể từ ngày Bản Đại Tuyên Ngôn các Quyền Tự Do ra đời, quyền hành của vua dần dà bắt đầu bị đặt điều kiện , mặt khác một vài lãnh chúa uy quyền rất ương ngạnh lắm khi hành động bất cần được sự chấp thuận của vua, như vụ lãnh chúa Simon de Monfort, vào năm 1265 bất cần vua đã tự ý đứng ra triệu tập hai kỵ mã và hai thường dân ở mỗi thôn ấp ( borough) để thành lập Quốc Hội.
Trước tình trạng không mấy sáng sủa đó, nhà vua thấy thay vì mỗi năm phải thu ngân sách từ các lãnh chúa, vua có thể liên lạc trực tiếp với các cộng đồng địa phương, có nguồn lợi dồi dào và bảo đảm hơn lãnh chúa .
- Nhưng với sáng kiến vừa kể, một viễn ảnh mới được phát hiện.Các cộng đồng địa phương, làng xã, thôn ấp một mặt tuyên hứa bảo đảm ngân sách cho hoàng gia khỏi thiếu hụt, nhưng với điều kiện phải được cử người đại diện trực tiếp của họ trước hoàng gia để đạo đạt yêu sách và nhu cầu của họ.Cộng đoàn đại diện của các làng xã , thôn ấp tạo thành Hội Đồng có tính cách đại diện , được dân cử, khác với Đại Hội Đồng của vua cũng như nhiều hình thức Quốc Hội thời Trung Cổ .
Như vậy sự liên hệ giữa vua và làng xã thôn ấp đã được bắt đầu vào thế kỷ 13.
Làng xã thôn ấp tại địa phương là những đơn vị động lực phát triển kinh tế, bảo đảm liên tục cho ngân sách hoàng gia, với tổ chức tự trị về hành chánh.Và như vậy là đại diện của họ là Hội Đồng Đại Diện bên cạnh vua ở Westminster. Nói cách khác, từ thế kỷ 13 như vừa nói, họ đã cử người vào Quốc Hội với ý nghĩa hiện đại của chúng ta .
Còn nữa, theo gương của Simon de Monfort, năm 1295 vua Edward I, muốn cho Quốc Hội có nhiều đại diện của mọi tầng lớp quần chúng, đứng ra triệu tập Quốc Hội Kiểu Mẫu, gồm- thành phần các huân tước ( Lords),- các đấng bậc cao trọng trong tôn giáo (hai thành phần nầy được vua đứng ra chỉ định),- hai kỵ mã cho mỗi làng xã,- hai người dân tự do ( không phải dân nô lệ) cho mỗi thôn xóm hoàng gia và đại diện các giáo sĩ hạ cấp .
Nhưng Quốc Hội Kiểu Mẫu của vua Edward I kéo dài không được bao lâu.Bởi lẽ từ nửa thế kỷ 14 trở đi, hai nhóm quân tước và đấng bậc cao trọng giáo sĩ bắt đầu có những cuộc hợp riêng rẽ, vì có nhu cầu và lợi thú riêng thuộc giai cấp và giới chức của họ, tách rời nhóm đại diện làng xã thôn ấp, vì quyền lợi và nhu cầu của các nhóm khác biệt nhau.
Như vậy Quốc Hội Kiểu Mẩu tự chia thành hai nhóm, nhóm Thượng Viện và nhóm Hạ Viện.
Sự việc Quốc Hội trở thành Lưỡng Viện do những cuộc nhóm hợp riêng như vừa kể bắt đầu từ năm 1351.
Khác với hình ảnh thông thường mà chúng ta thấy tại Quốc Hội các nước, Quốc Hội nhóm trong một thính phòng hình bán nguyệt, ở Quốc Hội Anh quốc Quốc Hội nhóm trong một thính phòng hình chữ nhật.Ở phía cuối phòng trên bậc cao là bàn của vị Xướng Ngôn Viên ( Speaker), phía dưới, thấp hơn là bàn của các vị Thư Ký.Bên phải của vị Xướng ngôn Viên là những dãy bàn của các vị đại biểu phe thân chính phủ.Dãy bàn thứ nhất dành cho các Bộ Trưởng hay nhân viên chính phủ.
Phía trái của Xướng Ngôn Viên là những dãy ban dành cho những vị lãnh đạo các chính đảng đối lập. Theo ngôn ngữ của người Anh, nếu đương kim chính phủ được gọi là Chính Phủ Hành Quyền ( Executive Government) , thì thành phần đối lập được gọi là Chính Phủ Trong Bóng Tối ( Shadow Government).
Trong Quốc Hội Chính Phủ Hành Quyền có nhiệm vụ đưa ra đường lối, chương trình chính trị cho đất nước, thì Chính Phủ Trong Bóng Tối cũng có nhiệm vụ phê phán và đưa ra những đường lối , dự án mới cho Chính Phủ trong tương lai để dân chọn lựa trong kỳ bầu cử tới.
Do đó trong tinh thần dân chủ của người Anh, thành phần đối lập cũng cần thiết cho dân chủ không kém gì thành phần chính phủ đương nhiệm.
Vì thế, phe đối lập luôn luôn được phe đương quyền kêu gọi đối thoại một cách kính cẩn: Các Ngài Phe Đối Lập ( Her Majesty Opposition).
Trước nhiều vấn đề hệ trọng, việc Thủ Tướng Chính Phủ đương quyền tham khảo ý kiến phe đối lập trước khi quyết định là thể thức hành pháp dường như bắt buộc.
Trong các phiên họp tranh cãi tại Quốc Hội, vị đại biểu phát biểu ý kiến không trực tiếp nói thẳng với phía bên kia hay với một vị đại biểu khác đồng đảng với mình, mà luôn luôn quay về nói với vị Xướng Ngôn Viên, để vị nầy , sau khi thấu hiểu và thâu thập ý kiến của Quốc Hội, sẽ đến trình bày lại với vua.
Và có lẽ do vị trí của phe thân chính phủ và phe đối lập ở bên phải và bên trái vị Xướng Ngôn Viên, mà từ ngữ hữu phái và tả phái phát xuất từ đó ( vì tầm hiểu biết về lịch sử của chúng tôi có hạn, mong các bạn độc giả , nhứt là các bậc đàng anh dạy bảo thêm cho, xin cám ơn).
Theo tục lệ, kể từ ngày các làng xã, thôn ấp cử người vào Quốc Hội, xác thực hơn kể từ ngày Simon de Monfort gọi dân chúng ở thôn ấp ngồi vào Quốc Hội năm 1265, hay xác thực hơn nữa từ ngày Hạ Viện bắt đầu hoạt động, giữ vai trò chính yếu ( tính đến 1965 là đúng 700 năm), mọi dự án được đem ra bàn thảo trong Quốc Hội phải được đọc đi đọc lại đến 3 lần.Sỡ dĩ phải đọc lại đến 3 lần là vì các đại diện của Quốc Hội Simon de Monfort phần lớn là dân quê, nông dân mù chữ được chọn từ các thôn ấp.Thói quen đọc 3 lần đó, Quốc Hội Anh vẫn còn giữ đến ngày nay, mặc dù mục đích cũng như hoàn cảnh đã thay đổi:
- Lần thứ 1: Tường trình các dự án.
- Lần thứ 2: Quốc Hội bàn thảo chung sau khi nghe đọc lại, sau đó tùy theo lãnh vực của vấn đề, dự án sẽ được giao cho các Ủy Ban Chuyên Môn (Select Committees) cứ xét.
- Lần thứ 3: Sau khi Ủy Ban liên hệ xem xét tường tận các dự án, Quốc Hội sẽ nhóm hợp phiên khoáng đại, trong đó Ủy Ban Chuyên Môn sẽ đọc lại một lần nữa nguyên bản của dự án cùng với những ý kiến và phương thức thực hiện để Quốc Hội biểu quyết.
II - QUỐC HỘI, HIẾN PHÁP VÀ BẦU CỬ.
Trong bài nói về Hiến Pháp, có lần chúng tôi đã trình bày : Nếu Anh Quốc là Quốc Gia tiền phong đặt khuôn mẫu và thể thức cho cả toà nhà Quốc Hội Dân Chủ cho các nước Tây Âu, thì đối với Hiến Pháp Anh quốc không phải là mẫu mực để các nước dân chủ Tây Âu bắt chước.Bởi lẽ Anh Quốc không có một Hiến Pháp được viết ra trên giấy trắng mực đen tất cả những điều khoản, nguyên tắt nền tảng và thể thức tổ chức cho cơ cấu quốc gia như Hiến Pháp của các nước Tây Âu , kể cả Hoa Kỳ.
Nói như vậy không có nghĩa là Anh Quốc không có Hiến Pháp.Nói cách khác, các điều khoản của Hiến Pháp Anh Quốc không được ghi chép vào một bản văn duy nhứt, mà hàm chứa trong các văn bản được viết trải qua dòng lịch sữ thăng trầm của chính trị, xã hội , kinh tế của xứ sở:
- Hàm chứa trong các điều khoản luật pháp của làng xã, thôn ấp, ngay cả trước khi hoàng gia Norman đến chiếm hòn đảo Anh, được gọi là Luật Pháp Thông Thường (Common Law),- hàm chứa trong các lời tuyên án của các vị thẩm phán ( Cases),- hàm chứa trong các cư xử theo thói quen, tập quán của dân chúng (consuetudinary law).
Như trên chúng ta đã đề cập là văn bản đầu tiên được viết ra một cách rõ rệt , khởi đầu cho một vài nguyên tắc của Hiến Pháp Anh là Bản Đại Tuyên Ngôn các Quyền Tự Do ( Magna Charta Libertatum), từ giữa thế kỷ 13, lúc các làng xã, thôn ấp bắt đầu có đại diện trực tiếp với vua.Nói cách khác Hạ Viện bắt đầu mặc cả , đặt điều kiện với vua, biến những lời thỉnh nguyện thành những đòi hỏi , những dự án luật , những đòi hỏi dân có quyền mà nhà vua phải nhượng bộ ( Bill of Rights):
..Nếu nhà vua không ra sắc luật cho dân được quyền .., Quốc Hội sẽ không phê chuẩn dự khoản thuế mà vua dự liệu cho ngân sách .
Trong hai thế kỷ 15 và 16, nhiều cuộc chạm trán giữa Quốc Hội và Hoàng Gia đã đến độ căng thẳng, nhứt kà đối với Hoàng Gia Tudor.Sau cùng, căng thẳng đến độ các vị vua của Hoàng Gia Stewart nhiều lần định phủ quyết các quyết định của Quốc Hội, dựa vào truyền thống cố hữu.
- Vua thay Trời trị dân ,- luật của vua là ý muốn của Trời ,- vua không bị luật lệ nào ràng buộc ( legibus solutus).
Cuộc chạm trán còn kéo dài đến thế kỷ 17 - Năm 1628 vua Charles I đã phải chấp nhận Bản Văn Đòi Hỏi Các Quyền Lợi ( Bill of Rights),
- Và năm 1679 Sắc Luật Bảo Vệ Cơ Thể (Habeas Corpus Act) cũng được vua phê chuẩn , trong đó có điều khoản luật cấm bắt bớ giam cầm một cách vô cớ .Ngoài ra trong Bản Văn Đòi Hỏi Các Quyền Lợi được vua William và Hoàng Hậu Marie d'Orange ấn ký, vua và hoàng gia đều phải tuân giữ luật lệ như mọi người dân.
Với hai sắc luật vừa kể, chúng ta có thể coi là Quốc Hội chiếm lấy quyền thượng đẳng của Quốc Gia trên cả Vua và Hoàng Hậu.
Với Sắc Luật về Quyền Kế Vị (Act of Settlement) năm 1701, quyền thừa kế của Hoàng Gia không phải do thần quyền , mà do Quốc Hội quyết định.
Bắt đầu từ thế kỷ 18 trở đi, nhà vua không còn được quyền phủ quyết các quyết định của Quốc Hội nữa. Các dự án luật được đệ trình lên vua để vua ấn ký và trở thành luật đều được vua chuẩn y bằng những thành ngữ theo pháp ngữ cỗ, nói lên nguồn gốc Pháp Quốc Norman của Hoàng Gia:
- Nhà vua đồng ý ( le roi le veut)
- « Hãy thi hành như dự án luật muốn » ( soit fait come il est desiré).
Và nếu những dự án luật về ngân sách cho vua, thì vua sẽ phê chuẩn như sau :
- « Vua cám ơn các con dân tốt lành của Ngài, chấp nhận lòng tốt của họ và như vậy Ngài chấp nhận »( Le Roi remercie Ses bons sujets, accepte leur bénévolence, et ainsi le veut).
Ngoài ra những bản văn được viết ra một cách rỏ rệt như vừa trích dẫn kể trên với ngày tháng, Hiến Pháp Anh Quốc cũng hàm chứa nhiều bản tuyên án của các phiên tòa ( Cases).
- Bản Tuyên Án về Đặc Quyền của Hoàng Gia ( Case of Proclamations) năm 1611- hay Bản Tuyên Án Chống Lại Ngân Hàng Anh Quốc ( Bowles v. Bank of England) về vấn đề tài chánh,- cũng như nhiều Bản Án về dân luật cũng như hình luật được người dân Anh coi là những điều khoản nguyên tắc của Hiến Pháp. Do đó, một cách nào đó, các vị thẩm phán được coi là những vị cố vấn cho Quốc Hội Lập Hiến , cũng như Quốc Hội Thường Nhiệm trong việc soạn thảo ra dự án cũng như trong việc quyết định luật pháp .
Và sau cùng, những cách hành xử trong dân chúng theo tập tục, truyền thống cũng được người Anh coi là những điều khoản của Hiến Pháp để tổ chức xã hội của họ .
Việt Nam chúng ta có câu : Phép vua thua lệ làng hoặc
Quan có cần nhưng dân không vội,Quan có vội, quan lội quan đi .
Ở phần trên, chúng ta có đề cập đến việc các làng xã, thôn ấp ngay từ thế kỷ 13 đã bắt đầu cử người đại diện trực tiếp và thường trực của mình trước hoàng gia, nếu vua muốn được dân chúng trả thuế để bảo đảm cho ngân sách hoàng gia khỏi thiếu hụt.
Điều kiện của dân chúng là: Không cho dân chúng có đại diện, thì không trả thuế (no taxation without representation).Và nhà vua vì nhu cầu tài chính đã phải chiều ý dân.Từ đó làng xã thôn ấp có quyền cử người đại diện trực diện với vua.Các người đại diện của dân , cùng với các huân tước, các đấng bậc cao trọng trong tôn giáo ( do vua chỉ định) hợp thành Quốc Hội. Rồi vì nhu cầu và quyền lợi khác biệt, Quốc Hội duy nhứt lúc đầu đã tách ra thành Lưỡng Viện Quốc Hội.
Nhưng chúng ta sẽ vấp phải lỗi lầm lớn, nếu chúng ta nghĩ rằng việc tuyển cử các đại biểu từ làng xã, thôn ấp có tính cách bầu cử đại chúng ( universal suffrage) như hiện nay.Trên thực tế, lúc đó các ứng viên cũng như cử tri đều bị giới hạn bởi nhiều khó khăn.
Theo ước tính, lúc đầu những người có quyền bầu cử và ứng cử không quá 4% dân số.Để giới hạn quyền bầu cử, vua lật ngược lại câu đòi hỏi trên của dân: Không đóng thuế thì không có quyền được đại diện ( no representation without taxation).
Và những ai được coi là bảo đảm có khả năng đóng thuế, là những địa chủ, có đất đai ( theo quan niệm sở hữu thời trung cổ) .
Bởi vì chỉ có địa chủ ( theo quan niệm vừa kể) mới có đất đai, có lợi tức hàng năm vững chắc, đáng được tin cậy để giao cho việc quản trị hành chánh địa phương, có khả năng vô tư để xử những vụ kiện tụng nhỏ tại địa phương ( process by jury) và hành xử quyền đại diện của mình tại Quốc Hội Wesminster một cách vô vị lợi.
Nhiều người có những nguồn lợi khác, nhứt là trong thời gian kỹ nghệ Anh Quốc phát triển, không thiếu người đã trở thành giàu có gấp mấy lần địa chủ nhờ những nguồn lợi về thương mại và kỹ nghệ, vẫn không được quyền tuyển cữ và còn bị nghi ngờ là làm giàu bất chính, nếu nguồn tài lực của họ không biến thành sự giàu có cụ thể bằng việc mua lấy đất đai ( landed property) .
Và cũng vì phát triển kỹ nghệ mà một số thôn ấp bị dân chúng bỏ trống hay Thôn ấp ( Rotten Boroughs), nhưng vẫn được có đại diện ở Quốc Hội, trong khi đó thì nhiều khu vực mới, nhứt là những làng mạc đông đúc dân cư chung quanh khu kỹ nghệ vẫn không được có đại diện.Một trong những Thôn ấp được huân tước Russell, đại diện cho nhóm cải cách Quốc Hội đưa ra, đó là trường hợp Old Sarum, chỉ còn có 3 địa chủ , vậy mà cũng có đại diện ở Quốc Hội.Nhiều trường hợp như vậy đã được đem ra bàn cãi ở Quốc Hội để sửa đổi.Với Sắc Luật Bảy Năm , năm 1715, rồi đến Sắc Luật về Quốc Hội năm 1911, nhiệm kỳ Quốc Hội được thu ngắn lại 5 năm .
Với Sắc Luật Cải Tổ Qui Mô ( Great Reform Act) năm 1911, Quốc Hội phân chia lại lãnh thổ Anh Quốc thành nhiều đơn vị bầu cử mới, sau khi đã loại bỏ 56 Thôn ấp được kiểm chứng .
Đối với phụ nữ, cho mãi đến năm 1832, thể chế tuyển cử Anh quốc vẫn còn giữ thái độ nam tôn nữ ty. Năm 1832, với Sắc Luật Đại Cải Cách trước đó vẫn chưa cho phép phái nữ Anh Quốc được bỏ phiếu. Phái nữ phải chờ mãi đến năm 1918, với Sắc Luật Đại Diện Dân Chúng (Representation of the People Act) mới được đi bỏ phiếu, nếu họ có trên 30 tuổi.
Và năm 1928, với Đạo luật Nội Quy các cô 21 tuổi lần đầu tiên mới được đi bỏ phiếu .
III - HOÀNG GIA, CHÍNH PHỦ VÀ DÂN CHÚNG.
Qua những dòng lịch sử vừa trình bày trên, chúng ta thấy rằng quyền thế của vua càng ngày càng bị giảm bớt đi song song và ngược chiều với tiến trình lớn mạnh quyền lực của Quốc Hội.
So với uy quyền của các Vị Nguyên Thủ Quốc Gia tại các nước theo Đại Nghị Chế, quyền hành của vua ( hiện nay , của Nữ Hoàng Elisabeth) Anh Quốc bị thu gọn lại rất nhiều, nhưng uy thế của vua được dân chúng rất kính nể và thương mến.
Nhà vua hiện là biểu tượng cho sự đoàn kết quốc gia, cũng như tượng trưng cho sự hợp tác trong khối Thịnh Vượng Chung ( Commonwealth).
Đặc quyền mà Hiến Pháp qui định cho vua hiện nay được ghi như sau:
Quyền được hỏi ý kiến, quyền kích lệ, cảnh giác những mối nguy hiểm đối với bất cứ quyết định nào ( The right to be consulted, the right to encourage, the right to warn).
Hiện nay Hoàng Gia vẫn có một Hội Đồng Tư Vấn ( Privacy Council) gồm 300 thành viên.Nhưng trừ những cuộc Đại Lễ hoặc các cơ hội đặc biệt, ít khi Hội Đồng hội hợp đủ mặt.Trong các thành viên Hội Đồng Tư Vấn, một số người giữ chức vụ tương đương với nhiệm vụ của các Bộ Trưởng Chính Phủ.Hội Đồng Tư Vấn đã bắt đầu làm việc bên cạnh vua từ khoảng năm 1600 trở đi.
Năm 1701 Sắc Luật về Quyền Kế Vị cấm không cho vua chọn thành viên của Hội Đồng Tư Vấn từ các đại diện dân cử làng xã thôn ấp.Nói cách khác, chọn từ các đại biểu của Hạ Viện, sợ vua có thể mua chuộc họ để thao túng, lũng đoạn Quốc Hội.Một tu chính án cho sắc luật trên được biểu quyết năm 1707 đồng thuận cho vua được chọn thành viên của Hội Đồng Tư Vấn giữa các Hạ Nghị Sĩ, nhưng những người được chọn đương nhiên ( ipso facto) sẽ bị mất chức Dân Biểu Quốc Hội.
Muốn trở thành Nghị Sĩ lại, họ phải trãi qua một cuộc bầu cử trở khác.Và những sắc luật tu chính kế tiếp năm 1919, 1926 và 1936 ( Reelection of Ministers Act) bãi bỏ điều khoản bó buộc vừa được nêu lên.Các vị Bộ trưởng cũng như các nhân vật trong Chính Phủ vẫn là Nghị Sĩ của Hạ Viện ( một đặc tính của Đại nghị Chế, ngược với nguyên tắc phân chia quyền lực trong Tổng Thống Chế Hoa kỳ).
Trong quá khứ, từ ngày bắt đằu có Hội Đồng Tư Vấn ( từ năm 1600 trở đi), các vị đặc trách cơ quan mình ấn ký các quyết định của cơ quan bên cạnh con dấu và chữ ký của vua (cùng với những công thức bằng pháp ngữ cỗ chúng ta đã thấy ở trên) để xác nhận với vua rằng việc thực hiên quyết định vừa kể, vị Bộ trưởng đặc trách chịu trách nhiệm trước mặt vua.Bởi lẽ theo truyền thống Anh,
- Nhà Vua không bao giờ sai lầm hay làm sai ( The King can do no wrong),
- Nhà Vua không thể tự mình làm lấy ( The King can not act alone).
Nhưng dần dần với các tiến trình song song và ngược chiều về các lãnh vực quyền hành giữa vua và Quốc Hội , như đã nói, ấn ký của Vị Bộ Trưởng có nghĩa là trong trường hợp hành động sai lầm hay bất chính, Bộ trưởng có thể bị Hạ Viện truy tố và Thượng Viện xét xử.
Từ thế kỷ 18 trở đi, nhà vua càng ngày càng ý thức rằng Hội Đồng Tư Vấn, nhứt là các Vị Bộ Trưởng có nhiệm vụ hành pháp trực tiếp.Nhưng muốn thực hiện nhiệm vụ của mình, tức là cai trị đất nước một cách có hiệu quả, cần được sự đồng thuận và tín nhiệm của quốc Hội.Dần dần Quốc Hội bỏ đi thói quen truy tố ( Bill of Attainder) sau khi xét hành động của Vị Bộ Trưởng hay thành viên của Chính Phủ.
Thay vào đó Quốc Hội tỏ thái độ cho vua biết Vị Bộ trưởng hay thành viên liên hệ có được Quốc Hội tín nhiệm hay không.Trong trường hợp bị Quốc Hội bất tín nhiệm , vị Bộ trưởng liên hệ phải từ chức (trường hợp của Lord North, Thủ Tướng Chính Phủ dưới thời vua George III , năm 1782). Đặc tính của Đại Nghị Chế hiện hành.
Như chúng ta vừa nói, Hội Đồng Tư Vấn của vua gồm khoảng 300 thành viên để giúp vua trị nước.Nhưng trên thực tế, chỉ có một số thành viên của Hội Đồng giữ những chức tương đương với các Bộ Trưởng Chính Quyền hiện hữu.
Những thành viên Bộ trưởng nầy thường được vua gọi riêng thành một Hội Đồng Thân Tín ( Inner Council).Và vì lý do quan trọng và bí mật của nhiều vấn đề Hội Đồng Thân Tín thường được vua gọi đến hợp riêng với vua trong một căn nhỏ phòng dành riêng (Cabinet).Do danh từ căn phòng nhỏ dành riêng đó , mà những Chính Phủ có thể chế Hành Pháp gồm các Bộ Trưởng đồng hợp nhau để quyết định, được các nhà chính trị học tạm gọi là Nội Các Chế .
Sau khi Nữ Hoàng Anne Tudor mất đi, năm 1714 vua George Tudor, dòng dõi người Đức, sinh trưởng ở Hannover, sang Anh kế vị.
Vua George không biết tiếng Anh, chỉ nói được một cách không trôi chảy tiếng La Tinh, nên dần dần không mấy thích thú chủ toạ các buổi hợp của Hội Đồng Tư Vấn, nhứt là các buổi hợp của Hội Đồng Thân Tín hay Hội Đồng Nội Các .
Từ đó, cần có một vị trong các Bộ trưởng tham dự các buổi họp của Hội Đồng Thân Tín hay Hội Đồng Nội Các, sau các buổi họp , đến tường trình lên vua những điều Nội Các quyết định.
Thường Vị Bộ trưởng được chọn giữ nhiệm vụ nầy là Bộ trưởng Tài Chánh hay ngân Khố ( Treasure Lord). Việc vua không còn tham dự trực tiếp các phiên họp của Hội Đồng Nội Các, đưa đến sự kiện trên thực tế chỉ có Nội Các quyết định và hành xử quyền bính : Vua chỉ có quyền hành theo hình thức ( formalis) trên giấy tờ mà thôi.
Qua hai sự kiện vừa kể, Hội Đồng Tư Vấn và Hội Đồng Thân Tín hay Nội Các phải được Quốc Hội tín nhiệm mới hành xử quyền bính giúp vua trị nuớc một cách hữu hiệu và việc Nội Các tự nhóm họp và quyết định lấy mọi vấn đề hành quyền, quyền Hành Pháp của thể chế quân chủ độc tôn trong quá khứ dần dà được chuyển qua Quốc Hội và rồi Quốc Hội, với quyền chuẩn y hay bác bỏ ( xem bài Quốc Hội ) và qua thể thức tín nhiệm hay bất tín nhiệm , còn cầm giữ cả quyền hành pháp trong tay.
Nói cách khác Quốc Hội, cơ quan dân cử, là tiếng nói của dân, đại diện cho lý tưởng, nhu cầu và ước vọng của dân, là cơ quan định chế, hướng dẫn và kiểm soát cho thực hiện đường lối chính trị Quốc Gia. Đó là đặc tính then chốt của Đại Nghị Chế.
Nhưng trên thực tế Nội Các hay Hành Pháp mới là cơ quan hành xử quyền hành để thực hiện, mà Quốc Hội đồng thuận hay bác bỏ đó, theo thể thức Đại Nghi Chế.
Do đó mà câu hỏi được đặt ra, chúng tôi nêu lên ở phần đầu bài, thể chế trong đó Quốc Hội có quyền ( thực sự) chuẩn y hay bác bỏ đối với luật lệ , tín nhiệm hay bất tín nhiệm đối với Chính Phủ, còn việc hành xử quyền bính trong công việc thường nhật là do Chính Phủ thi hành, thể chế đó nên gọi là Đại nghị Chế (Parlamentarism Government) hay Nội Các Chế ( Cabinet Government).
Kế đến, với sự kiện một trong các Vị Bộ Trưởng của Hội Đồng Nội Các được lựa chọn với nhiệm vụ thân hành đến tường trình lại với vua những quyết định của phiên họp, dần dần các Vị Bộ Trưởng trong Nội Các xem Vị Bộ trưởng được tuyển chọn như là Thủ Lãnh của Nội Các, nhứt là vào năm 1721 Sir Robert Walpole được tuyển cử như là Vị Lãnh Đạo của Hội Đồng, Vị Bộ Trưởng trên các Bộ Trưởng hay Vị Thủ Tướng lãnh đạo Hội Đồng Nội Các. Tư tưởng Thủ Tướng là Vị Lãnh Đạo Tối Cao của Hội Đồng Nội Các được nhà chính trị học Jenning ghi lại như sau:
Ngài là Vị Thủ Tướng, bởi vì trổi vượt hơn các Vị Bộ trưởng khác, chứ không phải trổi vượt vì ngài là Thủ Tướng ( He is Prime Minister , because he is supremen, not supremen because he is Prime Minister).
Điều đó nói lên tài năng và đức độ của Vị Bộ trưởng sẽ được chọn lên làm Thủ Tướng để hướng dẫn Nội Các.
Hình ảnh của Vị Thủ Tướng thể hiện càng ngày càng rõ rệt cho việc hành xữ quyền hành và bảo đảm tình trạng vững chắc cho Chính Phủ hay Nội Các do ông lãnh đạo.Hình ảnh của Vị Thủ Tướng lâu bền , trong Chính Phủ do Robert Walpole đảm nhiệm ( 1721-1742) vẫn được xem là tiêu biểu cho Chính Phủ Đại Nghị Chế, Nội Các Chế hay Thủ Tướng Chế của Anh Quốc.Hiện nay theo thông lệ, Thủ Tướng được vua ( hay Nữ Hoàng) chỉ định là người lãnh đạo của chính đảng chiếm đa số ghế trong Quốc Hội.Rồi chính Thủ Tướng đứng ra chọn các Bộ Trưởng cho Nội Các của ông trong số các nghị Sĩ trong quốc Hội .
Nói cách khác, trong Đại Nghị Chế hiện nay, Thủ Tướng Chính Phủ là người được Quốc Hội tuyển chọn và Tổng Thống, vị Nguyên Thủ Quốc Gia bổ nhiệm.
Đó cũng là một đặc tính nữa của Đại Nghị Chế.
Và như trên đã nói, các Bộ Trưởng được chọn giữa các Nghị Sĩ ( nhờ các Sắc Luật Tu Chính Án năm 1919, 1926 và 1936) vẫn không mất quyền đại biểu của họ ở Quốc Hội.Họ vừa là Dân Biểu trong Quốc Hội, vừa là Bộ trưởng trong Chính Phủ ( lằn mức phân quyền trong Đại Nghị Chế không xác định rỏ rệt như trong Tổng Thống Chế là vậy.Thể thức phân quyền , kiểm soát và cân bằng trong Đại nghị Chế được tổ chức ngay trong lòng Quốc Hội, giữa thành phần đa số ủng hộ Chính Phủ đương quyền và thành phần thiểu số đối lập, một đặc tính nữa của Đại Nghị Chế, mà chúng tôi đã có dịp đề cập đến trong bài Thiểu Số Đối Lập, Hiến Pháp Cộng Hoà Liên Bang Đức).
Vị Thủ Tướng được chỉ định là người lãnh đạo chính đảng chiếm đa số trong Quốc Hội.Để bảo đảm cho Nội Các do mình lãnh đạo được vững mạnh, ông chọn lựa các Bộ trưởng từ các Dân Biểu cùng đảng phái đa số của ông để tham gia vào Nội Các Chính Phủ trong suốt nhiệm kỳ hành pháp do luật pháp quy định. Ngoại trừ vì lý do nào khác, với các Dân Biểu đồng đảng của Thủ Tướng khó mà xảy ra chuyện giữa đường gảy gánh tương tư , không ủng hộ ông nữa, bắt buộc ông phải từ chức.
Quốc Hội có quyền bất tín nhiệm bắt buộc Chính Phủ phải từ chức.
Ngược lại Chính Phủ cũng có quyền yêu cầu Tổng Thống ( nhứt là khi có sự đồng thuận của Tổng Thống và Thượng Viện, như Hiến Pháp Cộng Hoà Liên Bang Đức xác nhận, chúng tôi sẽ đề cập đến trong bài Chính quyền Cộng Hoà Liên Bang Đức, cơ chế chống độc tài và bất ổn , giải tán Quốc Hội trong trường hợp những xung khắc giữa Quốc Hội và Chính Phủ không còn cách nào giải quyết được.
Như vậy việc Chính Phủ có quyền yêu cầu giải tán Quốc Hội là việc làm để tránh cho quyền hành của Quốc Gia bị tê liệt và trao trả quyền quyết định lại cho toàn dân qua cuộc tuyển cữ mới .
Nhưng việc giải tán Quốc Hội không được các nhà chính trị học Anh Quốc coi như là quyền hạn của Hành Pháp ( Chính Phủ) đứng ra thi hành, mà là qua vị Thủ Tướng truất phế Quốc Hội.Thủ Tướng là người hiểu rỏ tình trạng đất nước, do việc hành xử quyền hành của ông. Đàng khác ông cũng là thành viên của Quốc Hội ( Thủ Tướng cũng như các Vị Bộ Trưởng trong Nội Các Chính Phủ là những Dân Biểu Quốc Hội), nhận thấy thành phần và đường hướng Quốc Hội như hiện thời không thể đáp ứng được nhu cầu của đất nước. Ông đệ trình lên vua, Vị nguyên Thủ Quốc Gia, để ngài giải tán Quốc Hội mà luật pháp đã quy định cho ngài .
Nhiều người bi quan cho rằng quyền yêu cầu giải tán Quốc Hội được giao cho Thủ Tướng như vừa kể có thể đi đến lạm dụng.
Thủ Tướng có thể nhận thấy tình hình chính trị, thực trạng xã hội có thể đem lại cho chính đảng ông nhiều phiếu hơn, nếu Quốc Hội bị giải tán và tổ chức lại bầu cử sau đó. Tư tưởng không mấy sáng sủa trên bị Thủ Tướng Disraeli đối chất. Ông đã không nghe theo lời các quân sư quạt mo xúi bậy giải tán Quốc Hội với mưu đồ vừa kể. Và sau đây là lý do của ông:
Một vị Thủ Tướng chiếm đa số sự ủng hộ ở Quốc Hội ( Hạ Viện) không có lợi gì tự nhiên đứng ra giải tán Quốc Hội với mục đích để đạt được thắng lợi ở những cuộc đấu sức dựa vào những hoàn cảnh tạm bợ hiện tại ( A Minister with a large majority in the House of Commons has no business to disolve merely with the object gaining an advantage at the polls due the transitory circumstances) .
Trong tâm thức và ngôn ngữ của ngưới Anh, Quốc Hội ( như trong thành ngữ Nhà Vua ở trong Quốc Hội ) , gồm có Vua và Quốc Hội Lưỡng Viện để quyết định và hành xử quyền bính quốc gia.Trên thực tế và qua các diển biến lịch sử mà chúng tôi có dịp nhắc đến ở trên, quyền lực quốc gia được Quốc Hội hành xử chỉ là Quốc Hội Hạ Viện. Do đó để nói đến Quốc Hội, nhiều lúc thay vì dùng danh từ Parliament, người Anh thường dùng Tòa Nhà của các Đại Diện Xã Ấp ( House of Commons) .
Như chúng ta đã có dịp đề cập đến, từ thế kỷ 18 trở đi, dường như nhà vua không bao giờ từ chối chẩn y các quyết định do Quốc Hội đã biểu quyết ( bằng những thành ngữ của pháp văn cổ ).Do đó quyền lực quản trị Quốc Gia chỉ còn thu gọn vào Quốc Hội Lưỡng Viện ( Đại Nghị Chế hay Quốc Hội Chế , Parliamentarism, là vậy).
Thượng Viện ( Chamber of Lords) được đặt dưới quyền chủ toạ của Vị Huân Tước Chưởng Án ( Chanceller of Lords).
Cho đến thế kỷ 18, phần lớn các ghế trong Hạ Viện, được ủy thác cho các Dân Biểu, đại diện làng xã, thôn ấp và phải được Thượng Viện đồng thuận.Điều kiện vừa kể, hiện nay, không được Quốc Hội đặt ra nữa. Và Thượng Viện chỉ còn quyền hành rất hạn hẹp.Nói đúng hơn, Thượng Viện Anh Quốc hiện nay là viện để các quyết định Quốc Hội được suy nghĩ thêm cặn kẽ hoặc là cơ quan để trì hoản thêm thời gian để vấn đề được chín mùi trước khi thực hiện.
Thành viên của Thượng Viện cho đến nay vẫn không thay đổi, có khoảng 1200 người :
- Trong đó có 800 Huân Tước được giữ chức cha truyền con nối,
- 26 của tôn giáo gồm 2 Tổng Giám Mục và 24 Giám Mục.
- Kế đến 21 Huân Tước Luật Pháp, là những Vi Thẩm Phán có nhiều công trạng được vua chỉ định có giá trị suốt đời.
- Và với Sắc Luật Quý Tộc Suốt Đời năm 1958 ( Life Peerage Act ) khoảng 330 nhân vật có công được vua phong lên hàng quý tộc sẽ là thành viên của Thượng Viện.
Nhiều vấn đề được Thượng Viện đem ra cứu xét, Hạ Viện và Chính Phủ quan tâm theo dõi. Nhưng trên thực tế, Thượng Viện không có quyền quyết định để luật lệ có hiêu quả.Với sắc luật về Quốc Hội năm 1911 và 1944, những đạo luật về ngân sách (Money Bills), một khi được Hạ Viện chuẩn y và được Xướng Ngôn Viên tuyên bố, sẽ đương nhiên trở thành luật, sau khi được vua ấn ký, có hay không có sự đồng thuận của Thượng Viện cũng vậy.Nhiều dự án luật khác cũng vậy, sau khi Hạ Viện chấp thuận 2 lần trong 2 phiên họp khác nhau và trải qua thời gian một năm, cho dù Thượng Viện bác bỏ, dự án đương nhiên trở thành luật do hiệu lực của Sắc Luật về quốc Hội năm 1944.
Ai trong chúng ta có được trong tay quyển Tự Điển Anh Ngữ Oxford English Dictionary, thử tìm các danh từ sau đây: Hiến Pháp, Đơn Vị Bầu Cử và Cử Tri. Chúng ta sẽ ngạc nhiên thấy rằng cả ba danh từ trên đều phát xuất từ một nguyên ngữ độc nhứt Constituere của La ngữ và có nghĩa là xây dựng, đặt nền tảng.
Không phải vô tình hay do thiếu từ ngữ mà người Anh chỉ dùng một từ ngữ để chỉ ba thực thể chính trị khác biệt trong nhiều ngôn ngữ khác, kể cả Việt ngữ. Nếu- Hiến Pháp được người Anh định nghĩa bằng Constitution ,- thì Đơn Vị Bầu Cử được ho gọi bằng Constituency ( đôi khi họ cũng dùng College).- Và Cử Tri được họ định nghĩa bằng Constituent ( bên cạnh những từ ngữ như Voter, Elector ..).
Suy nghĩ chính chắn hơn sự liên lạc giữa ba danh từ vừa kể, chúng ta sẽ thấy rằng tinh thần dân chủ của người Anh rất sâu sắc khi họ định nghĩa ba danh từ liên hệ trên bằng một nguyên ngữ La Tinh duy nhứt Constituere. - Nếu Constitution là Hiến Pháp, văn kiện cơ bản ghi lại những nguyên tắc nền tảng trên đó một quốc gia trong tương lai sẽ được xây dựng . Nhứt là đối với một nước dân chủ, Hiến Pháp là văn kiện cơ bản xác định những quyền dân chủ và bình đẳng của người dân chung sống trong một Quốc Gia .
- Thì Cử Tri , Constituent, là người dân đi bỏ phiếu là người đứng ra xây dựng, đặt nền tảng cho thể chế dân chủ của mình, ghi những quyền, tự do và nhiệm vụ của mình vào Hiến Pháp ( Constitution) . Bằng lá phiếu mình chọn lựa những điều khoản mà mình muốn cho mình và đồng bào mình cùng chung sống hạnh phúc và xứng đáng với nhân phẩm con người trong một Quốc Gia với mình.
Nới cách khác, cử tri hay người dân đi bỏ phiều trong thể chế dân chủ là nguyên tố tiên khởi để xây dựng nền dân chủ cho Quốc Gia. Tư tưởng vừa được đề cập có lẽ còn sâu sắc hơn cả tư tưởng Demokratía ( Dân Chủ) của Hy Lạp .
Cũng vậy, trong cuộc sống thường nhật, mặc dầu quyền lực Quốc Gia nằm trong tay Quốc Hội ( Đại Nghị Chế), hay quyền bính đó được thi hành xử do Hội Đồng Bộ trưởng ( Nội Các Chế ), hay các Bộ Trưởng trong Chính Phủ hành quyền dưới sự hướng dẩn của Thủ Tướng ( Thủ Tướng Chế ),
Nhưng chính Cử Tri, người dân đi bầu đứng ra « thiết lập nền tảng » và « xây dựng » ra Quốc Hội và Chính Phủ dưới những hình thức vừa kể qua lá phiếu của mình trong kỳ bầu cử Quốc Hội vừa qua. Quốc Hội và Chính Phủ hiện hữu có lẽ đã được « thiết lập » bằng những vị Đại Biểu khác, cũng như những vị Bộ Trưởng và Thủ Tướng khác, với đường lối chính trị, kinh tế và xã hội khác, nếu người Cử Tri đã đứng ra « thiết lập và xây dựng » một cách khác .
Cùng trong tinh thần vừa kể, Đơn Vị Bầu Cử được người Anh gọi là Constituency ( đôi khi bằng College ). Với Sắc Luật về thể thức phân chia lại số ghế trong Hạ Viện ( House of Commons - Redistribution of Seats Act ) năm 1948, Đơn Vị Bầu Cử được coi là một lãnh thổ có đại diện riêng biệt tại Hạ Viện ( An area having separate representation in the House of Commons ).
Với thể thức bầu cử đơn danh cho mỗi đơn vị, mỗi lãnh thổ được coi là cơ thể của những cử tri ( Body of voters) kết hợp nhau để xây dựng, thiết lập tòa nhà Quốc Hội. Mỗi Đơn Vị Bầu Cử sẽ được Vị Đại Diện mình ở toà nhà Quốc Hội nói lên tiếng nói và nguyện vọng của mình để cùng chung xây dựng nên Quốc Hội, cơ quan điều khiển Quốc Gia . Hay nói như Gs Blondel,
Đơn Vị Bầu cử là hảng xưởng tại địa phương chế tạo ra nền chính trị cho toàn quốc .
Bởi vì, mặc dầu Vị Dân Biểu của Đơn Vị Bầu Cử do địa phương bầu ra, nhưng một khi ngồi vào chiếc ghế của Toà Nhà Quốc Hội, Vị Dân Biểu không còn là kỵ mã xông xáo bênh vực cho quyền lợi phe nhóm, địa phương , mà là Vị Đại Diện nói lên tiếng nói và ước vọng cho cả Quốc Gia, nói như tư tưởng lỗi lạc của Edmund Burke, mà có lần chúng tôi đã trích dẩn trong bài Dân Biểu ( Ayling, Edmund Burke, His Life and Opinions, London, John Murray, 1988).
So với Tổng Thống Chế Hoa kỳ, trong đó hai mấu chốt của tổ chức quyền lực Quốc Gia là nguyên tắc phân quyền và nguyên tắc kiểm soát và cân bằng , trong Đại Nghị Chế của Anh Quốc, nguyên tắc phân quyền không được nhấn mạnh môt cách tuyệt đối.Thay vì quyền lực Quốc Gia bị phân chia cách biệt giữa lập pháp và hành pháp, trong Đại nghị Chế phương thức cộng tác hỗ tương giữa các quyền lực Quốc Gia được nhấn mạnh một cách nổi bậc hơn.
Mặc dầu khi thực thi, Lập Pháp và Hành Pháp có thể thức và lãnh vực hành động khác nhau. Nhưng về cơ cấu quốc gia, Hành Pháp muốn có tư cách chính danh để hành quyền một cách hữu hiệu , phải được sự tín nhiệm của đa số Nghị Sĩ trong Quốc Hội, nếu ngược lại một Chính Phủ bị Quốc Hội bất tín nhiệm sẽ mất đi tư cách danh chính ngôn thuận để tiếp tục cai trị đất nước.
Về phía Quốc Hội cũng vậy, Quốc Hội hành xử quyền lực Quốc Gia một cách vô trách nhiệm, có thể bị Chính Phủ đề nghị Vua giải tán.
Trong thể thức thực thi quyền hành cũng vậy, các dự án luật cũng như chương trình chính trị để điều khiển Quốc Gia, Chính Phủ phải được Quốc Hội tín nhiệm và ngược lại, do việc các Bộ trưởng và Thủ Tướng cũng như nhân viên cao cấp trong Chính quyền là những vị Nghị Sĩ trong Quốc Hội, các dự án luật cũng như việc hướng dẫn đường lối chính trị của Chính Quyền được Quốc Hội cùng bàn thảo với sự hiện diện và góp ý của các thành viên Chính Phủ.
Như vậy kết quả của các cuộc tranh luận ở Quốc Hội có kết quả và càng theo sát chương trình của Chính Phủ, cũng như chương trình và đạo luật của Chính Phủ không đi ra ngoài đường hướng của Quốc Hội hoặc ngược lại ý muốn của dân chúng, mà thành viên của Quốc Hội là những người đại diện. Đó cũng là ý nghĩa của sự liên hệ giữa ba từ ngữ Constittution-Constituency-Constituent , cùng phát xuất từ một danh từ La- ngữ độc nhứt Constituere mà chúng ta đã xét qua ý nghĩa trên.
IV - MỘT VÀI NHẬN ĐỊNH.
Qua hai bài Tổng Thống Chế Hoa kỳ và Anh Quốc - Đại nghị Chế chúng ta có thể rút được một vài nhận xét sau đây:
Hoa Kỳ :
Đọc lại những Điều Khoản Thỏa Ước Liên Bang cũng như thành quả của Hiến Pháp Philadelphia, chúng ta đã xác định rằng mặc dầu 13 Tiểu Bang, cựu thuộc địa Anh Quốc, của Hoa Kỳ đồng ý với nhau hợp thành Quốc Gia Liên Bang, nhưng mỗi Tiểu bang vẫn giữ quyền tối thượng của mình, mà họ đã phải trả đắt giá trong cuộc chiến chống lại mẩu quốc Anh để được độc lập. Tinh thần yêu chuộng tự do đó, chống lại mọi hình thức chuyên chế độc tài bất cứ từ đâu đến, họ luôn nắm chặt lấy bằng mọi cách.
Anh quốc :
Nhờ hoàn cảnh thuận lợi đưa đẩy, tức là vua cần ngân sách phải nhượng bộ dân để được dân trả thuế, nhưng cũng nhờ trí óc sáng suốt, người Anh biết lợi dụng thời thế chiếm lấy dần dần quyền bính từ tay của thể chế quân chủ chuyên chế, biến Anh quốc thành một quốc gia dân chủ ( mặc dầu dưới hình thức Quân Chủ Lập Hiến).
Nếu ở Hoa kỳ , người Mỹ đã biết bảo đảm tự do, dân chủ của họ không những bằng cách phân chia quyền lực Quốc Gia theo chiều ngang : lập pháp, hành pháp, tư pháp cùng với hệ thống kiểm soát và cân bằng ,cũng nhu theo chiều dọc : quyền lực được phân tán từ Chính Phủ và Quốc Hội Liên Bang đến Tiểu Bang, Tỉnh , Quận, Làng Xã .. .để khỏi rơi vào tay những kẻ bất chính có mưu đồ đen tối nào đó, thì ở Anh dân chúng chỉ thấy an tâm khi giao quyền lực Quốc Gia cho Quốc Hội , một cơ chế gồm những vị Đại Diện cho chính dân bầu ra, hay do chính người dân đứng ra định đoạt, đặt nền tảng, xây dựng, thiết lập .
Cũng vậy, nếu dân chúng Hoa Kỳ thấy cần có vị lãnh đạo hành pháp có nhiều quyền lực, để bảo đảm cho sự hợp nhất Quốc Gia Liên Bang ( gồm các Tiểu Bang độc lập ), cũng như để tổ chức Quốc Gia Liên bang vững mạnh về chính trị, kinh tế và quân sự đối đầu lại các cường quốc quân sự khổng lồ lúc bấy giờ, Anh, Pháp, Tây Ban Nha, nên đã chọn Tổng Thồng Chế làm tổ chức hành chánh , thì ở Âu Châu , Anh, Pháp, Đức , Ý, Tây ban Nha và hầu hết các quốc gia Tây Âu khác, nếu không muốn nói là tất cả, đều chọn Đại Nghị Chế làm thể chế tổ chức Quốc Gia, sau những kinh nghiệm ê chề về độc tài của họ.
- Người Anh đã phải dành lại từ tay vua từng mãnh đất của quyền lực và tự do qua gần 6 thế kỷ ( kể từ thế kỷ 13) với nhiều chiến lợi phẩm được ghi lại trong các Sắc Luật.
- Người Pháp đã phải trả giá bằng xương máu cho các cuộc khởi xướng tự do dân chủ từ Cuộc Cách Mạng 1789.
- Người Đức với vết thương Đức Quốc Xã .
- Người Ý với kinh nghiệm độc tài đẩm máu của Phát Xít ( Fascismo) còn in đậm trên dưới 50 năm qua với Mussolini.
- Người Tây Ban Nha với quyền lực hét ra lửa của Generalissimo Franco..
Đại Nghị Chế là phương thức các quốc gia Tây Âu ủy thác lối sống dân chủ và tự do của họ.
- Pháp với Bán Tổng Thống Chế;
- Anh, Đức, Ý, Tây ban Nha với Đại nghị Chế .
- Bán Tổng Thống Chế, Thủ Tướng Chế, Nội Các Chế tựu trung cũng chỉ là Đại Nghị Chế hay Đại Nghị Chế biến thể.
Tất cả đều đặt lối sống dân chủ, tự do của mình ở Toà Nhà Quốc Hội để được ngủ yên giấc, chống lại các cơn ác mộng độc tài , bạo chúa lúc nào cũng đội lốt dưới mọi hình thức sẳn sàng trở lại.
Tìm hiểu thể chế chính trị
Vương Quốc Anh
________________________________________
Thể chế chính trị (hay Hiến chế) của một quốc gia bao gồm các nguyên tắc pháp lý chi phối các mối tương quan hổ tương giữa người dân và tầng lớp người hành xử quyền lực Nhà nước, xác định các cơ cấu tổ chức và chức năng của guồng máy chính quyền cũng như các nguyên tắc chỉ định tầng lớp người hành xử quyền lực đó.
Vương quốc Thống nhất Anh (The United British Kingdom) mà ta thường gọi là Vương quốc Anh là một quốc gia gồm các xứ Scotland, Wales, Northern Ireland và England (phần còn lại của đảo Anh và được chia thành 12 vùng hành chánh địa phương). Chế độ chính trị tại Vương quốc Anh có nhiều đặc điểm đáng chú ý: Trước tiên đó là quê hương, nơi xuất phát của các chế độ Nghị viện. Sau đó, tuy trên lý thuyết là một chế độ Quân chủ Lập hiến, nhưng bản chất của chế độ nghị viện Anh đã tiến hóa, hoàn toàn thay đổi và ngày nay thật sự là một chế độ Dân chủ kiểu mẫu ổn định, đặt căn bản trên một Nghị viện dân cử và một Hoàng gia, tượng trưng cho sự thống nhất lãnh thổ, tự đặt mình ở ngoài mọi khuynh hướng chính trị, chỉ đóng vai trò tượng trưng để trao quyền hành pháp cho các đại diện dân cử. Đặc điểm quan trọng nhất là tính linh động của Hiến chế hiện nay, tuy không được hoàn toàn quy định bằng một văn bản Hiến pháp thành văn rõ rệt như ở các quốc gia tiên tiến hiện đại khác, nhưng vẫn được giải thích một cách chính xác mà không tạo ra các tranh chấp tương phản.
Vì vậy, việc tìm hiểu sự hình thành các định chế chính trị ở Anh có ý nghĩa rất lớn cho việc tìm hiểu các các chế độ chính trị hiện nay. Các định chế chính trị ở Anh quốc được hình thành dần dần theo thực tế mà không có một lý thuyết định sẵn.
I . SƠ LƯỢC VỀ QUỐC HỘI LƯỠNG VIỆN.
Năm 1066 hoàng tộc Norman từ lục địa Âu Châu , vượt eo biển Manche qua chiếm hòn đảo Anh Quốc. Vua đặt quyền bính cai trị và luật lệ trên khắp tân vương quốc. Các lãnh chúa hàng năm phải nộp thuế cho vua. Không đầy hai thế kỷ sau đó, năm 1215, các lãnh chúa trong vương quốc, các nam tước ( baron) hợp nhau tại Runnynmede, gần Windsor, cùng đồng ý ký Bản Đại Tuyên Ngôn các Quyền Tự Do ( Magna Charta Libertatum) để đặt yêu sách đối với vua:
- Nếu vua muốn lấy thuế nhiều hơn đã được quy định trong những điều khoản được ký kết,vua cần phải được sự thỏa thuận của Đại Hội Đồng (Magnum Consilium).
- Các nam tước cũng như những người dân tự do khác ( tức không phải dân nô lệ), vua không được đem ra xét xử bằng thẩm phám đoàn gồm toàn quan chức của vua, mà phải được thẩm phán đoàn dân sự xét hỏi, thẩm định và tuyên án.
Nếu Bản Đại Tuyên ngôn các Quyền Tự Do năm 1215 là tài liệu đầu tiên được viết ra, khởi điểm cho những điều khoản khác sẽ được ghi vào Hiến Pháp Anh Quốc, (có người còn đi xa hơn cho rằng Bản Tuyên Ngôn Tự Do trên dựa vào tinh thần tự do của Bản Tổng Kết Luật Lệ và Phong Tục của Anh Quốc (Tractatus de legibus et Consuetudinibus Angliae của Glan Will khoản năm 1189), thì trái lại Đại Hội Đồng không thể được coi là khởi điểm cho Quốc Hội Anh. Các thành viên của Đại Hội Đồng là những nhân vật do vua trực tiếp chỉ định ( gồm những lãnh chúa cao cấp và những đấng bậc cao trọng trong giáo quyền). Như vậy Đại Hội Đồng không có tính cách đại diện dân cử của Quốc Hội, một trong ba điều kiện tiên quyết mà chúng tôi đã có dịp nói đến trong bài Quốc Hội .
Đại Hội Đồng chỉ là Hội Đồng Tư Vấn của vua, có đặc tính như các tổ chức của thời các lãnh chúa, kiểu Hội Đồng Thượng Thẩm của Pháp ( Etats Généraux de Paris) hay các tổ chức Quốc Hội Âu Châu trong thời Quân Chủ Chuyên Chế lúc đó. Đại Hội Đồng của Anh Quốc lúc bấy giờ là tổ chức tư vấn của vua, để góp ý kiến với vua trong nhiều việc như:
- Bàn cãi những vấn đề quốc sự như đối ngoại, lập pháp, thuế má hay phụ cấp, cứu xét các đơn từ thỉnh nguyện, xét xử các vấn đề kiện tụng dân luật cũng như hình luật
- Một mặt , kể từ ngày Bản Đại Tuyên Ngôn các Quyền Tự Do ra đời, quyền hành của vua dần dà bắt đầu bị đặt điều kiện , mặt khác một vài lãnh chúa uy quyền rất ương ngạnh lắm khi hành động bất cần được sự chấp thuận của vua, như vụ lãnh chúa Simon de Monfort, vào năm 1265 bất cần vua đã tự ý đứng ra triệu tập hai kỵ mã và hai thường dân ở mỗi thôn ấp ( borough) để thành lập Quốc Hội. {1}
Trước tình trạng không mấy sáng sủa đó, nhà vua thấy thay vì mỗi năm phải ngửa tay ăn xin ngân sách từ các lãnh chúa, vua có thể liên lạc trực tiếp với các cộng đồng địa phương, có nguồn lợi đồi dào và bảo đảm hơn lãnh chúa {2}. Nhưng với sáng kiến vừa kể, một viễn ảnh mới được phát hiện.Các cộng đồng địa phương, làng xã, thôn ấp một mặt tuyên hứa bảo đảm ngân sách cho hoàng gia khỏi thiếu hụt, nhưng với điều kiện phải được cử người đại diện trực tiếp của họ trước hoàng gia để đạo đạt yêu sách và nhu cầu của họ.Cộng đoàn đại diện của các làng xã , thôn ấp tạo thành Hội Đồng có tính cách đại diện , được dân cử, khác với Đại Hội Đồng của vua cũng như nhiều hình thức Quốc Hội thời Trung Cỗ {3}Như vậy sự liên hệ giữa vua và làng xã thôn ấp đã được bắt đầu vào thế kỷ 13.
Làng xã thôn ấp tại địa phương là những đơn vị động lực phát triển kinh tế, bảo đảm liên tục cho ngân sách hoàng gia, với tổ chức tự trị về hành chánh.Và như vậy là đại diện của họ là Hội Đồng Đại Diện bên cạnh vua ở Westminster. Nói cách khác, từ thế kỷ 13 như vừa nói, họ đã cữ người vào Quốc Hội với ý nghĩa hiện đại của chúng ta . Theo gương của Simon de Monfort, năm 1295 vua Edward I, muốn cho Quốc Hội có nhiều đại diện của mọi tầng lớp quần chúng, đứng ra triệu tập Quốc Hội Kiểu Mẫu, gồm:
- thành phần các huân tước ( Lords)
- các đấng bậc cao trọng trong tôn giáo (hai thành phần nầy được vua đứng ra chỉ định)
- hai kỵ mã cho mỗi làng xã,- hai người dân tự do ( không phải dân nô lệ) cho mỗi thôn xóm hoàng gia và đại diện các giáo sĩ hạ cấp {4}
Nhưng Quốc Hội Kiểu Mẫu của vua Edward I kéo dài không được bao lâu. Bởi lẽ từ nửa thế kỷ 14 trở đi, hai nhóm quân tước và đấng bậc cao trọng giáo sĩ bắt đầu có những cuộc hợp riêng rẽ, vì có nhu cầu và lợi thú riêng thuộc giai cấp và giới chức của họ, tách rời nhóm đại diện làng xã thôn ấp, vì quyền lợi và nhu cầu của các nhóm khác biệt nhau.
Như vậy Quốc Hội Kiểu Mẩu tự chia thành hai nhóm, nhóm Thượng Viện và nhóm Hạ Viện. Sự việc Quốc Hội trở thành Lưỡng Viện do những cuộc nhóm hợp riêng như vừa kể bắt đầu từ năm 1351.
Khác với hình ảnh thông thường mà chúng ta thấy tại Quốc Hội các nước, Quốc Hội nhóm trong một thính phòng hình bán nguyệt, ở Quốc Hội Anh quốc Quốc Hội nhóm trong một thính phòng hình chữ nhật.Ở phía cuối phòng trên bậc cao là bàn của vị Xướng Ngôn Viên ( Speaker), phía dưới, thấp hơn là bàn của các vị Thư Ký.Bên phải của vị Xướng ngôn Viên là những dãy bàn của các vị đại biểu phe thân chính phủ.Dãy bàn thứ nhất dành cho các Bộ Trưởng hay nhân viên chính phủ. Phía trái của Xướng Ngôn Viên là những dãy ban dành cho những vị lãnh đạo các chính đảng đối lập. Theo ngôn ngữ của người Anh, nếu đương kim chính phủ được gọi là Chính Phủ Hành Quyền ( Executive Government) , thì thành phần đối lập được gọi là Chính Phủ Trong Bóng Tối ( Shadow Government). Trong Quốc Hội Chính Phủ Hành Quyền có nhiệm vụ đưa ra đường lối, chương trình chính trị cho đất nước, thì Chính Phủ Trong Bóng Tối cũng có nhiệm vụ phê phán và đưa ra những đường lối , dự án mới cho Chính Phủ trong tương lai để dân chọn lựa trong kỳ bầu cử tới.
Do đó trong tinh thần dân chủ của người Anh, thành phần đối lập cũng cần thiết cho dân chủ không kém gì thành phần chính phủ đương nhiệm. Vì thế, phe đối lập luôn luôn được phe đương quyền kêu gọi đối thoại một cách kính cẩn: Các Ngài Phe Đối Lập ( Her Majesty Opposition). Trước nhiều vấn đề hệ trọng, việc Thủ Tướng Chính Phủ đương quyền tham khảo ý kiến phe đối lập trước khi quyết định là thể thức hành pháp dường như bắt buộc.
Trong các phiên hợp tranh cải tại Quốc Hội, vị đại biểu phát biểu ý kiến không trực tiếp nói thẳng với phía bên kia hay với một vị đại biểu khác đồng đảng với mình, mà luôn luôn quay về nói với vị Xướng Ngôn Viên, để vị nầy , sau khi thấu hiểu và thâu thập ý kiến của Quốc Hội, sẽ đến trình bày lại với vua. Và có lẽ do vị trí của phe thân chính phủ và phe đối lập ở bên phải và bên trái vị Xướng Ngôn Viên, mà từ ngữ hữu phái và tả phái phát xuất từ đó.
Theo tục lệ, kể từ ngày các làng xã, thôn ấp cử người vào Quốc Hội, xác thực hơn kể từ ngày Simon de Monfort gọi dân chúng ở thôn ấp ngồi vào Quốc Hội năm 1265, hay xác thực hơn nữa từ ngày Hạ Viện bắt đầu hoạt động, giữ vai trò chính yếu ( tính đến 1965 là đúng 700 năm), mọi dự án được đem ra bàn thảo trong Quốc Hội phải được đọc đi đọc lại đến 3 lần. Sỡ dĩ phải đọc lại đến 3 lần là vì các đại diện của Quốc Hội Simon de Monfort phần lớn là dân quê, nông dân mù chữ được chọn từ các thôn ấp.Thói quen đọc 3 lần đó, Quốc Hội Anh vẫn còn giữ đến ngày nay, mặc dù mục đích cũng như hoàn cảnh đã thay đổi
- Lần thứ 1: Tường trình các dự án.
- Lần thứ 2: Quốc Hội bàn thảo chung sau khi nghe đọc lại, sau đó tùy theo lãnh vực của vấn đề, dự án sẽ được giao cho các Ủy Ban Chuyên Môn (Select Committees) cứ xét.
- Lần thứ 3: Sau khi Ủy Ban liên hệ xem xét tường tận các dự án, Quốc Hội sẽ nhóm hợp phiên khoáng đại, trong đó Ủy Ban Chuyên Môn sẽ đọc lại một lần nữa nguyên bản của dự án cùng với những ý kiến và phương thức thực hiện để Quốc Hội biểu quyết.
II, HIẾN PHÁP VÀ NGHỊ VIỆN.
A, Sự hình thành hiến pháp.
Không được quy định bằng một văn bản chính xác và thường được giải thích một cách linh động, trong tinh thần phục thiện, tôn trọng lẽ phải,…Hiến chế ở Vương quốc Anh bao gồm một số các điều lệ và nguyên tắc được chính thức ghi nhận trong các văn bản lịch sử hay được chấp nhận như là các thông lệ, tập tục đã có trong quá khứ..
Phần căn bản của Hiến chế có nguồn gốc trong các văn bản chính thức, kết quả của các tranh chấp lâu dài từ thế kỷ XIII cho đến nay, đáng kể là:
1, Bản Đại Hiến chương (Magna Carta, 1215) mà Vua John phải ký kết với Hội Đồng Cố vấn (King's Counsil - Mầm mống sau này của Nghị viện), giới hạn quyền lực của Nhà Vua cũng như xác định vai trò của Hội đồng: Nhà Vua không được thâu thêm một thuế nào nếu không được sự thoả thuận của Hội đồng và việc xét xử các người dân phải được thực hiện theo đúng các luật lệ.
2, Bản Tuyên bố về các Quyền (Declaration of Rights,1689) mà Mary Stewart và William of Orange phải chấp nhận khi được Nghị viện phong làm Nữ hoàng và Vua của Anh quốc, đánh dấu sự thành lập chế độ nghị viện, quy định các đặc quyền của Nghị viện: Các lụật đều phải được thông qua ở Nghị viện; Nhà Vua không còn quyền làm lụật một mình và trì hoãn các luật lệ hiện hành; Nhà Vua không có quyền duy trì quân đội trong thời bình và phải triệu tập Nghị viện một cách đều đặn. {5}
3, Luật Kế thừa (Act of Settlement, 1701) do Nghị viện áp đặt, xác định các tiêu chuẩn thừa kế Vương quyền, đồng thời quy định tính cách độc lập của ngành tư pháp: Các thẩm phán chỉ có thể bị Nhà Vua cách chức khi Nghị viện yêu cầu.
4, Luật Nghị viện (Parliament Act, 1911) xác định vai trò ưu tiên của Hạ viện trong lãnh vực lập pháp: Thượng viện không thể ngăn chặn quá một tháng các luật về ngân sách đã được Hạ viện thông qua; đối với các dự luật khác đã được Hạ viện thông qua. Thượng viện cũng không còn quyền phủ quyết quá hai năm, sau thời hạn này các luật sẽ được chuyển đến Nhà Vua để đóng dấu ban hành. Luật này được Nghị viện thông qua, nhờ áp lực của Vua George V trên Thượng viện. Đến năm 1949, đạo luật mới về Nghị viện lại thâu ngắn thời gian phủ quyết của Thượng viện xuống còn một năm. {6}
Các Án lệ cũng là một nguồn quan trọng của Hiến chế. Trong một hệ thống đẳng cấp, các Tòa án cấp dưới phải phù hợp với các quyết định đã có ở các Tòa cấp trên, các phán quyết của các thẩm phán cũng có giá trị như là một luật. Trong các điều này ta có thể nhắc đến các phán quyết sau: Nhà Vua không thể tạo ra một luật chỉ bằng một lời Tuyên cáo bình thường (Case of Proclamation, 1611); Một Quyết định đơn phương của Hạ viện không thể thay đổi các luật lệ đương hành (1839); Ngành hành pháp không có quyền đánh thuế một công dân nếu không có lệnh của Nghị viện (1922); Nhân viên an ninh có quyền ngăn chận các cuộc hội họp khi có lý do chứng tỏ vi phạm an ninh công cộng (1935); Mọi người khi bị nhân viên an ninh bắt giữ phải được thông báo lý do (1947),
Tuy nhiên các luật căn bản này chỉ chiếm một phần nhỏ trong các quy chế tổng quát điều hành guồng máy quyền lực nhà nước hiện nay. Không có một văn kiện lập pháp chính thức nào đề cập đến các quy định về cơ cấu và chức năng của hai cơ cấu chính yếu nắm giữ quyền lực hiện nay là Hạ viện (hay Viện Thị xã - Chamber of Commons) và Nội các (hay Văn phòng Chính phủ - Office) mà chỉ được chấp nhận như là những quy ước. Việc chỉ định người lãnh đạo đảng thắng cử ở Hạ viện vào chức vụ Thủ tướng chính phủ và quyền hạn của chức vụ này cũng ở trong một tình trạng tương tự. Một số các quy ước này, sau một thời gian áp dụng, được chính thức hoá và trở thành các luật đuợc Nghị viện thông qua nhưng phần lớn còn lại chỉ được chấp nhận một cách gián tiếp và giải thích một cách linh động như là các tập tục truyền thống, các thông lệ đã được dùng trong quá khứ...và được áp dụng trong tinh thần phục thiện và lợi ích chung hay vì tính cách hiệu lực thực tiễn.
Qua quá trình tranh chấp để đạt được các điều căn bản trên, chế độ chính trị hiện nay trong Vương quốc Anh là một chế độ quân chủ lập hiến trong đó thực tế quyền lực quốc gia đều thuộc về Nhân dân, qua trung gian của các đại diện dân cử họp thành Hạ viện, cơ quan chính yếu nắm giữ quyền lập pháp. Trong thực tế, trọng tâm của các quyền lực trong Vương quốc được tập trung dưới sự điều hành của vị Thủ tướng chính phủ.
B, Nghị viện.
Nghị viện ngày nay có mầm mống đầu tiên là Hội đồng Cố vấn Nhà Vua (King’s Council), xuất hiện từ thế kỷ XI, khi William of Normandy từ lục địa vượt biển đánh chiếm Anh quốc và đặt quyền cai trị và luật lệ khắp nơi trên Vương quốc mới. Để tìm hậu thuẩn, Nhà Vua thường triệu tập Hội đồng để giải thích đường lối của mình. Nhà Vua cai trị và ban hành luật pháp dựa trên sự thoả thuận và lời khuyến cáo của Hội đồng. Hội đồng chỉ có tính cách cố vấn và gồm hai thành phần, đại diện cho tầng lớp giáo chủ cao cấp và đại phong kiến. Dần dần, với sư phát triển của nền kinh tế và các đô thị, Hội đồng được nới rộng thêm với đại diện các thị trấn, cho phép nhà Vua gia tăng nguồn lợi một cách trực tiếp để giải quyết các khó khăn tài chánh. Đại Hiến chương (Magna Carta, 1215) là văn bản đầu tiên giới hạn quyền lực của Nhà Vua cũng như xác định vai trò của Hôi đồng Cố vấn, lợi dụng lúc Vua John yếu thế, trở về Anh sau khi thua trận và mất hết các lãnh địa ở Pháp.
Năm 1295, để xin thêm tài trợ cho chiến tranh ở Pháp và ở Scotland, Edward I cho triệu tập Hội đồng Cố vấn với đại diện của ba thành phần. Từ đó Hội đồng được chính thức gọi là Nghị viện Kiểu mẫu (The Model Parliament) mà chức năng căn bản được nhắc lại trong văn kiện Xác nhận Hiến Chương (Confirmation of the Charter, 1297). Để tránh khỏi phải đóng thêm các thứ thuế mới, các đại diện tôn giáo sau đó tách ra khỏi Nghị viện Dưới thời của Edward III, vì sự khác biệt về quyền lợi và mục tiêu tranh đấu, hai thành phần còn lại trong Nghị viện cũng tách ra thành hai Viện riêng biệt: Thượng viện hay Viện Quý Tộc (House of Lords) và Hạ viện hay Viện Thị Xã (House of Commons). Nhà Vua chỉ định thành phần của Thượng viện trong tầng lớp phong kiến quý tộc, trong khi đó thành phần của Hạ viện gồm có các đại diện của giới thương gia ở các thành phố và các Hiệp sĩ, đại diện cho tầng lớp tiểu điền chủ ở các địa phương.{7}
Là đại diện cho thành phần chủ động cho sự phát triển kinh tế, ảnh hưởng và thế lực tài chánh của Hạ viện ngày càng tăng, xuất hiện như là một lực lượng chính trị độc lập, giúp Vua Richard II phục hồi lại uy quyền của mình, trước sự lộng quyền của John of Gaunt, thủ lãnh tầng lớp quý tộc đa số trong Thượng viện... Trong cuộc tranh chấp Wars of the Roses (1450-1485) về sự thừa kế ngôi Vua ở Anh giữa hai gia đình Lancaster và York, tầng lớp quý tộc đại phong kiến ở Anh chia thành hai phe tranh chấp tương tàn, đánh phá lẫn nhau: Nghị viện trong thời kỳ này chỉ là công cụ của các thế lực tạm thời nắm giữ được quyền lực. Dưới triều đại Tudor, Anh quốc ra khỏi chế độ phong kiến các Lãnh chúa, đồng thời thực hiện một cuộc cải cách tôn giáo và xây dựng một chế độ Quân chủ độc đoán,... dựa trên tầng lớp quý tộc mới, chiếm đa số ờ Hạ viện, gồm các thương gia giàu có, đại điền chủ,... mà quyền lợi kinh tế lại gắn liền với Anh giáo Tin lành. Mặt khác, các phát triển về kinh tế làm cho các Vua bớt phụ thuộc vào Nghị viện. Nghị viện chỉ là một công cụ, phụ hoạ với Nhà Vua và chỉ được triệu tập trong những cơ hội đặc biệt bất thường cần thông qua các sắc thuế mới hoặc thi hành chính sách về tôn giáo.
Qua triều đại Stewart thì ngược lại, các tranh chấp giữa Vương quyền và Nghị viện có hai nguyên nhân chủ yếu. Trước tiên, James I thừa hưởng một tình trạng tài chánh kiệt quệ và tình trạng chiến tranh với Tây Ban Nha đã kéo dài hơn 20 năm từ thời Elisabeth I, làm cho James I và Charles I phải phụ thuộc vào Nghị viện để tìm ngân sách mà vẫn không giải quyết được các khó khăn và áp dụng các biện pháp độc đoán. Sau đó là sự khác biệt về chính sách tôn giáo. Gốc ở xứ Scotland, các Vua Stewart lại muốn trở lại Thiên chúa giáo cũng như áp dụng một đường lối ngoại giao thân thiện với các Vương quốc Thiên chúa giáo Pháp và Tây ban nha,... Ngược lại, với đa số xuất phát từ thành phần mà quyền lợi kinh tế đã gắn liền với Anh giáo Tin lành, Hạ viện đi vào một thời kỳ tranh chấp gay gắt với Vương quyền, dẫn tới cuộc nội chiến Cách mạng 1641-1660, với một chế độ độc tài toàn trị mới, dưới danh nghĩa của Nghị viện. {8}
Cuộc tranh chấp lại tiếp diễn dưới thời Phục hưng. Charles II (và James II) muốn áp dụng một chính sách khoan dung đối với mọi khuynh hướng tôn giáo. Ngược lại, Nghị viện, với đa số theo Giáo hội Cải cách Tin lành, lại muốn thanh lọc khỏi giáo hội và chính quyền mọi thành phần tôn giáo khác
Để tránh các Vương triều Thiên chúa giáo sẽ còn nối tiếp lâu dài, một liên minh Tin lành được thành lập (Cách mạng thứ hai, 1688), với sự tham gia của thành phần đa số Whigs và một số thành viên Tories,... cho phép William of Orange (tín đồ Tin lành và là con rể của James II) đem quân từ Hòa lan đổ bộ vào Anh. Mary Stewart và William of Orange được Nghị viện phong làm Nữ hoàng và Vua của Anh quốc, sau khi đã ký chấp nhận Bản Tuyên bố về các Quyền (1689), đưa Vương quốc Anh vào thời đại mới với Chế độ Nghị viện: Nghị viện nắm quyền lập pháp, Nhà Vua chỉ còn quyền hành pháp.
III, CHÍNH PHỦ VÀ HOÀNG GIA.
A, Chính phủ.
Năm 1714, khi Anne Stewart qua đời, con của Công chúa Sophia được đảng đa số Whigs đưa lên ngôi Vua, mở đầu cho Triều đại Hanover và đưa Anh quốc vào một thời kỳ mới, đặt nền tảng cho Chế độ Nghị viện hiện nay. Cho đến thời kỳ này, Nghị viện chỉ có vai trò chính yếu là bỏ phiếu chấp thuận hay từ khước các sắc luật về thuế vụ và để cho Nhà Vua điều hành ngành hành pháp qua trung gian của Hội đồng Tư vấn (Privy Council), thành lập từ thời Henry VIII và đóng vai trò như một Nội các ngày nay nhưng các Bộ trưởng đều do Nhà Vua bổ nhiệm hay bãi miễn và chịu trách nhiệm trước Nhà Vua.
Là người gốc Đức, Vua George I, cũng như con là George II, đều không thông thạo Anh ngữ và không quan tâm đến chính sự, tự thoả mãn để cho thành phần đa số ở Nghị viện (đương thời là phe Whigs ở Hạ viện) điều hành và định đoạt công việc quản trị hành chánh trong Vương quốc. Nội các (hay Chính phủ) được xuất hiện như là một Uỷ ban đặc biệt, thay thế Hội đồng Tư vấn, gồm các nhân vật quan trọng trong phe đa số ở Nghị viện và thường được người có thế lực nhất, đóng vai trò của Thủ Tướng trong Hội đồng Nội các ngày nay, triệu tập hội họp trong một Văn phòng (Cabinet - Office) để soạn thảo, tranh luận và quy hoạch chính sách của Nội các. Trên nguyên tắc Nội các được đặt dưới sự kiểm soát của Nghị viện. Nhưng trên thực tế thì người cầm đầu Nội các cũng là người lãnh đạo phe đa số ở Nghị viện nên chi phối và kiểm soát được Nghị viện.
Năm 1760, George III lên ngôi, muốn phục hồi Vương quyền, không còn lý do gì phải uỷ thác quyền lực của mình cho một Thủ tướng như trước,...và tìm mọi cách, kể cả các phương pháp mua chuộc các cử Anh như phe Whigs đã dùng trước đây,... để tạo ra ở Hạ viện một đa số Tories thuận lợi cho mình. Nhưng chiến tranh thuộc địa gặp nhiều khó khăn tài chánh vì phải duy trì một đoàn quân lớn ở Bắc Mỹ. Chính sách thuế vụ, ưu tiên cho nền kinh tế ở chính quốc Anh và bất lợi cho các lãnh thổ thuộc địa bên ngoài, gây bất mãn và đưa đến sự thành lập năm 1776 của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, tách khỏi Đế quốc Anh. Sau thất bại này, phe Whigs trở lại chính quyền vào năm 1783 dưới sự lãnh đạo của William Pitt, the Younger. Năm sau, một liên minh được mau chóng thành lập, Pitt the Younger trở thành người lãnh đạo của một khuynh hướng Tories, hoàn toàn đổi mới, và được George III chấp nhận giao cho chức vụ Thủ Tướng, lãnh đạo Nội các. Từ đó vai trò của Thủ Tướng và Nội các được chấp nhận như một thông lệ và trở thành nền tảng của Chế độ Nghị viện trong đó Thủ tướng là người lãnh đạo thành phấn đa số ở Hạ viện và thành lập Nội các từ thành phần đa số của mình để nắm quyền hành pháp. Hội đồng Tư vấn chỉ còn vai trò thuần tuý cố vấn cho Nhà Vua. {9}
Bản chất của chế độ cũng bắt đầu thay đổi. Trước đây, Nhà Vua là đối tượng các tranh chấp, cuộc tranh chấp diễn ra trong Hạ viện, dưới hình thức chống đối hay binh vực Vương quyền. Giờ đây, Nhà Vua không còn là đối tượng các tranh chấp mà tự nguyện uỷ nhiệm các đặc quyền (hành pháp) của mình cho Hạ viện và cuộc tranh chấp được diễn ra giữa các phe nhóm trong Hạ viện để nhận các đặc quyền đã được Nhà Vua ủy nhiệm. Là người lãnh đạo Đảng đa số thắng cử ở Hạ viện, tuy được Nhà Vua chỉ định nhưng trên thực tế, Thủ tướng thực sự cũng được xem như là người đại diện dân cử trực tiếp.
Thế chiến thứ nhất là một cơ hội củng cố quyền hạn của chức vụ Thủ Tướng và của Nội các, vì nhu cầu cấp bách, cần phải lấy những quyết định để đối phó kịp thời với tình hình, trước khi trình bày trước Nghị viện. Sự kiện này sau đó thường được dùng để giải quyết những cuộc khủng hoảng trầm trọng và trở thành một tập tục cho đến năm 1937 mới được chính thức quy định trong Luật Bộ trưởng Vương quốc (Ministers of the Crown Act.), đồng thời với sự xuất hiện chính thức của chức vụ Lãnh tụ đối lập cũng như của Chính phủ đối lập (Shadow Cabinet).
Thừa hưởng các đặc quyền của Nhà Vua đồng thời là lãnh tụ đảng đa số ở Hạ viện, Thủ tướng thực sự là trung tâm điểm nắm giữ quyền lực trong Vương quốc: Hành pháp, Lập pháp. Thủ tướng đóng vai trò của một vị Nguyên thủ quốc gia, lãnh đạo Nội các, chỉ huy Quân đội, ngành Ngoại giao và guồng máy Hành chánh (Civil Service). Thủ tướng và các Bộ trưởng chiu trách nhiệm trước Hạ viện nhưng không chịu trách nhiệm trước Nhà Vua. Ngược lại, Thủ tướng có nhiệm vụ thường xuyên thông báo với Nhà Vua các quyết định của Chính phủ và là nhân vật duy nhất có quyền thực tiễn giải tán Hạ viện.
Là người lãnh đạo của Đảng đa số ở Hạ viện, Thủ tướng cũng là nhân vật chủ động nắm giữ quyền lập pháp. Trong thực tế, khoảng 90% các dự luật ở Hạ viện đều do Nội các đề xướng. Hạ viện thường chỉ đóng vai trò hỗ trợ cho Nội các trong quá trình thông qua các dự luật đó. Nhất là trong lãnh vực tài chánh, chỉ có Nội các mới có quyền đề nghị càc dự lụât chi thu ngân sách mà Hạ viện không thể trì hoãn các tranh luận và phải lấy quyết định trong giới hạn 32 ngày. {10}
Nội các, gồm khoảng 100 thành viên (Bộ trưởng, Quốc vụ khanh, Cố vấn,...) đều do Thủ tướng tự do lựa chọn trong số các Nghị sĩ của đảng của mình ở Nghị viện. Điều bận tâm duy nhất của Thủ tướng trong việc thành lập Nội các là tìm sự cân bằng giữa các khuynh hướng khác nhau trong nội bộ của đảng mình, phân phối tương xứng các chức vụ trong Nội các mà vẫn giữ được đa số ở Hạ viện. Ở Anh quốc, các Nghị viên đều có thể kiêm nhiệm các chức vụ hành pháp. Các thành viên trong Nội các được sự hổ trợ của các Thư ký Nghị viện để giải quyết các quan hệ giữa Nội các và Nghị viện. Các thành viên của Nội các chỉ có thể hiện diện và phát biểu trong Viện của mình. Thủ tướng phải là thành viên của Hạ viện và các Bộ trưởng thuộc Thượng viện chỉ có thể trình bày và bảo vệ chương trình của mình trước Hạ viện một cách gián tiếp, qua trung gian của người Thư ký Nghị viện phụ tá của mình. Ngoài ra, cho đến năm 2005, Bộ trưởng Tư pháp phải là thành viên của Thượng viện đồng thời là Chủ tịch Thượng viện.
Nội các làm việc trên nguyên tắc trách nhiệm tập thể: Khi đã lấy quyết định trên một vấn đề cụ thể thì mọi thành viên phải chấp nhận quyết định chung, nếu không muốn từ chức. Làm việc trực tiếp với Thủ tướng là Hội đồng Nội các, hình thức thu hẹp của Nội các, khoảng 20 thành viên, gồm các Cố vấn đặc biệt và các Bộ trưởng quan trọng (như Bộ trưởng Tư pháp, Nội vụ, Tài chánh, Ngoại giao,...) để hoạch định chương trình và đường lối chung của Nội các mà những nét chính đã được nêu ra trong cuộc bầu cử Hạ viện. Trên nguyên tắc, Nội các phải thực hiện chương trình này một cách cụ thể, soạn thảo các Luật áp dụng, nghiên cứu các dự án thực hiện. Thủ tướng điều hành trực tiếp: chủ toạ, sắp đặt chương trình nghị sự, hướng dẫn các tranh luận và lấy các quyết định cần thiết trong các phiên họp của Hội đồng Nội các. Thủ tướng dùng phần lớn thời gian của mình để tham dự các phiên họp của Nội các, của Hạ viện, hội kiến với Nhà Vua, tham dự các cuộc gặp gỡ quốc tế,... Thủ tướng điều hành quyền Hành pháp, xử dụng một guồng máy Hành chánh (Civil Service) quan trọng, đặc biệt là Văn phòng thư ký của Nội các, Văn phòng thư ký riêng, một cơ quan báo chí riêng cho Thủ tướng và nhiều cơ quan chuyên môn kỹ thuật trong mọi lãnh vực.
Mặc dầu khi thực thi, Lập Php v Hnh Php cĩ thể thức v lnh vực hnh động khc nhau. Nhưng về cơ cấu quốc gia, Hnh Php muốn cĩ tư cch chính danh để hnh quyền một cch hữu hiệu , phải được sự tín nhiệm của đa số Nghị Sĩ trong Quốc Hội, nếu ngược lại một Chính Phủ bị Quốc Hội bất tín nhiệm sẽ mất đi tư cch danh chính ngơn thuận để tiếp tục cai trị đất nước.
Về phía Quốc Hội cũng vậy, Quốc Hội hnh xử quyền lực Quốc Gia một cch vơ trch nhiệm, cĩ thể bị Chính Phủ đề nghị Vua giải tn.
Trong thể thức thực thi quyền hnh cũng vậy, cc dự n luật cũng như chương trình chính trị để điều khiển Quốc Gia, Chính Phủ phải được Quốc Hội tín nhiệm , v ngược lại, do việc cc Bộ trưởng v Thủ Tướng cũng như nhn vin cao cấp trong Chính quyền l những vị Nghị Sĩ trong Quốc Hội, cc dự n luật cũng như việc hướng dẫn đường lối chính trị của Chính Quyền được Quốc Hội cng bn thảo với sự hiện diện v gĩp ý của cc thnh vin Chính Phủ.
B, Hoàng gia.
So với uy quyền của các Vị Nguyên Thủ Quốc Gia tại các nước theo Đại Nghị Chế, quyền hành của vua ( hiện nay , của Nữ Hoàng Elisabeth) Anh Quốc bị thu gọn lại rất nhiều, nhưng uy thế của vua được dân chúng rất kính nể và thương mến.
Nhà vua hiện là biểu tượng cho sự đoàn kết quốc gia, cũng như tượng trưng cho sự hợp tác trong khối Thịnh Vượng Chung( Commonwealth).
Đặc quyền mà Hiến Pháp qui định cho vua hiện nay được ghi như sau:
Quyền được hỏi ý kiến, quyền kích lệ, cảnh giác những mối nguy hiểm đối với bất cứ quyết định nào ( The right to be consulted, the right to encourage, the right to warn).
Hiện nay Hoàng Gia vẫn có một Hội Đồng Tư Vấn ( Privacy Council) gồm 300 thành viên.Nhưng trừ những cuộc Đại Lễ hoặc các cơ hội đặc biệt, ít khi Hội Đồng hội hợp đủ mặt.Trong các thành viên Hội Đồng Tư Vấn, một số người giữ chức vự tương đương với nhiệm vụ của các Bộ Trưởng Chính Phủ.Hội Đồng Tư Vấn đã bắt đầu làm việc bên cạnh vua từ khoảng năm 1600 trở đi. Năm 1701 Sắc Luật về Quyền Kế Vị cấm không cho vua chọn thành viên của Hội Đồng Tư Vấn từ các đại diện dân cử làng xã thôn ấp.Nói cách khác, chọn từ các đại biểu của Hạ Viện, sợ vua có thể mua chuộc họ để thao túng, lũng đoạn Quốc Hội.Một tu chính án cho sắc luật trên được biểu quyết năm 1707 đồng thuận cho vua được chọn thành viên của Hội Đồng Tư Vấn giữa các Hạ Nghị Sĩ, nhưng những người được chọn đương nhiên ( ipso facto) sẽ bị mất chức Dân Biểu Quốc Hội.
Trong quá khứ, từ ngày bắt đằu có Hội Đồng Tư Vấn ( từ năm 1600 trở đi), các vị đặc trách cơ quan mình ấn ký các quyết định của cơ quan bên cạnh con dấu và chữ ký của vua (cùng với những công thức bằng pháp ngữ cỗ chúng ta đã thấy ở trên) để xác nhận với vua rằng việc thực hiên quyết định vừa kể, vị Bộ trưởng đặc trách chịu trách nhiệm trước mặt vua.Bởi lẽ theo truyền thống Anh.
- Nhà Vua không bao giờ sai lầm hay làm sai ( The King can do no wrong),
- Nhà Vua không thể tự mình làm lấy ( The King can not act alone).
Nhưng dần dần với các tiến trình song song và ngược chiều về các lãnh vực quyền hành giữa vua và Quốc Hội , như đã nói, ấn ký của Vị Bộ Trưởng có nghĩa là trong trường hợp hành động sai lầm hay bất chính, Bộ trưởng có thể bị Hạ Viện truy tố và Thượng Viện xét xử.
Từ thế kỷ 18 trở đi, nhà vua càng ngày càng ý thức rằng Hội Đồng Tư Vấn, nhất là các Vị Bộ Trưởng có nhiệm vụ hành pháp trực tiếp.Nhưng muốn thực hiện nhiệm vụ của mình, tức là cai trị đất nước một cách có hiệu quả, cần được sự đồng thuận và tín nhiệm của quốc Hội.Dần dần Quốc Hội bỏ đi thói quen truy tố ( Bill of Attainder) sau khi xét hành động của Vị Bộ Trưởng hay thành viên của Chính Phủ.
Thay vào đó Quốc Hội tỏ thái độ cho vua biết Vị Bộ trưởng hay thành viên liên hệ có được Quốc Hội tín nhiệm hay không.Trong trường hợp bị Quốc Hội bất tín nhiệm , vị Bộ trưởng liên hệ phải từ chức (trường hợp của Lord North, Thủ Tướùng Chính Phủ dưới thời vua George III , năm 1782). Đặc tính của Đại Nghị Chế hiện hành.
Như chúng ta vừa nói, Hội Đồng Tư Vấn của vua gồm khoảng 300 thành viên để giúp vua trị nước.Nhưng trên thực tế, chỉ có một số thành viên của Hội Đồng giữ những chức tương đương với các Bộ Trưởng Chính Quyền hiện hữu.
Những thành viên Bộ trưởng nầy thường được vua gọi riêng thành một Hội Đồng Thân Tín ( Inner Council).Và vì lý do quan trọng và bí mật của nhiều vấn đề Hội Đồng Thân Tín thường được vua gọi đến hợp riêng với vua trong một căn nhỏ phòng dành riêng (Cabinet).Do danh từ căn phòng nhỏ dành riêng đó , mà những Chính Phủ có thể chế Hành Pháp gồm các Bộ Trưởng đồng hợp nhau để quyết định, được các nhà chính trị học tạm gọi là Nội Các Chế {11}
Sau khi Nữ Hoàng Anne Tudor mất đi, năm 1714 vua George Tudor, dòng dõi người Đức, sinh trưởng ở Hannover, sang Anh kế vị.
Vua George không biết tiếng Anh, chỉ nói được một cách không trôi chảy tiếng La Tinh, nên dần dần không mấy thích thú chủ toạ các buổi hợp của Hội Đồng Tư Vấn, nhứt là các buổi hợp của Hội Đồng Thân Tín hay Hội Đồng Nội Các {12}
Trên lý thuyết, quyền hành pháp vẫn thuộc về Hoàng gia (tượng trưng là Nhà Vua, hiện nay là Nữ hoàng Elisabeth II, lên ngôi năm 1953). Trước đây, Nhà Vua điều hành trực tiếp quyền này qua trung gian của Hội đồng Tư vấn (Privy Council), thành lập năm 1540, dưới thời Henry VIII. Các thành viên của Hội đồng là những Bộ trưởng, chịu trách nhiệm trước Nhà Vua.
Trong thực tế hiện nay, Nhà Vua tự đặt mình trên các tranh chấp của các đảng phái chính trị và điều này cho phép duy trì vị trí của Hoàng gia trong Vương quốc: Nhà Vua ủy nhiệm, giao phó đặc quyền của mình cho một Thủ tướng để lãnh đạo Nội các, gồm có nhiều Bộ trưởng xuất phát từ Nghị viện, chịu trách nhiệm trước Hạ viện nhưng không chịu trách nhiệm trước Nhà Vua. Nhà Vua "trị vì mà không cai trị", luôn luôn tự phù hợp với đường lối do Thủ tướng đưa ra, tham dự vào đời sống chính trị một cách tượng trưng, trong nhiều lãnh vực khác nhau và trở thành biểu tượng cho sự thống nhất của lãnh thổ của Vương quốc.
Trước tiên, Hoàng gia là Biểu tượng của khối Liên hiệp Anh và là Nguồn gốc của mọi Danh dự: Nhà Vua có đặc quyền ban phát các chức danh Quý tộc, các huân chương danh dự. Nhà Vua bổ nhiệm Thẩm phán các Tòa thượng thẩm, Sĩ quan của các binh chủng, Thống đốc trong các lãnh thổ trong Liên hiệp Anh, các Nhà ngoại giao,... dựa trên đề nghị của Thủ tướng.
Nhà Vua cũng có một vai trò quan trọng trong truyền thống ngành tư pháp: Nhà Vua là "Nguồn gốc của Công lý", các Toà án đều là "Toà án Hoàng gia" và các Thẩm phán được Nhà Vua bổ nhiệm...
Đối với Nghị viện, chỉ có Nữ hoàng mới có quyến khai trương các khóa họp hàng năm của Nghị viện. Nữ hoàng cũng có quyền giải tán và triệu tập Nghị viện. Khi Nội các bị Hạ viện bất tín nhiệm trên một vấn đề quan trọng ở giữa nhệm kỳ thì Thủ tướng phải từ chức, Nữ hoàng giải tán Hạ viện để bầu lại một Hạ viện mới. Thủ tướng cũng có thể yêu cầu Nữ hoàng giải tán Hạ viện, khi thời cơ thuận lợi, để tìm một đa số thuận lợi hơn trong một Hạ viện mới.
Trên lý thuyết, Nữ hoàng có đặc quyền lựa chọn và bổ nhiệm Thủ tướng Chính phủ. Đặc quyền này được xác định như là một tập tục nhưng không được ghi trong một văn bản Hiến chế nào cả. Tuy nhiên ngày nay việc lựa chọn Thủ tướng hầu như đã trở thành một quy ước: Người lãnh đạo đảng thắng cử trong cuộc bầu cử ở Hạ viện sẽ đương nhiên được Nữ hoàng chọn làm Thủ tướng. Khi Nội các bị Hạ viện bất tín nhiệm và bắt buộc phải từ chức thì Nữ hoàng sẽ đề nghị với người lãnh đạo đảng đối lập thành lập Nội các nếu tìm được một đa số mới ở Hạ viện. Trong trường hợp ngược lại, Nữ hoàng sẽ giải tán Hạ viện để bầu một Hạ viện mới... Nữ hoàng cũng có quyền lựa chọn các Bộ trưởng nhưng trên thực tế ngày nay, các Bộ trưởng đều do Thủ tướng đề nghị và đều được Nữ hoàng chấp nhận và bổ nhiệm.
Trong thực tế, Nữ hoàng luôn luôn phản ứng phù hợp với đường lối của Nội các, dựa trên nguyên tắc Nội các xuất phát từ các đại diện dân cử. Ngược lại, Nữ hoàng có quyền được tham khảo ý kiến, quyền khuyến khích và quyền cảnh cáo đối với các Bộ trưởng. Nói một cách khác, Nữ hoàng có quyền làm cố vấn cho Nội các. Trong thời gian các khoá họp hàng năm của Nghị viện, Nữ hoàng đón nhận sự hội kiến của Thủ tướng, ít nhất mỗi tuần một lần. Trong các dịp này, Thủ tướng có thể yêu câu Nữ hoàng dùng các đặc quyền của mình để triệu tập hay giải tán Nghị viện hay ban phát các chức phẩm danh dự. Ngược lại, Nữ hoàng trao đổi cùng Thủ tướng các nhận xét về đường lối của Nội các và đưa ra các đề nghị thay đổi cụ thể. Thủ tướng không bị bắt phải thay đổi chính sách của mình theo ý kiến của Nữ hoàng.
Trong hơn một nữa thế kỷ trị vì trên Vương quốc Anh (kể từ năm 1953), Nữ hoàng Elisabeth II là tượng trưng cho sự liên tục của quyền hành pháp, đã cộng tác thường xuyên với 9 vị Thủ tướng và trở thành một nhân vật quan trong, có nhiều kinh nghiệm trong mọi lãnh vực, đối nội cũng như đối ngoại. Nhất là, tự đặt mình ở trên mọi đảng phái chính trị, ở ngoài mọi tranh chấp giữa các phe phái,... cách tiếp cận của Nữ hoàng vào chính trường thường có tính cách khách quan, dựa trên các lợi ích chung, không bị gò bó với quyền lợi riêng tư của các phe phái,... càng củng cố cho vị trí và vai trò Nữ hoàng.
IV. HỆ THỐNG BẦU CỬ VÀ CÁC ĐẢNG CHÍNH TRỊ.
Mọi xã hội dân chủ cụ thể đều phải đặt căn bản trên sự tôn trọng những giá trị và các quyền căn bản của con người, đặc biệt là các quyền công dân, cụ thể là quyền tham dự vào các sinh hoạt chính trường để bày tỏ quan điểm của mình và quyền ứng cử và bầu cử để chọn lựa tầng lớp người điều hành công cuộc xây dựng chung.
Cho đến đầu thế kỷ XIX xã hội Anh vẫn chưa thoát khỏi tình trạng phân chia giai cấp. Tầng lớp quý tộc điền chủ truyền thống bảo thủ Tories vẫn nắm giữ guồng máy cai trị (nghị viện, quân đội và quyền tư pháp). Trong khi đó các tầng lớp nghèo khổ vô sản, thợ thuyền thì hoàn toàn ở ngoài hệ thống cai trị.
Thành phần của Thượng viện thuộc hàng quý tộc và do Nhà Vua chỉ định. Hệ thống bầu cử đương thời cho Hạ viện lại ưu đãi các địa phương nông thôn và bất lợi cho các thành phố lớn. Quyền bầu cử và ứng cử là một đặc ân dành cho một thiểu số người giàu có,... và Hạ viện cũng chỉ là đại diện cho tầng lớp thiểu số trưởng giả giàu có. Mỗi địa hạt cai trị (các thành phố hay các thị trấn ở các địa phương), mặc dầu các chênh lệch xa nhau về dân số, đều có quyền như nhau, được cử hai đại diện vào Hạ viện, làm cho các vùng nông thôn dân ít lại có quá nhiều đại diện trong khi các thành phố lớn, nẩy sinh ra trong cuộc cách mạng kỹ nghệ, lại không được đại diện đúng mức với sự đóng góp vào sự thịnh vượng của Vương quốc.
Trong cuộc tranh chấp giữa Vương quyền và Nghị viện, lần đầu tiên cuộc bầu cử Hạ viện năm 1679 được diễn ra dưới hình thức lưỡng cực với hai thành phần đối lập nhau, làm thay đổi bộ mặt sinh hoạt chính trị. Một bên là Đảng Nhà Vua (The Court Party), sau này gọi là Tories và xuất phát từ tầng lớp quý tộc địa chủ, ủng hộ các Vua Stewart và là tiền thân của Đảng Bảo thủ. Đối lập là Đảng Nông Dân (The Country Party), sau này gọi là Whigs, đương thời đại diện cho giới thương gia, tài chánh, muốn thiết lập các Vương triều Tin lành dưới sự kiểm tra của Nghị viện và là tiền thân của Đảng Tự do.
Các hoạt động tương trợ công đoàn đã xuất hiện từ đầu thời George III nhưng bị cấm hoạt động và chỉ xuất hiện trở lại dưới thời George IV với các đấu tranh chính trị, chủ yếu là cải tổ hệ thống bầu cử. Cũng từ đó các khuynh hướng Tories và Whigs mới đi vào hình thức tổ chức chặt chẽ như các đảng chính trị hiện nay.
Với sự hỗ trợ của một phần quan trọng tầng lớp công nhân và thành phần doanh nhân trong Whigs, Luật cải cách bầu cử (The Reform Bill, 1832) lần thứ nhất được thông qua, nới rộng quyền bầu cử và điều chỉnh sự chênh lệch số đại diện giữa nông thôn và thành thị nhưng tầng lớp công nhân vẫn không có quyền bầu cử. Đến năm 1867, Luật cải cách bầu cử (lần thứ hai) được thông qua, cho phép gia tăng số đại diện của tầng lớp trung lưu ở nông thôn và quyền bầu cử của giới thủ công nghiệp và thợ chuyên môn ở các thành phố. Khởi đầu Luật này được Đảng Tự do (Whigs) đưa ra và, dưới áp lực của các thành phần xã hội cấp tiến và giới công đoàn, được Đảng Bảo thủ (Tories) thông qua mặc dầu có sự chống đối của phe hữu.
Một số luật khác được Nghị viện thông qua: Luật bầu bằng phiếu kín (Ballot Act,1872); Luật Illegal Practices Act,1883: Ngăn ngừa các tệ nạn bất hợp pháp và hạn chế ngân sách chi phí của các ứng cử viên; Luật quy định mức lợi tức tối thiểu về quyền bầu cử (1884); Luật điều chỉnh các đơn vị và thể thức bầu cử thực hiện theo lối đơn danh, đa số, một vòng, và một Nghị sĩ cho mỗi đơn vị, ngoại trừ 23 thị trấn đặc biệt (1885). Các luật này họp thành Luật cải cách bầu cử lần thứ ba, được chính phủ Đảng Tự do đưa ra nhưng gặp phải sự chống đối của Thượng viện bảo thủ và chỉ được thông qua, nhờ vào áp lực của Nữ hoàng Victoria. Với luật mới, hầu hết mọi người đều có quyền bầu cử, ngoại trừ nữ phái, các thành phần được hưởng trợ cấp xã hội và những người chưa có chỗ định cư độc lập cố định.
Giới phụ nữ, tuy đã đông đảo đi vào đời sống lao động trong các xí nghiệp nhưng cho đến cuối thế kỷ XIX vẫn chưa có quyền bầu cử để tranh đấu cho quyền lợi của chính mình. Năm 1897, Liên hội quyền đầu phiếu phụ nữ (National Union of Women’s Suffrage Societies) được thành lập, khuynh hướng ôn hòa. Năm 1903, Liên hội chính trị và xã hội phụ nữ (Women’s Social and Political Union) ra đời, với một lập trường cấp tiến và chấp nhận cả các phương pháp bạo động. Để được chính quyền quan tâm, các tổ chức tranh đấu không ngần ngại dùng bạo động: biểu tình, hội họp công cộng, phá hoại các trang bị công cộng, đốt phá các cơ sở chính quyền, các xí nghiệp, đặt bom đạn,... ngày càng tăng, phản ứng bất lợi trong dư luận, lý do cho phép chính quyền đàn áp vào năm 1912. Sau Thế chiến thứ nhất, Luật Đại biểu Nhân dân (Representation of the People Act, 1918) mới xác định quyền bầu cử, phái nam cho mọi người trên 21 tuổi và (hầu hết) phái nữ trên 30 tuổi. Năm 1919, Luật hủy bỏ phân biệt giới tính (Sex Disqualification Removal Act) được ban hành, cho phép phụ nữ được tham dự vào mọi ngành nghề và chức vụ công cộng của guồng máy chính quyền,... giải phóng nữ giới trên phương diện kinh tế. Đến năm 1928 thì không còn sự phân biệt giới tính, mọi người (nam hay nữ) đều có quyền bầu cử như nhau, khi 21 tuổi, thực hiện nguyên tắc phổ thông đầu phiếu.
Kể từ sau các Luật đại diện nhân dân (Representation of the People Act, 1969 và 1970), mọi công dân trên 18 tuổi đều có quyền bầu cử (ngoại trừ các Thượng Nghị sĩ, các tù nhân và các người bị các án tội vi phạm hối lộ bầu cử trong 5 năm trước đó) trong khi đó giới hạn của quyền ứng cử vào Hạ viện là 21 tuổi (ngoại trừ các người ngoại quốc, các Thượng Nghị sĩ, các chức sắc cao cấp về tôn giáo, các bịnh nhân tâm thần, các phạm nhân hối lộ bầu cử, các phạm nhân đã có án tù trên một năm và các phạm nhân vì tội phản bội). Luật loại trừ ứng cử vào Hạ viện (House of Commons Disqualification, 1975) cũng không cho phép ứng cử vào Hạ viện các nhân viên của Nhà nước (thẩm phán, công chức cao cấp, quân nhân và cảnh sát đương nhiệm, các nhân vật đãm nhận các chức vụ trong các Ủy ban trong chính phủ hay trong các tổ chức công quyền).
Mở đầu cho thế kỷ XX và cho triều đại Windsor là một biến chuyển quan trọng, làm căn bản thay đổi thực chất các tranh chấp chính trị ở Anh quốc: Liên hội công đoàn TUC và các khuynh hướng xã hội quyết định hợp nhất tổ chức để thành lập Uỷ ban đại diện lao động (Labour Representation Committee), sửa soạn cho bầu cử Hạ viện năm 1906: Lần đầu tiên Hạ viện có sự hiện diện của giới công nhân. Đảng Tự do thắng cử với một đa số lớn. Uỷ ban đại diện lao động có 26 Nghị sĩ và đổi tên thành Đảng Lao động (Labour Party). Kể từ đó, Đảng Lao động tranh đấu theo chương trình của mình, độc lập với đường lối của Đảng Tự do. Chính trường hoàn toàn thay đổi, nhất là khi hai Đảng Tự do và Bảo thủ đang đi vào các tranh chấp nội bộ, trên nhiều vấn đề. Đảng Bảo thủ chủ trương thống nhất Ireland với Anh quốc và sát nhập các lãnh thổ Transvaal và Orange của dân Boers vào xứ Nam Phi nhưng lại chia rẽ trên chính sách Bảo trợ mậu dịch. Trong khi đó Đảng Tự do lại chia thành ba nhóm: Phe hữu Tự do Đế quốc (Liberal Imperialists, chủ trương thống nhất với Ireland và ủng hộ Nam Phi), Phe Tự do Trung tâm (Midedle of the way Liberals, muốn thực hiện các cải cách xã hội, tranh thủ để giới công nhân khỏi rơi vào ảnh hưởng của Đảng Lao động) và phe Tân Tự do (New Liberal), chủ trương chính sách can thiệp của chính quyền vào lãnh vực quốc phòng và trợ cấp xã hội.
Đảng Tự do tiếp tục cầm quyền cho đến năm 1923 thì mất đa số ở Hạ viện. Vì nhu cầu chiến tranh, năm 1915 Asquith thành lập một chính phủ liên hiệp với Đảng Bảo thủ và Đảng Lao động. Chiến tranh bắt buộc các đảng phái thay đổi lập trường. Đảng Tự do phải từ bỏ nguyên tắc tự do mậu dịch, đưa Lloyd lên thay thế Asquith và lập chính phủ liên hiệp với Đảng Bảo thủ năm 1916, làm tăng sự chia rẽ trong nội bộ Đảng Tự do. Sau chiến tranh, Anh quốc đi vào một thời kỳ khủng hoảng kinh tế, ngoại thương suy giảm, thất nghiệp gia tăng và làm xuất hiện trở lại các đấu tranh nghiệp đoàn. Sự tách rời khỏi Vương quốc của Ireland Tự do làm suy yếu vị trí của Đảng Tự do trong Hạ viện: Sau cuộc bầu cử năm 1923, với 159 ghế, Đảng Tự do mất đa số. Trong khi đó Đảng Lao động, ngay từ năm 1920 đã khôn khéo từ chối sự gia nhập của Đảng Cộng sản để chứng minh với dư luận lập trường ôn hòa của mình, gặt hái được 191 ghế ở Hạ viện và cho phép cầm đầu một chính phủ liên hiệp với Đảng Tự do. Đảng Tự do chỉ còn lại 40 ghế sau bầu cử năm 1924 và 17 ghế sau năm 1935, đánh dấu sự suy tàn của Đảng Tự do. Anh quốc đi vào một con đường lưỡng cực mới, với hai đảng chính yếu: Đảng Lao động và Đảng Bảo thủ thay phiên nhau cầm quyền từ sau thế chiến thứ hai. {13}
Từ năm 1997 đến nay Đảng Lao động cầm quyển, dưới sự lãnh đạo của Tony Blair, đã thực hiện được một số các cải tổ quan trong cho Thượng viện (Constitutional Reform Act,1999, 205), thiết lập quy chế tự trị, thực hiện Quyền Lập pháp địa phương qua các Viện dân cử cho các xứ Scotland, Wales, Northern Ireland để giải quyết các vấn đề địa phương (Luật Scotland Act, Government of Wales Act, Nothern Ireland Act, 1998) và thêm vào Hiến chế Luật nhân quyền (The Humain Rights Act, 1998).
Thể thức bầu cử thực hiện theo lối đơn danh, đa số, một vòng trong mỗi đơn vị địa phương (theo đó ứng cử viên nhận được nhiều phiếu nhất được tuyên bố trúng cử) có nhiều hậu quả. Trước tiên là nguyên nhân thuận lợi đưa đến hiện tượng phân cực lưỡng đảng: các cư tri thường có khuynh hướng "bầu hữu ích" bầu cho các ứng viên có nhiều hy vọng nhất và bắt buộc các đảng chính trị phải liên hiệp với nhau trước khi bầu cử. Sau đó là khuynh hướng thuận lợi cho các vùng tự trị địa phương đồng nhất về sắc tộc (Đó là trường hợp ở các xứ Wales, Scotland và Northern Ireland) nhưng lại bất lợi cho các đảng nhỏ mà số cử tri lại bị phân tán trên toàn lãnh thổ (như trường hợp hiện nay của Đảng Tự do). Nhìn chung, hiện tượng phân cực lưỡng đảng là yếu tố chính cho sự ổn định chính trị. {13}
V, TƯ PHÁP ANH QUỐC.
Dưới các Triều đại Anglo - Saxons, trên Vương quốc Anh có ba hệ thống Luật khác nhau, áp dụng trong ba vùng khác nhau: Luật Đan Mạch áp dụng ở miền Bắc và Đông Bắc, Luật Mercie áp dụng ở vùng trung tâm và Luật Wessex ở miền Nam và miền Tây. Trong mỗi hệ thống, luật pháp lại tuỳ thuộc vào các tập tục của mỗi địa phương.
Sau năm 1066, từ lục địa vượt biển đánh chiếm Vương quốc Anh, William the Conqueror cho đặt quyền bính cai trị và luật lệ khắp nơi nhưng, để yên lòng dân Anglo-Saxons, các toà án mới chỉ từ từ thay thế các toà án cũ ở các địa phương và vẫn tiếp tục áp dụng các Luật theo tập tục cũ. Song song, các tòa án tôn giáo cũng được thành lập, áp dụng Luật Hội Thánh chung cho giới Cơ đốc giáo, đồng thời cũng có thẩm quyền trong lãnh vực hôn nhân và thừa kế. Nhà Vua chỉ trực tiếp hành sử quyền tư pháp tối cao, xét xử các tranh chấp liên quan tới an ninh hay tới các nhân vật cao cấp trong Vương quốc hay khi các tòa án bình thường không tìm được giải pháp.Giúp Nhà Vua điều hành công việc này là Hội đồng Tư vấn (Curia Regis) bao gồm các nhân vật quan trọng trong Vương quốc.
Từ thế kỷ XII, Nhà Vua thường gởi các đại diện của Hội đồng tư vấn đến tham dự và giám sát các phiên toà của các toà án địa phương. Các đại diện này của Nhà Vua, gọi là các Thẩm phán lưu động (Itinerant Judges hay Circuit Judges) họp thành nhiều Uỷ ban: Commission of Goal Delivery (Ủy ban giải tỏa các tù nhân không được xét xử), Commission of Oyer et Terminer (Ủy ban xét xử các tội phản bội Vương quốc), Commission of Assizes (Ủy ban đại hình xét xử các vụ án dân sự và hình sự quan trọng). Đồng thời quyền tư pháp cũng dần dần được tách rời khỏi Nhà Vua và Hội đồng tư vấn và được Nhà Vua uỷ thác cho các Giám mục và các Bá tước và đặt trụ sở ở Westminster, cùng với các Thẩm phán lưu động để phân tích, tổng hợp và tìm kiếm các giải pháp áp dụng cho mọi vùng và thống nhất các luật, dựa trên nguyên tắc tìm kiếm các sự kiện liên hệ tới sự việc được xét xử và tôn trọng các quyết định đã có từ trước. {14 }
Cho đến giữa thế kỷ XIII, bộ Luật phổ thông (The Common Law) được hoàn thành và được áp dụng ở miền Nam và ở xứ Wales. Trong các vùng khác, để tránh các phản ứng của các Lãnh chúa, các toà án của Nhà Vua cũng chỉ được thành lập từ từ ở các địa phương, các Thẩm phán hòa giải (Justices of the Peace - Magistrates) bắt đầu xuất hiện vào cuối thế kỷ XIV, được Nhà Vua và Huân tước Chưởng án bổ nhiệm vào các tòa Magistrates' Courts. Trong mọi trường hợp, với các toà án được thành lập ở Wesminster (La Cour de l'Échiquier, La Cour des Plaids Communs, La Cour du Banc du Roi), các Thẩm phán của Nhà Vua nắm giữ ba lãnh vực chủ yếu: tài chánh trung ương, bất động sản và an ninh quốc phòng. Mọi tranh tụng khác vẫn còn được tiếp tục giải quyết ở các tòa án địa phương cho đến cuối thời trung cổ (giữa thế kỷ XV) mới được hoàn toàn thay thế bằng các Tòa án Nhà Vua, áp dụng Luật phổ thông thống nhất.
Vào thời điểm này, việc xử dụng luật pháp để giải quyết các tranh chấp trong xã hội là một đặc ân và phải qua nhiều thủ tục hành chánh phức tạp, không theo đúng thủ tục thì việc kiện tụng sẽ bị bãi bỏ. Ngoài ra, từ thế kỷ XIV, lại xuất hiện nhiều vụ tranh tụng vượt ra ngoài thẩm quyền của các tòa áp dụng Luật phổ thông. Muốn tiếp cận với pháp đình, người thưa kiện thường phải cầu xin Nhà Vua cho phép xét xử tranh chấp, vì tính cách bất thường và không hợp thủ tục tố tụng. Với danh nghĩa là Suối nguồn của Luật pháp (Fountain of Justice), Nhà Vua lúc đó, không dùng Luật pháp (Luật phổ thông) mà dùng Lương tâm (Conscience) của mình để xét xử theo lẽ Công bình (Equity), tạo ra một hình thức các Luật ngoại lệ, đặc biệt, bất thường...Đến cuối thế kỷ XV, Nhà Vua uỷ nhiệm chức năng luật pháp của mình cho Huân tước Chưởng án (Lord Chancellor), Bô trưởng Tư pháp. Từ đó Bộ Tư pháp cho thành lập một tòa án riêng biệt, goi là Tòa Chưởng án (Court of Chancery), nới rộng các thủ tục, không bị giới hạn vì các thủ tục cứng nhắc của Luật phổ thông và khai triển thêm các giải pháp mới cho những vấn đề cụ thể khác. Tòa Chưởng án hoạt động cạnh tranh song song và tranh chấp với các tòa án áp dụng Luật phổ thông, nhiều khi đi đến những phán quyết đối nghịch lẫn nhau. Diễn ra trong thời kỳ quân chủ chuyên chế toàn trị dưới các Triều đại Tudor và Stewart, các tranh chấp công khai bùng nổ và được James I giải quyết năm 1616, dựa trên nguyên tắc: Khi có tranh chấp vì những phán quyết tương phản lẫn nhau thì phán quyết của Tòa Chưởng án được chính thức áp dụng. {15 }
Đối với các trường hợp tranh chấp theo đó Luật phổ thông không có giải pháp hay đi đến một giải pháp không tương xứng thì giải pháp duy nhất là qua Tòa Chưởng án, sau khi đã xử dụng mọi phương tiện ở các tòa án áp dụng Luật phổ thông.
Cho đến giữa thế kỷ XIX, các Tòa án áp dụng Luật phổ thông cũng bắt đầu xử dụng trực tiếp những giải pháp ngoại lệ đã được trù liệu trong Tòa Chưởng án, trong mục tiêu đơn giản các thủ tục và giảm bớt các chi phí tố tụng. Các giải pháp này sau đó được hợp thức hóa trong các Luật Tư pháp (Judicature Acts, 1873, 1875 và 1881): Các tòa án cao cấp ở Westminster (áp dụng Luật phổ thông) và Tòa Chưởng án được thống nhất lại trong một cơ cấu duy nhất gọi là Tòa Tư pháp tối cao (Supreme Court of Judicature), gồm ba cấp: Các Tòa Sơ thẩm, Tòa Thượng thẩm (Court of Appeal) và Viện Quý tộc (Toà án Tối cao Vương quốc - House of Lords). Các Tòa sơ thẩm gồm có các Tòa án về dân sự (High Court of Justice) và Tòa án Vương quốc (Crown Court, chuyên về Hình sự). Tòa án dân sự gồm ba phỏng: Tòa Nữ hoàng (Chambre du Banc de la Reine), Tòa Chưởng án (Chambre de la Chancellerie) và Tòa Gia đình (Chambre de la Famille). Các Tòa Tư pháp tối cao có thể dùng cùng một lúc cả hai nguồn Luật (Luật phổ thông và Luật ngoại lệ).
Nhìn chung lại, luật pháp được hình thành rất sớm trong lịch sử của Vương quốc và áp dụng cho tất cả mọi người, kể cả Nhà Vua. Nhờ đó mà các tòa án có một vị trí quan trọng, bảo đảm sự độc lập đối với ngành hành pháp. Theo quy ước chung, các thẩm phán không được quyền đóng một vai trò tích cực trong đời sống chính trị và phát biểu lập trường của mình trên những vấn đề đang gây ra các tranh biện tương phản chính trị. Từ sau Luật Thừa kế (1701), Tư pháp mới trở thành độc lập với ngành hành pháp và nhiều lần xác định tính độc lập của mình đối với hành pháp, dựa trên nguyên tắc các thẩm phán phải trừu tượng hoá lập trường chính trị cố hữu của mình khi phán quyết trên một trường hợp đặc biệt. Trong thực tế, tính độc lập này cũng thường bị giới hạn, nhất là khi các thẩm phán cũng thường được bổ nhiệm vào những Uỷ ban điều tra trên những vấn đề lợi ích tổng quát phức tạp. Trong những trường hợp này, các thẩm phán thường phải làm theo khuynh hướng của hành pháp,... Tương tự, Huân tước Chưởng án, nhân vật cao nhất trong hệ thống Tư pháp, cũng là thành viên của Nội các, với tư cách là Bộ trưởng Tư pháp và bắt buộc phải lấy một lập trường chính trị rõ ràng.
Với nguyên tắc dùng các Án lệ như là một nguồn của luật, một phần quan trọng của các luật hiện hành thường là sản phẩm của các thẩm phán, càng làm gia tăng uy tín và tính độc lập của các thẩm phán. Trong khi Nghị viện nắm giữ chủ quyền về lập pháp thì các thẩm phán cũng có chức năng giải thích các luật và xác định tính độc lập của mình đối với lập pháp bằng cách giải thích các Văn bản luật trong một chiều hướng khác với chủ ý của các người làm luật. Các thẩm phán không được phép căn cứ trên các bản tường trình của các Uỷ ban ở Nghị viện để tìm kiếm chủ đích của người làm luật. Tuy nhiên, tính độc lập này cũng có giới hạn vì Nghị viện vẫn nắm giữ toàn quyền về lập pháp. Các Thẩm phán không có quyền tuyên bố tính cách Bất Hợp Hiến của các luật, buộc phải áp dụng các luật mới nhất được Nghị viện thông qua.
Các thẩm phán trong các toà án cao cấp đều do Nữ hoàng bổ nhiệm, dựa trên đề nghị cũa Huân tước Chưởng án (Bộ trưởng Tư pháp) và với sự bảo lãnh của Uỷ ban Tư pháp Thượng viện (Appellate Committee of the House of Lords). Các thẩm phán của toà án tối cao Vương quốc cũng do Nữ hoàng bổ nhiệm nhưng theo đề nghị của Thủ tướng, sau khi tham khảo ý kiến của Huân tước Chưởng án. Với Luật cải tổ Hiến pháp (Constitutional Reform Act, 2005), các Ủy ban Tư pháp Thượng viện và Ủy ban Tư pháp của Hội đồng Tư vấn được thay thế bằng Toà án tối cao (Supreme Court), độc lập với Thượng viện và Huân tước Chưởng án. Các Nghị viên Luật pháp lại tách rời khỏi Thượng viện để trở thành Thẩm phán Toà án tối cao (Justices of the Supreme Court) trong hệ thống tư pháp của Vương quốc và có thẩm quyền vô hạn định. Huân tước Chưởng án không còn chủ tọa Toà án tối cao cũng như được tham khảo ý kiến trong việc bổ nhiệm như trước. Chủ tịch và Phó Chủ tịch của Toà án Tối cao là các vị lớn tuổi nhất, trong khi các thành viên mới khác sẽ được Nữ hoàng bổ nhiệm, theo đề nghị của Thủ tướng.
Sự độc lập của các Thẩm phán thường gắn liền với điều lệ tuyển dụng. Các tòa án trong Vương quốc Anh được chia thành hai loại: Các toà án cấp dưới ở các địa phương và các tòa án cao cấp trên toàn Vương quốc.Các thẩm phán ở các toà án địa phương (Thẩm phán lưu động (Circuit Judges) và Thẩm phán hòa giải (Justices of the Peace - Magistrates) các tòa Magistrates' Courts)) được Huân tước Chưởng án bổ nhiệm với các kỳ hạn nhất định đều có thể bị thải hồi sau kỳ hạn đã định. Các thẩm phán trong các Tòa án cao cấp đều được Nhà Vua bổ nhiệm, theo đề nghị của Bộ trưởng Tư pháp, gần như không thể bị thải hồi, chỉ có thể bị Nhà Vua bãi chức, theo đề nghị của Hạ và Thượng viện (Luật Tòa án tối cao (Supreme Court Act, 1981)). Để bảo đảm thêm sự độc lập, Luật 1981 cũng bảo đảm lương bổng của các thẩm phán toà án cao cấp không thể bị suy giảm hàng năm và trích từ một ngân khoản đặc biệt.
Để bảo vệ tính độc lập, các thẩm phán không thể bị truy tố trong lúc hành xử chức năng và trong giới hạn thuộc về thẩm quyền của mình. Các phán quyết ở các toà án đều có hiệu lực, chỉ có thể bị đình chỉ bởi một phán quyết của một toà cấp trên. Các thẩm phán của các toà án cao cấp (ngoại trừ Toà án tối cao) khi hành xử chức năng và vượt quá thẩm quyền của mình chỉ bi truy tố khi hành động một càch bất lương, trái với lương tâm của mình. Ngược lại, các thẩm phán của các toà án cấp dưới khi hành xử chức năng và vượt quá thẩm quyền của mình đều có thể bị truy tố.
VI, NHẬN XÉT.
Nhìn một cách tổng quát, Hiến chế hiện nay ở Anh quốc rất là phức tạp, về hình thức cũng như về nội dung. Tuy đã được hoàn chỉnh và mang lại cho Vương quốc Anh một chế độ ổn định từ nhiều thế kỷ nay nhưng vẫn còn nhiều cải tổ .
Về hình thức, Hiến chế không được hoàn toàn quy định bằng một Văn bản Hiến pháp thành văn rõ rệt, nhiều vấn đề chỉ được ghi nhận một cách không chính xác như là các tập tục truyền thống, các thông lệ đã được dùng trong quá khứ,... gây nhiều trở ngại và hiểu lầm cho việc giải thích nội dung của Hiến chế. Về nội dung, tuy thực hiện được hầu hết các chức năng cũa các chế độ dân chủ hiện đại nhưng còn chứa đựng nhiều điểm cơ bản cần được cải tổ để bảo đãm tính dân chủ.
- Tính chất dân chủ không được thể hiện qua các thành phần ở Thượng viện và qua các đặc quyền của Hoàng gia.
- Thể thức bầu cử thực hiện theo lối đơn danh, đa số, một vòng trong mỗi đơn vị cử tri, tuy là một yếu tố chính của hiện tượng lưỡng đảng và thuận lợi cho sự ổn định chính trị, nhưng bất lợi cho các chính đảng nhỏ, làm cho Hạ viện không đại diện đúng mức đối với mọi khuynh hướng chính trị.
- Hạ viện là cơ quan duy nhất nắm giữ quyền lực tuyệt đối trong Vương quồc có khả năng làm thay đổi Hiến chế một cách toàn diện (trong một chiều hướng thuận lợi hay bất lợi cho nền dân chủ). Hiến chế ở Anh quốc hiện nay không có một cơ cấu nào, độc lập với quyền lập pháp và hành pháp, có nhiệm vụ kiểm tra hay suy xét tính "hợp lý" của các luật, để bảo vệ các quyền căn bản nhất của người dân. Trong nhiệm kỳ của mình, Hạ viện nắm trọn quyền lực lối cao trong Vương quốc, mọi luật (dân chủ hay phãn dân chủ) đều có khả năng xuất hiện.
- Không có một sự phân quyền giữa lập pháp và hành pháp. Đồng thời, vị trí của Thủ tướng trong Hạ viện và trong Nội các có khả năng đưa đến một sự tập trung mọi quyền lực vao tay một cá nhân.
- Sự phân lập tam quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp chỉ được thực hiện một cách tương đối trong nhiều cơ cấu tổ chức khác. Chức năng của nhiều nhân vật và nhiều cơ cấu khác nhau lại chồng chéo lên nhau.
Năm 1991, Trung tâm Nghiên cứu Chính trị Công cộng (Institute for Public Policy Research), thuộc khuynh hướng Lao động và Tự do - Dân chủ, đã đưa ra một dự án cải tổ: Hiến pháp Vương quốc (The Constitution of the United Kingdom) gồm các điểm chính sau đây:
- Trình bày lại Hiến chế bằng một văn bản Hiến pháp bao gồm mọi khía cạnh về đời sống công cộng, xác định vai trò và quyền hạn của ba thành phần chính của Nhà nước: Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp.
- Thay thế Thượng viện hiện nay bằng một viện thứ hai, hoàn toàn do dân bầu ra.
- Thực hiện thể thức bầu cử theo lối liên danh tỷ lệ cho cả Thượng viện và Hạ viện.
- Xác định vai trò đại diện Vương quốc của Hoàng gia nhưng bãi bỏ những đặc quyền khác của Hoàng gia.
- Thiết lập các Viện dân cử địa phương ở các xứ Scotland, Wales, Northern Ireland cũng như ở 12 vùng còn lại trong Vương quốc để thực hiện quyền lập pháp địa phương.
- Thêm vào Hiến chế một Hiến chương tương tự như bản Hiến chương Nhân quyền Âu châu
Cho đến nay, một phần các đề nghị này được thực hiện: Thành lập Nghị viện địa phương ở Scotland, Wales, Northern Ireland; Hiến chương nhân quyền Âu châu được chấp nhận và quyền tư pháp được tách rời khỏi ảnh hưởng của Thượng viện.
Nhìn chung, trong thực tế hiện tại, các điểm bất lợi nêu ra trên đây về Hiến chế cũng chỉ là những giả thuyết đã không thể xẫy ra ở Anh. Xã hội Anh đã tiến hoá không thể trở về với quá khứ với các hình thức độc quyền. Kể từ khi chế độ nghị viện được hình thành từ nhiều thế kỷ, dân trí trong xã hội ở Anh đã đạt được một trình độ hoàn mỹ, xây dựng một chế độ dựa trên tinh thần phục thiện, tôn trọng lẽ phải, tôn trọng các quyền căn bản của người đối lập để phục vụ lợi ích chung, tránh được các hình thức tranh đấu cực đoan. Các đặc tính này được thể hiện qua mọi tầng lớp người dân và trong mọi khía cạnh của đời sống chính trị, đáng được nhắc lại qua một vài sự việc cụ thể sau:
- Trước tiên là tinh thần tự giác của Hoàng gia, tự đặt mình trên các tranh chấp của các đảng phái chính trị, đóng vai trò tượng trưng và uỷ nhiệm các đặc quyền của mình cho những đại diện trực tiếp của người dân,... đã biến đổi thực chất của chế độ để ngày nay trở thành một chế độ thực sự dân chủ.
- Vai trò trung gian của Xướng ngôn viên Hạ viện và sự thể chế hoá vai trò của chức vụ lãnh tụ đối lập cũng như của chính phủ đối lập trong các sinh hoạt Nghị trường cũng là những yếu tố bảo đảm và củng cố tính dân chủ của chế độ.
- Vai trò độc lập của các thẩm phán cũng nhằm một mục tiêu.
- Sau hết, những lạm dụng quyền lực chắc chắn cũng chỉ là những sự việc tạm thời, không thể đứng vững ở Anh quốc, trước sự trưởng thành của dư luận cùng với các cuộc bầu cử tự do.