Quy định
phải lưu trữ toàn bộ thông tin của người dùng Việt Nam tại Việt Nam và phải
cung cấp cho Bộ Công an khi được yêu cầu đặt các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
trên internet của nước ngoài vào 2 sự lựa chọn:
1.
Tuân thủ quy định này. Kéo theo đó là tăng chi phí kinh doanh,
nguy cơ lộ lọt dữ liệu, và nguy cơ bị người dùng tại Việt Nam và trên toàn thế
giới tẩy chay.
2.
Không tuân thủ quy định này. Hệ quả là các doanh nghiệp này sẽ
bị phía Việt Nam chặn truy cập hoặc họ sẽ chủ động không cung cấp dịch vụ cho
người dùng Việt Nam.
Chính phủ
Việt Nam chắc chắn thích các doanh nghiệp này chọn phương án (1) nhất. Vì như
vậy sẽ rất dễ kiểm soát được dữ liệu của người Việt mà không gây tác động quá
lớn đến nền kinh tế.
Hiện chưa rõ
các doanh nghiệp lớn như Facebook, Google sẽ lựa chọn phương án nào, nhưng hầu
như chắc chắn các dịch vụ nhỏ hơn như Skype, Dropbox, Viber, Spotify, Apple,
Wikipedia… sẽ chọn phương án (2).
Thử hình
dung chuyện gì sẽ xảy ra đối với người Việt theo hai phương án trên:
Nếu phương
án (1) xảy ra, các doanh nghiệp nước ngoài buộc phải sao chép dữ liệu thô của
người dùng Việt Nam về máy chủ đặt tại Việt Nam (khả năng là sẽ thuê của các
doanh nghiệp như VNPT, FPT…). Như vậy, tác động đầu tiên là các doanh nghiệp
trong nước sẽ kiếm thêm được doanh thu cho thuê máy chủ.
Tuy nhiên,
do mức độ an toàn dữ liệu tại Việt Nam tương đối thấp, những doanh nghiệp này
lại không có nhiều kinh nghiệm trong việc bảo đảm an ninh cho những hệ thống dữ
liệu lớn như vậy, nên khả năng để lộ lọt thông tin là rất cao. Khi đó, người
dùng Việt Nam sẽ chịu thiệt hại hơn so với việc dữ liệu được lưu trữ ở những
trung tâm dữ liệu tốt hơn trên thế giới.
Tiếp theo
đó, việc phải cung cấp dữ liệu cho Chính phủ Việt Nam sẽ khiến quyền riêng tư
của người dân và doanh nghiệp Việt Nam có nguy cơ bị xâm hại. Dự thảo Nghị định
hướng dẫn Luật An ninh mạng trao quyền cho Cục An ninh mạng không chỉ tiếp cận
thông tin của người Việt “nhằm phục vụ điều tra vi phạm pháp luật” mà còn trong
trường hợp thông tin được tạo ra quá 36 tháng, hoặc khi doanh nghiệp dừng cung
cấp dịch vụ.
Như vậy,
toàn bộ các email, tin nhắn, dữ liệu trên google drive, dropbox, lịch sử tìm
kiếm,… của toàn bộ người dân Việt Nam, từ dân thường cho đến các doanh nghiệp,
cả các quan chức, người nổi tiếng sẽ được Cục An ninh mạng tiếp cận bất kỳ khi
nào họ muốn.
Đối với
nhiều người dân không có gì để che giấu thì việc bị lộ thông tin cá nhân cũng
không có gì nghiêm trọng. Nhưng đối với các doanh nghiệp thì dữ liệu, bí mật
kinh doanh là điều quan trọng nhất mà họ có, từ các danh sách khách hàng, các
bản vẽ, thiết kế, các hợp đồng, các sổ sách kế toán, tài chính… đều sẽ được Cục
An ninh mạng dễ dàng tiếp cận.
Có ý kiến
còn e ngại các thông tin bí mật đời tư của các quan chức sẽ được sử dụng để gây
các áp lực chính trị, để thao túng quan chức. Điều này không phải là không có
nguy cơ xảy ra khi các phe cánh trong nội bộ Nhà nước có mâu thuẫn, đấu đá, và
phe cánh nào nắm được bí mật của phe còn lại sẽ có rất nhiều lợi thế.
Việc lưu trữ
thông tin tại các máy chủ tại Việt Nam hoặc tại Trung tâm dữ liệu của Cục An
ninh mạng sẽ khiến những thông tin này dễ bị tấn công, đánh cắp bởi tin tặc
trên toàn thế giới hơn rất nhiều. Khi đó, toàn bộ dữ liệu người dùng của Việt
Nam không chỉ bị phơi bày ra trước các cán bộ tại Cục An ninh mạng mà còn phơi
bày trước tin tặc toàn thế giới.
Nếu phương
án (2) xảy ra, thiệt hại kinh tế đối với Việt Nam là vô cùng lớn.
Khi đó,
người dùng tại Việt Nam không còn được sử dụng những dịch vụ tiện ích như công
cụ tìm kiếm (Google), email (Gmail, Yahoo mail), lưu trữ dữ liệu online (Drive,
Dropbox), xem video (Youtube), tin nhắn, gọi điện (Facebook Messenger, Viber,
Skype, WhatsApp), tra cứu tri thức (Wikipedia), mạng xã hội (Facebook,
Instagram), bản đồ (Google Map) và vô số những tiện ích khác đang và sẽ xuất
hiện trên thế giới.
Đến lúc đó,
người dùng Việt Nam liệu có quay trở lại với những biện pháp hết sức thủ công
như dùng USB, ổ cứng di động để copy, lưu trữ dữ liệu, hoặc dùng bản đồ giấy,
dùng từ điển giấy, đi thuê băng đĩa nghe nhạc, xem phim hoặc rất tốn chi phí
như gọi điện, nhắn tin qua mạng viễn thông di động.
Nhiều ý kiến
cho rằng đây sẽ là cơ hội để các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trong nước phát
triển. Đây cũng là một yếu tố không thể bỏ qua. Nhưng tương lai này quả là mù
mịt và không chắc chắn, vì trình độ công nghệ của các doanh nghiệp trong nước
vẫn còn kém quá xa những doanh nghiệp hàng đầu thế giới.
Nhiều người
lấy ví dụ việc Trung Quốc cấm các nhà cung cấp dịch vụ trên mạng internet nước
ngoài và đã tạo ra những ông lớn trong lĩnh vực công nghệ thông tin của họ như
Alibaba, Tencent, Baidu… Nhưng nếu ai đã từng sử dụng công cụ tìm kiếm, dùng
mạng xã hội, hay những phần mềm, ứng dụng của các hãng này thì thấy chất lượng
về mức độ thân thiện và tiện ích thấp hơn nhiều so với những hãng phương Tây.
Một số ý
kiến cũng đưa ra nguy cơ Việt Nam từ chối những nhà cung cấp dịch vụ của phương
Tây thì sẽ là cơ hội để những nhà cung cấp dịch vụ của Trung Quốc tràn vào.
Việc VNG, một trong những doanh nghiệp công nghệ lớn nhất Việt Nam có phần vốn
góp đáng kể của Trung Quốc khiến nguy cơ này không thể bị bỏ qua. Sự xâm nhập
của các nhà cung cấp dịch vụ Trung Quốc có thể diễn ra bằng nhiều cách mà đôi
khi chúng ta rất khó nhìn ra, từ trực tiếp cung cấp dịch vụ, đến việc sở hữu cổ
phần, cung cấp công nghệ nguồn, cung cấp nhân lực. Khi đó, nguy cơ chủ quyền
quốc gia trên không gian mạng bị xâm phạm sẽ còn lớn hơn rất nhiều.