GDP
bình quân đầu người Việt Nam năm 2018 là 2.587 đô la Mỹ, thấp hơn nhiều so với
Trung Quốc. Ảnh: THÀNH HOA
Trung
Quốc (TQ) đã nói rõ về “giấc mơ Trung Quốc” thể hiện bằng khẩu hiệu “Made in
China 2025 - làm ở Trung Quốc năm 2025” với kế hoạch đạt 70% sản xuất tại TQ
các công cụ và nguyên liệu cốt lõi cho các ngành công nghiệp tiên tiến từ công
nghệ thông tin, robot, hàng không, vũ trụ, phương tiện kiểm soát biển, xe lửa
cao tốc, xe hơi, năng lượng, dược phẩm...
Về
mặt quan hệ quốc tế, Chủ tịch TQ Tập Cận Bình đã đưa ra mục tiêu phát triển
trong bài diễn văn trước Đại hội Đảng lần thứ 19 không chỉ để bắt kịp mà còn
vươn lên để “trở thành một nước lãnh đạo toàn cầu với sức mạnh tổng hợp quốc
gia và uy tín thế giới” trong giai đoạn 2035-2050. Với biển Đông thì rất rõ, TQ
đã nhiều lần tuyên bố rằng đường lưỡi bò ở biển Đông thuộc TQ bất chấp phán quyết
của tòa án quốc tế là không thể lấy lý do lịch sử để yêu sách chủ quyền biển
khơi, không thể có chủ quyền biển quanh đảo nhân tạo trên biển khơi hay trong
vùng đặc quyền kinh tế của nước khác và không thể đòi quá hơn 12 hải lý quanh
các đá tự nhiên ở biển Đông.
Nhưng
trong bài diễn văn tại Đại hội đảng nói ở trên, ngay trong phần đầu ông Tập đã
ca ngợi các hoạt động xây dựng đang xảy ra ở biển Đông. Trước đó ông ta tuyên bố
TQ sẽ không để mất dù một tấc đất ở đó... Và tờ báo Global Times, công cụ tuyên
truyền của TQ có lúc còn đe dọa các nước ASEAN sẽ nghe tiếng “cà nông” nếu
không biết rút lui. TQ vẫn nói hòa bình hữu nghị, nhưng các hành động cụ thể có
vẻ ngược lại.
Với
tình hình như trên, khi TQ đủ mạnh, việc sử dụng vũ lực nhằm kiểm soát biển
Đông là khó tránh khỏi. Hiện nay vừa để đe dọa, vừa để sửa soạn chiến tranh TQ
đang xây dựng thêm một hàng không mẫu hạm thứ ba, loại tiên tiến như Mỹ.
Về
quân sự nói chung, TQ tăng chi cho quân sự lên đến 228 tỉ đô la Mỹ năm 2017 và
bằng 1,9% GDP, rất cao so với khoảng trên 20 tỉ đô la Mỹ đầu những năm 2000, dù
vẫn chỉ bằng nửa Mỹ nhưng đã bằng với tổng chi quốc phòng của cả năm nước Pháp,
Anh, Đức, Nhật và Hàn Quốc cộng lại.
Nhưng
tương lai TQ sẽ thế nào?
Có
người đã tiên đoán TQ sẽ khủng hoảng. Điều này có thể nhưng khó xảy ra vì TQ vẫn
có nhiều công cụ dự trữ trong tay.
TQ
đã đạt tốc độ tăng trưởng GDP tính theo đầu người thần kỳ trong lịch sử. Nếu kể
từ năm 1970 đến nay, GDP đầu người tính theo đô la Mỹ năm 2010, TQ tăng trưởng
bình quân 7,7% mỗi năm, thậm chí tăng tốc trong giai đoạn 2000-2016 so với thời
kỳ trước. Điều này ngược với Singapore, Hàn Quốc và Nhật, hay cả Mỹ (xem bảng
2).
Tuy
vậy từ năm 2007, tốc độ tăng trưởng trên đầu người của TQ đã theo chân các nước khác, giảm xuống (xem biểu đồ). Số liệu
mới cho thấy năm 2017 và 2018 còn giảm mạnh hơn, chỉ còn khoảng 6% mỗi năm. Dù
thế vẫn còn là thần kỳ nếu so với các nước tiên tiến khác (xem bảng 2).
Tuy
thế, điều này không có nghĩa là dư địa tăng của TQ không còn, mà thật ra còn
nhiều dù ở tốc độ tăng thấp hơn.
Rõ
ràng GDP bình quân của TQ còn đang ở mức trung bình thấp (8.000 đô la Mỹ một
người tính theo giá hiện hành) nên còn có thể tiếp tục tạo ra bước nhảy ngoạn mục.
Liệu TQ có thoát ra khỏi bẫy thu nhập trung bình?
Để
vượt khỏi bẫy này, TQ cần ba yếu tố: 1) khả năng hấp thụ khoa học kỹ thuật và tự
nghiên cứu phát triển, 2) khả năng vốn tự có và 3) thị trường đủ rộng cho phát
triển, đặc biệt là đẩy khu vực phát triển thấp bắt kịp khu vực phát triển cao
trong nội địa.
Có
thể nói TQ đã đạt được yếu tố thứ nhất là yếu tố mà Đại hội Đảng TQ nhấn mạnh vừa
qua, dù trong tương lai sẽ bị hạn chế vì phản ứng tự vệ của các nước phương Tây.
Với 1,3 tỉ dân, TQ có thị trường nội địa rộng lớn nên nếu tiêu dùng của dân
chúng phát triển thì nó có thể thay thế được thị trường nước ngoài, mặc dù vẫn
bị hạn chế về nhu cầu nội địa đối với hàng hóa cao cấp. TQ cũng có vốn rất lớn
vì tỷ lệ để dành hàng năm của TQ rất cao, ở mức 50% GDP. Tương tự, dự trữ ngoại
tệ của TQ cũng rất cao, đến cuối năm 2017 là 3.200 tỉ đô la Mỹ, bằng 26% GDP. Tức
là, TQ khi cần có thể tăng nợ, bơm đầu tư nhà nước như đã làm thời 2007-2009, để
tránh khủng hoảng tài chính hiện đang ở mức quá lớn (256% GDP). Tốc độ tăng GDP
sẽ thấp hơn nữa nhưng vẫn ở mức cao hơn Mỹ, Nhật và các nước châu Âu.
So
sánh sức mạnh kinh tế, cơ sở của sức mạnh quân sự, thì TQ cũng đang vượt trội
Việt Nam là điều quá rõ ràng. Nhưng TQ chưa thể làm chủ biển Đông bằng vũ lực
vào thời điểm hiện nay, vì lợi ích ở đó không chỉ là của Việt Nam mà còn là của
rất nhiều nước trong khu vực và các cường quốc có sức mạnh quân sự, do đó sẽ
không thể tránh khỏi các cuộc trả đũa về kinh tế, chính trị và quân sự. Chính vì
thế, đây vẫn là giai đoạn TQ phải tiếp tục xây dựng lực lượng quân sự. Và trong
thời kỳ này, TQ sẵn sàng mua chuộc, đồng thời tìm cách đưa các nước yếu hơn vào
bẫy lệ thuộc về vốn và công nghệ qua chiến lược kinh tế một vành đai một con đường.
Còn
tương lai Việt Nam?
Nếu
tính từ 1970-2016, GDP đầu người Việt Nam cũng tăng trưởng mạnh, nhưng thấp hơn
nhiều so với TQ, đặc biệt là VN đã bỏ lỡ cơ hội phát triển trong 20 năm sau chiến
tranh (xem bảng 1 và 2).
Để
phát triển, Việt Nam cần làm ăn với mọi nước, trong đó có TQ, một nước láng giềng,
giàu mạnh hơn kể cả thu hút đầu tư của họ để hai bên cùng có lợi. Nhưng mở cửa
không chọn lọc để đến mức lệ thuộc thì không nên. Hiệp định Thương mại thế giới
(WTO) là ký kết giảm dần thuế nhập khẩu nhằm mở cửa cho tự do buôn bán, hiệp định
này không có điều khoản nào đòi hỏi tự do đầu tư nước ngoài. Hơn thế, WTO cũng
chấp nhận các biện pháp bảo hộ trong thời gian nhất định nhằm tạo cơ hội cho nước
chậm phát triển tăng khả năng cạnh tranh.
Tuy
thế, sẽ không thích đáng nếu Việt Nam ngày càng dựa vào công nghệ TQ vì giá rẻ
(xây đường sá, nhà máy xi măng, điện, khai khoáng) và dựa vào thị trường nguyên
liệu từ TQ để gia công xuất khẩu. Cho đến nay TQ đã làm chủ thầu 49 dự án trong
62 dự án xi măng; 16/27 dự án BOT, 90% dự án EPC do TQ cung cấp thiết kế cung cấp
thiết bị lên tới hàng tỉ đô la Mỹ. Năm 2017, Việt Nam nhập 57 tỉ đô la Mỹ hàng
hóa từ TQ (bằng 30% tổng giá trị nhập, đưa mức nhập siêu từ TQ lên đến 26,3 tỉ
đô la Mỹ (bằng 10% GDP Việt Nam).
Hệ
thống viễn thông của Việt Nam cũng đang sử dụng công nghệ của hai công ty TQ là
Huawei và ZTE. Trong khi đó, hai công ty này đang bị các nước Mỹ, Anh, Nhật,
Canada tẩy chay vì an ninh quốc gia. Ngoài ra, Việt Nam còn ký kết mở rộng “hai
hành lang một vành đai” ở 7 tỉnh biên giới với quyết định cho phép dùng nhân
dân tệ ở đó.
Rõ
ràng việc dựa vào công nghệ TQ, đặc biệt là công nghệ viễn thông số hóa, là
nguy cơ về mặt an ninh quốc gia, cần phải cảnh giác vì lợi ích tự thân của quốc
gia.
Phải
hiểu rõ “giấc mơ Trung Hoa” thì may ra Việt Nam mới có được chiến lược tránh đối
đầu với TQ, nhưng vẫn tích cực bảo vệ độc lập của chính mình và lợi ích ở biển
Đông theo đúng luật biển quốc tế và phán quyết của Tòa án quốc tế. Không chỉ Việt
Nam, các nước khác cũng đang bị đe dọa vì chính sách muốn trở thành lãnh đạo thế
giới và đòi hỏi chủ quyền ở biển Đông, và họ cũng phải có hành động tự vệ.
Để
tự vệ hữu hiệu, phải xây dựng nội lực nhưng điều này còn chưa được quan tâm
đúng mức. Việt Nam hiện nay dựa vào vay vốn và thu hút đầu tư nước ngoài làm
hàng xuất khẩu để phát triển. Nội lực đi từ tri thức khoa học và xã hội. Điều
này đòi hỏi chất lượng, tự do học thuật, học hỏi tiếp thu tri thức của thế giới,
thu hút nhân tài để xây dựng các đại học và trung tâm nghiên cứu ưu tú để phát
triển công nghệ. Không thể chỉ tập trung nhập công nghệ lỗi thời và hàng trung
gian từ TQ và dùng lao động cơ bắp để chế tạo hàng xuất khẩu.