Ông Trọng tiếp Tập
Cận Bình tại Hà Nội, tháng 11, 2017.
Năm 2049, chỉ hơn ba thập niên nữa, giấc mộng bá chủ của Trung Quốc có thể được hoàn thành, theo một trong những chuyên gia kinh nghiệm hàng đầu về Trung Quốc tại Hoa Kỳ, tiến sĩ Michael Pillsbury [1]. Là người từng làm việc trực tiếp với tầng lãnh đạo cao nhất trong chính quyền của Hoa Kỳ và Trung Quốc trên bốn thập niên qua, từ Richard Nixon, Henry Kissinger vào cuối thập niên 1960 đầu thập niên 1970 mở đường cho chính sách bình thường hoá quan hệ với Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai của Trung Quốc, cho đến các giới lãnh đạo chính trị, ngoại giao và quân sự của cả hai bên mãi gần đây, ông Pillsbury đã tiết lộ nhiều bí mật quốc gia mà có lẽ chưa có cuốn sách tiền lệ nào như thế.
Cuộc
chạy đua 100 năm
Trong
“Cuộc chạy đua Marathon 100 năm, các chiến lược bí mật của Trung Quốc để thay
thế Hoa Kỳ trong vai trò siêu cường quốc toàn cầu”, ông Pillsbury đã trình bày
chi tiết các mưu kế của Bắc Kinh trong việc chủ động bậc đèn xanh để sẵn sàng bắt
tay với Hoa Kỳ hầu chống lại Liên Bang Sô Viết thời đó. Pillsbury là người nắm
giữa các vai trò then chốt của chính phủ Hoa Kỳ, khởi đầu trong chức vụ tình
báo tại Liên Hiệp Quốc đối với Liên Sô, và sau đó cho cả FBI và CIA, lại rành
rõi tiếng Hán với sự hiểu biết sâu sắc của các ý nghĩa thâm sâu và bí ẩn trong
ngôn ngữ ngoại giao, và nghiên cứu tỉ mỉ các cuốn Tôn Tử Binh Pháp, Tam Quốc
Chí và các tài liệu mật quốc gia hàng đầu bằng tiếng Hán mà ông đã thu thập
được trên bốn thập niên qua. Pillsbury đã kết luận rằng tất cả các lãnh đạo của
Hoa Kỳ từ thời Nixon và Kissinger cho đến nay đều đánh giá sai lầm về chủ
trương và mục đích của Trung Quốc. Pillsbury cũng đưa ra các bằng chứng chấn động
như các quyết định của Henry Kissinger hay Jimmy Carter, chẳng hạn, trong việc
sẵn sàng yểm trợ Trung Quốc về nhiều mặt, nhất là khoa học kỹ thuật, để hiện
đại hoá quốc gia này. Nhưng rồi chính Pillsbury, người chủ trương ủng hộ chính
sách yểm trợ và phát triển Trung Quốc ngay từ đầu, đã công khai thừa nhận là
mình sai lầm hoàn toàn, và thế giới nên cẩn trọng với một nước Trung Quốc mà
phe diều hâu trong giới lãnh đạo của họ hiện nay đã chủ yếu sử dụng biện pháp kỹ
xảo, trí trá (deception) - những kỹ thuật mà họ nghiên cứu kỹ lưỡng từ lịch sử
ngàn năm trước trong thời chiến quốc của họ - để áp dụng cho hoàn cảnh hôm nay.
Không
cần và không nên chờ đến ba thập niên nữa, tức kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng
Cộng Sản Trung Quốc năm 2049, để đánh giá về những gì ông Pillsbury trình bày
trong tác phẩm này. Nhìn vào những gì Trung Quốc đã và đang làm trong
những thập niên qua và trong thời gian tới thì nỗi lo âu cho một tương
lai bất định đang ngày càng gia tăng.
Sau
khi thay thế Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình đã yêu cầu Hoa Kỳ trợ giúp Trung Quốc
phát triển khả năng khoa học kỹ thuật của họ vì họ Đặng biết rõ sức mạnh của
quốc gia tuỳ thuộc vào mặt này [2]. Theo Pillsbury thì sau chuyến viếng tham
của họ Đặng tại Hoa Kỳ năm 1979, Trung Quốc gửi 50 sinh viên đầu tiên sang
Hoa Kỳ du học, và trong vòng năm năm về sau, Trung Quốc đã gửi 19 ngàn sinh
viên sang Hoa Kỳ chủ yếu học các ngành kỹ sư, khoa học vật lý và khoa học y tế,
và con số sinh viên du học về sau càng gia tăng. Carter ký Sắc lệnh Tổng
thống 43 năm 1978 chuyển nhượng các phát triển khoa học và kỹ thuật
cho Trung Quốc trong lĩnh vực giáo dục, năng lượng, nông nghiệp, không
gian, địa khoa học, thương mại, và y tế công cộng. Ronald Reagon ký
quyết định NSDD 11 năm cho phép Ngũ Giác Đài kỹ thuật tối tân về tên
lửa, không gian, hải quân, bộ binh để chuyển hoá Quân đội Giải phóng
Nhân dân thành lực lượng chiến đấu tầm vóc quốc tế. Tóm lại, Hoa Kỳ
đã góp phần lớn lao trong việc tạo nên sức mạnh của Trung Quốc như
đang thấy hiện nay.
Nhờ
khoa học kỹ thuật làm nền tảng cho sự hiện đại hoá và phát triển kinh tế của đất
nước, Trung Quốc đã tiếp tục đầu tư không ngừng cho khoa học kỹ thuật vì họ thấy
rõ nó là vũ khí lợi hại hàng đầu của quốc gia. Trung Quốc đã chuẩn bị kỹ càng
cho cuộc Cách mạng Công nghiệp Bốn, đặc biệt để nắm phần chủ động và ưu thế về
mặt tự động hoá (automation) và trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence, AI).
Ngoài Hoa Kỳ là nước dẫn đầu về AI hiện nay, lãnh đạo hàng đầu Trung Quốc không
hề dấu tham vọng đi đầu trong mặt trận này vào năm 2030 [3]. Tuy Hoa Kỳ hiện
chiếm giữ số chuyên gia AI cao nhất thế giới, số lượng nghiên cứu tại Trung Quốc
đang dần bắt kịp Hoa Kỳ. Trong khi ngân sách cho Nền tảng Khoa học Quốc gia của
Hoa Kỳ bị cắt giảm 10 phần trăm xuống còn 175 triệu đô la thì ngân sách dự chi
của Trung Quốc vào năm 2030 cho AI là 100 tỷ đô la. Sự chênh lệch về ngân sách
đầu tư cho nền khoa học kỹ thuật quốc gia như thế hiển nhiên sẽ dẫn đến kết quả
khác nhau vào năm 2030.
Trung
Quốc còn chuẩn bị chu đáo về mọi mặt cho sự trổi dậy của mình, từ kinh tế,
chính trị, ngoại giao, văn hoá, giáo dục cho đến quân sự, trong và ngoài lãnh
thổ Trung Quốc, trên đất liền, trên biển, trên không gian, xuyên lục địa, cả địa
cực và trên không gian xa như mặt trăng. Họ không chỉ học khoa học kỹ thuật của
Hoa Kỳ mà còn là kẻ ăn cắp sở hữu trí tuệ hàng đầu [4], và nghiên cứu mọi đường
đi nước bước làm sao Hoa Kỳ trở thành siêu cường quốc từ đầu thế kỷ 20 cho đến
nay.
Ngoài
sự phô trương sức mạnh hải quân Trung Quốc qua việc đưa quân sĩ và vũ khí tới
các quần đảo nhân tạo tại Biển Đông mà họ đã bồi đắp tại Hoàng Sa và Trường Sa
gần đây, Trung Quốc đã đẩy mạnh việc xây dựng các căn cứ hải quân ở vùng biển Ấn
Độ Dương. Những nỗ lực này nằm trong dự án tham vọng thế kỷ Vành đai và Con đường
(BRI) của họ. Djibouti là căn cứ hải quân đầu tiên, căn cứ thứ hai có thể nằm
gần Gwadar, phía Tây Pakistan, và cách đó 60 cây số về phía tây là căn cứ quân
sự khác có tên Jiwani [5]. Nhiều địa thế chiến lược khác cũng được cân nhắc,
như Hambantota thuộc Nam Sri Lanka hay các đảo Maldives thuộc Nam Ấn Độ v.v… Cảng
Kyaukpyu tại Rakhine State thuộc Miến Điện cũng đang nằm trong tầm tay của
Trung Quốc để biến thành căn cứ quân sự [6]. Nhưng Trung Quốc sẽ cần nhiều căn
cứ hải quân và không quân xuyên vùng Ấn Độ Dương để xây dựng một mạng lưới tạo
cho họ nhiều lựa chọn hơn và lợi thế chiến lược để có thể làm bá chủ.
Trong
vòng chỉ hơn mười năm, từ một quốc gia đóng vai trò không đáng kể, Trung Quốc
đã trở thành một quốc gia thành viên có hạng của cực (Nam Cực và Bắc Cực). Gọi
chung là polar states, là những nước có sức mạnh về quân sự, kinh tế và khoa học
[7]. Trung Quốc đã có đội ngũ nghiên cứu, đủ máy móc dụng cụ và đã xây dựng một
số căn cứ tại các cực này. Họ sẽ tiếp tục khai dụng ba địa bàn chiến lược mới
là các vùng cực Nam và Bắc này, các vùng biển sâu và không gian ngoài vũ trụ để
tìm tài nguyên mới để thực hiện giấc mộng của họ. Đưa robot lên phía bên kia
của mặt trăng dự tính thực hiện cuối năm nay là nằm trong chủ trương đó của
Trung Quốc để từng bước mở rộng “lãnh thổ” [8].
Thế
cờ vây
Theo
Pillsbury, một trong những chiến lược vĩ mô của Trung Quốc là thế
trận ngang – dọc (horizontal – vertical), được áp dụng cho tình huống
khi cần phải bao vây đối thủ/kẻ thù bằng cách xây dựng thế liên minh,
cùng lúc đó phá vỡ thế liên minh của đối thủ/kẻ thù để không bị
bao vây. Sử dụng mọi chiến lược và biện pháp trí trá nhất, bất ngờ
nhất, để đạt cho được mục tiêu, là cách thức của phe diều hâu Trung
Quốc hiện nay. Thế cờ wei qi, tên tiếng Anh là “go” game, tiếng Việt
là cờ vây, thể hiện suy nghĩ này của họ.
Trung
Quốc là sư tổ của cờ vây, họ đã chế ra nó và chơi nó trên hai ngàn rưỡi năm
nay. Ngày nay họ chơi nó ở kỹ thuật còn nhuần nhuyễn hơn nữa: dương đông, kích
tây; tằm ăn dâu (mà chữ tiếng Anh có nghĩa tương đồng là salami slicing
strategy). Thế cờ của họ ngày nay tinh vi đến độ họ đi cờ rồi, đối thủ cũng
không biết họ đã đi, và đã giăng bẫy bao vây khắp nơi ra sao. Sáu năm về
trước, thế giới bán tin bán nghi hành động lấn lướt của Trung Quốc
tại Biển Đông bởi trước đó họ luôn miệng lưỡi cho rằng họ trổi dậy
ôn hoà [9]. Nhưng từng bước tằm ăn dâu, từng bước đi trong thế cờ vây,
nhẹ nhàng nhưng vô cùng cẩn trọng, đối thủ bị bao vây, và gạo đã
“gần” thành cơm trong vấn đề Biển Đông. Nhìn lại, các cơ quan tình
báo hàng đầu của Hoa Kỳ chắc cũng không ngờ được mình đã lầm, như
Pillsbury đã chính thức công nhận.
Chưa
hết. Trong khi thế giới tập trung mọi mắt vào sự dàn trận công khai của họ
trên Biển Đông trong những ngày qua thì Trung Quốc lại kích tây: sửa soạn mọi
điều kiện cần thiết để xiết chặt hầu bao của các quốc gia trung và hạ nguồn
sông Mekong, trong đó có 60 triệu người sống nhờ vào nó. Sông Mekong giúp
sản xuất 40 phần trăm vựa lúa của Việt Nam, và là nguồn cung cấp ẩm
thực và chất đạm cần thiết cho bao triệu người dân Việt [10]. Thế
nhưng trong vòng 50 năm tới, các nền kinh tế của hạ nguồn sông Mekong
sẽ bị thâm thụt 7.3 tỷ đô la, trong đó Việt Nam và Cam Bốt sẽ chịu
thiệt thòi nhất.
Theo
Elliot Brennan thì điều khiển được lượng nước chảy dọc sông Mekong có
nghĩa là kiểm soát được thực phẩm của hàng triệu người đang dựa
vào mạch sống mà nó mang lại. Trong 11 dự án đập nước điện hiện nay
có hơn một nửa có bàn tay Trung Quốc nhúng vào, với dung lượng dự
trù hơn 15000 MW. Các đập nước này có thể lưu trữ 23 tỷ khối nước,
chiếm 27 phần trăm lượng nước chảy của sông này giữa Trung Quốc và
Thái Lan. Trung Quốc có ưu thế của thượng nguồn sông Mekong, lại sử
dụng tối đa lợi thế đó bất kể các quốc gia trung hay hạ nguồn ra
sao. Họ xem như thế cờ Dominoes. Khi muốn, họ có thể xả nước ở một
hay vài đập mà không cần thông báo trước. Các kênh đập ở dưới khi
biết phải tìm cách xả nước cấp bách qua các ngã đập tràn, mặc dầu
làm như thế sẽ ảnh hưởng đến nguồn điện lực, nhưng không có cách
nào khác. Cách xả nước như thế có nguy cơ gây lụt lội dưới hạ nguồn
hoặc làm hư hại các thành đập. Điều này đã xảy ra và các đập của
Trung Quốc ít hoặc không hề báo động cho các đập phía dưới, như tại
Lào. Thêm vào đó, dự án có tên “gieo mây” (cloud seeding) của Trung
Quốc tại Tianhe dự trù tăng lượng thu hoạch nước mưa lên 10 tỷ khối
nước, chiếm 7 phần trăm số lượng tiêu dùng cho dân số Trung Quốc.
Lượng nước này có thể được tiếp liệu vào sông Mekong và các nhánh
sông khác tại Trung Quốc. Điều đó có nghĩa là Trung Quốc sẽ sử dụng
để trừng phạt, chế tài hay cảnh cáo các nước hạ nguồn khi cần. Hoạ
vô đơn chí: 70 phần trăm các sông và rạch của Trung Quốc bị ô nhiễm
môi trường trầm trọng, cho nên các nước hạ nguồn sẽ lãnh đủ.
Bằng
cách phá đảo nhỏ, gềnh và đá trong và dọc bờ sông, Trung Quốc đã
làm rộng các nhánh sông để thuyền bè của họ đi lại dễ dàng. Họ đã
biến sông Mekong thành một ác mộng chiến lược. Ủy ban Sông Mekong,
thành lập năm 1995 để giải quyết các tranh chấp này, nhưng thái độ
của Trung Quốc là câu giờ, hống hách, trịch thượng, “cách của tôi,
còn không xin miễn”. Họ tự lập ra một cơ quan mới có tên Hợp tác
Lancang Mekong, và sử dụng củ cà rốt vào tháng Ba năm 2016 bằng cách
xả nước cho các quốc gia hạ nguồn đang bị hạn hán. Lấy tên là hợp
tác, nhưng Brennan cho rằng nó là tiền đề để giải quyết tranh chấp,
không phải hợp tác.
Sức
mạnh của chính nghĩa
Quyền
lực, khi được dùng cho việc chính nghĩa, sẽ mang lại những ảnh hưởng
tích cực vào mọi mặt xã hội; ngược lại, khi có quá nhiều quyền
lực trong tay, lại lọt vào bàn tay của những kẻ độc tài, xảo trá,
thì mức tai hại của nó vô cùng khủng khiếp.
Biển
của Việt Nam đang bị bao vây như thế, sông thì có nguy cơ bị điều
khiển như nắm yết hầu, trong khi sản xuất của Việt Nam có thể sẽ
không cạnh tranh nỗi với hàng hoá Trung Quốc trong một hai thập niên
tới nếu Việt Nam không chuẩn bị kỹ càng, trong khi đó Trung Quốc đã
chuẩn bị tối hảo cho cuộc Cách mạng Công nghệ Bốn này.
Người
Việt và nước Việt sẽ ra sao trong hai đến ba thập niên tới?
Đến
lúc đó Trung Quốc thật ra không cần xâm chiếm Việt Nam nữa. Họ đã
nắm gần như mọi yết hầu của dân tộc. Cuộc thực dân đế quốc kỳ này
sẽ không giống như những lần trước. Trung Quốc muốn xây dựng một trật
tự thế giới mới có lợi cho họ, thay thế trật tự thế giới tự do mà
Hoa Kỳ lãnh đạo hiện nay. Một khi họ đã đủ mạnh về quân sự, kinh
tế, khoa học kỹ thuật, và nhất là chính trị, các nước láng giềng
dù có độc lập và chủ quyền trên giấy tờ thì cũng không có tự chủ
tự quyết trên thực tế. Họ phải kính trọng và nghe theo Trung Quốc cho
một số chính sách nào đó, chẳng hạn. Có thể các lãnh đạo quốc gia
phải được sự chấp thuận của Bắc Kinh, hay phải nghe theo chỉ thị của
Bắc Kinh, như mô hình Hồng Kông hiện nay, chẳng hạn. Theo tôi, đây là
một hình thức đô hộ kiểu mới của đế quốc trong thế kỷ 21 nếu tiếp
tục cái đà hiện nay.
Trước
áp lực từ xã hội trong những ngày qua, ông Nguyễn Xuân Phúc đã nhượng bộ rằng
chính phủ đã lắng nghe ý kiến của người dân và sẽ xét lại thời hạn cho thuê của
luật Đặc Khu (cho ba địa điểm Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc) cho
thích hợp hơn, không còn 99 năm như dự trù nữa, trên báo Tuổi Trẻ. Không cần
đến 99 năm, 50 năm hay 30 năm thôi cũng đủ để thay đổi mọi vấn đề. Chưa biết
người sẽ mướn các đặc khu này là ai (mặc dầu dân chúng đều tỏ vẻ
biết rõ) và sẽ sử dụng nó như thế nào, có đưa đến sự huỷ hoại môi trường như
Formosa không, hay những hiểm hoạ khác mà nhà nước Việt Nam hiện nay chưa rõ
hay rõ nhưng chưa phổ biến thông tin này cho người dân. Tuy nhiên các kẻ hở
của bộ luật này, do cố tình hay ngây thơ, sẽ đưa đến những hậu quả
vô cùng to lớn và khôn lường. Dù gì đi nữa, đây rõ ràng là sự tính toán của
một số phe cánh quyền lợi với nhau mà người dân không hề biết cho đến
khi quốc hội Việt Nam sắp thông qua. Nếu là Trung Quốc và một số phe
nhóm quyền lợi Việt Nam đứng đằng sau các dự án và luật đặc khu này
thì rõ ràng nó nằm trong thế cờ vây của họ. Có được ba đặc khu này, nó
có thể giúp cho nước cờ vây của Trung Quốc đạt được mục tiêu bá chủ
của họ dễ dàng và nhanh chóng hơn, vì nó đều có một số vị thế
chiến lược quan trọng. Nhưng nếu không có ba đặc khu này, giấc mộng
bá quyền của Trung Quốc vẫn không thay đổi. Việt Nam vẫn bị Trung
Quốc bọc ép từ thế cờ Dominoes của sông Mekong bên hướng tây và Hoàng
Sa Trường Sa của Biển Đông ở hướng đông, cũng như các căn cứ quân sự
họ đang xây dựng trên Ấn Độ Dương.
Số
phận của dân tộc Việt Nam như cá nằm trên thớt, nhưng họ vẫn dửng
dưng. Kể cũng lạ. Có thể người ta đã quen với kẻ lạ!
Nói
như thế không có nghĩa là vô vọng. Chúng ta còn hy vọng nếu đồng
lòng. Tuy nhiên Việt Nam chỉ còn 10 đến 20 năm để xây dựng sức mạnh dân
tộc hầu vượt qua được cơn quốc nạn nguy biến này. Nếu không chuẩn bị
bây giờ thì e rằng mọi sự sẽ trễ. Nhà nước Việt Nam đã làm gì bấy
lâu nay, đã suy tính đường đi nước bước của Trung Quốc như thế nào,
và đã có chiến lược nào để chuẩn bị đối phó trong trận thế này?
Trong mọi tình huống, người dân là sức mạnh là sức sống của dân
tộc, nhưng nhà nước Việt Nam đã có những động thái nào trong việc
trang bị cho dân và cùng với dân tìm ra những biện pháp thích hợp
ngăn chặng thế cờ vây này, thay vì cứ tiếp tục coi dân như cỏ rác và
đàn áp những người có lòng với đất nước dân tộc!
Đây
là cơ hội sống còn để tìm giải pháp khó khăn nhưng cần thiết cho quốc
gia. Việt Nam cần phải cải tổ toàn diện. Việt Nam không thiếu nhân
tài, không thiếu lòng yêu nước, nhưng thiếu lãnh đạo sáng suốt, trong
sạch và có tầm nhìn. Lãnh đạo sáng suốt phải bắt đầu bằng tinh
thần biết lắng nghe. Bước đầu tiên và quan trọng nhất là chấp nhận
các tiếng nói khác biệt để tìm ra lẽ phải. Không ai được độc quyền
về lẽ phải. Cùng nhau, những trái tim và khối óc Việt Nam, như các
thế hệ cha ông của chúng ta đã từng làm trong hai ngàn năm qua, sẽ
tìm ra phương cách xây dựng lại sức mạnh dân tộc để ngăn cản hiểm
hoạ và các bước tiến thâm độc của phương Bắc.
Phạm
Phú Khải
08/06/2018
Tài
liệu tham khảo:
1.
Michael Pillsbury, “The Hundred Year Marathon”, Henry Holt and Company,
February 2015.
2.
Tìm đọc “Chính
Đề Việt Nam” của ông Ngô Đình Nhu. Ông là người nhìn rất rõ và
nhấn mạnh đến nhu cầu phát triển đất nước bằng khoa học kỹ thuật
và tư tưởng, đặc biệt là cách làm việc có tổ chức và khoa học.
3.
Elsa B. Kania, “Artificial
Intelligence and Chinese Power”, Foreign Affairs, 5 December 2017.
4.
Philip Ewing, “Gates:
French cyber spies target U.S.”, Politico, 22 May 2014.
5.
David Brewster, “China’s
new network of Indian Ocean bases”, Lowy Institute, 30 January 2018.
6.
David Brewster, “China’s
play for military bases in the eastern Indian Ocean”, Lowy Institute, 15
May 2018.
7.
Anne-Marie Brady, “China's
undeclared foreign policy at the poles”, Lowy Institute, 30 May 2017.
8.
Morris Jones, “The
Moon is still strategic”, Lowy Institute, 24 May 2018.
9.
Robert Haddick, “Salami
Slicing in the South China Sea”, Foreign Policy, 3 August 2012.
10.
Elliot Brennan, “China
eyes its next prize – the Mekong”, Lowy Institute, June May 2018.