Jefrey Bader
Phạm Gia Minh dịch
Chuyến đi của tôi tới Myanma là một dịp để thể hiện những
vấn đề lớn và nhỏ trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ và cũng để rà soát xem
cái gì được và cái gì chưa được.Chuyến đi đó diễn ra ngay trước khi có thông
báo về việc Tổng thống Obama sẽ viếng thăm Myanma vào nửa sau tháng 11 – một
hành động sẽ gây chú ý vềcuộc cải cách ở xứ này đối với Phương Tây.
Sau đây là các câu hỏi và những câu trả lời mang tính
chất thăm dò:
1) Myanma có thực sự cải cách không?
Có vẻ là như vậy. Có rất nhiều dấu hiệu khẳng định điều
này trong chuyến đi của tôi. Các sĩ quan cao cấp mà tôi đã gặp gỡ, trao đổi một
cách đầy thuyết phục rằng họ cam kết cải cách dân chủ. Một vị Bộ trưởng còn nhắc
tới sự kiện người hùng dân chủ Aung San Suu Kyi tham gia vào một cuộc hội thảo
do Chính phủ tổ chức gần đây với thái độ tích cực. Báo chí đăng tải một cách
sinh động các cuộc tranh luận thực sự không bị kiểm duyệt khắp nơi như cách đây
2 thập kỷ. Hình Aung San Suu Kyi và người cha Aung San – nhân vật sáng lập nước
Miến Điện ngày nay, có thể thấy trên bức tường các quán ăn. Một phái đoàn đông
đảo của Hoa Kỳ về nhân quyền viếng thăm chính thức và gặp gỡ các sĩ quan hàng đầu
Myanma. Người dân thường nói về những thay đổi sâu sắc trong bầu không khí toàn
xã hội, về nguyện vọng của họ được nêu lên những vấn đề mà ngay gần đây họ còn phải sợ hãi và nín lặng.Sự thay đổi
tâm trạng xã hội này đã diễn ra sau một loạt các bước đi nhằm dỡ bỏ những nền tảng
chính yếu trong bộ máy đàn áp của Chính phủ quân sự Myanma – đó là việc thả
hàng trăm tù chính trị, cho công khai hóa đảng đối lập Liên minh Toàn quốc vì
Dân chủ (National League for Democracy), cho phép tổ chức các cuộc biểu tình
hòa bình và tái khởi động các cuộc đàm phán với những nhóm phiến quân dân tộc
thiểu số.
2) Vai trò của Aung San Suu Kyi và hoạt động hiện nay của
bà?
Aung San Suu Kyi vẫn là nhân vật chính trị đại chúng duy
nhất ở Myanma. Bà và đảng của bà đã thắng rõ rệt trong cuộc bầu cử hồi tháng
4/2012 sau khi bà mãn hạn quản thúc tại gia. Có đủ lý do để tin rằng bà và đảng
của bà sẽ thắng tại cuộc bầu cử toàn quốc năm 2015 và sẽ có khả năng thành lập
chính phủ.Để chuẩn bị, bà đang tiến hành một đường lối rất thực dụng, gặp gỡ
các quan chức Chính phủ, liên kết với Tổng thống Thein Sein và phát biểu tích cực
về họ trong buổi lễ do tổ chức Huân chương Vàng của Quốc hội Hoa Kỳ
(Congressional Gold Medal) tổ chức. Đã có những lời phàn nàn trong cộng đồng đấu
tranh vì nhân quyền ở hải ngoại về đường lối thỏa hiệp rõ ràngcủa bà trong các
chính sách quốc gia. Bà đang đối mặt với sự phỏng đoán rằng đã tới lúc bà phải
từ bỏ vai trò của một thần tượng để trở thành một nhà hoạt động chính trị, cũng
giống như Lech Walesa từng bị đồn đoán là đã hợp tác với tướng Jaruzelski ở nước
Balan cộng sản vào đầu những năm 1980.
3) Liệu có ai đó ở phương Tây đã thấy trước những gì đang diễn ra?
Có thể một vài người đâu đó ở phương Tây đã dự đoán được
rằng Myanma sẽ cải cách dân chủ, thế nhưng theo hiểu biết chung thông thường
thì không. Các nhà phân tích tình hình Á châu cả bên trong lẫn ngoài chính phủ,
các bài xã luận trên các báo và các tổ chức nhân quyền, tất cả đều coi thường
việc thành lập chính phủ dân sự hồi tháng 4/2011 và coi những cuộc bầu cử năm
ngoái là mang tính chất gian lận, lừa dối. Họ nhìn nhận việc thả bà Aung San
Suu Kyi là không có mấy ý nghĩa chính trị và dự đoán một tương lai chính trị u
ám cho quốc gia này.
4) Vậy thì điều đó đã xảy ra như thế nào?
Có nhiều lý thuyết nghiên cứu về quá khứ nhưng không có
lý thuyết nào hoàn toàn làm chúng ta thỏa mãn. Tuy nhiên có một yếu tố quan trọng
mà dường như nó đã khái quát hóa ước vọng muốn thoát ra khỏi sự lệ thuộc ngày một
gia tăng vào Trung Quốc bằng cách thiết lập nền móng cho những mối quan hệ mới
với phương Tây. Trong lịch sử, Myanma là một quốc gia có ý chí độc lập rất mãnh
liệt, chẳng hạn như họ đã rời bỏ phong trào Không liên kết chỉ bởi lẽ họ cảm thấy
phong trào này quá liên kết. Thái độ oán giận sự hiện diện của Trung Quốc với
những nhà máy, xí nghiệp đang chiếm lĩnh các ngành công nghiệp khai khoáng
trong khi đó lại tạo ra ít việc làm cho người Myanma bản địa, càng ngày càng
sâu sắc. Một số chuyên gia Miến, trong đó có Thant Myint-U , cháu nội của cố Tổng
thư ký Liên Hiệp Quốc tướng U-Thant trong một bài viết đã tiên đoán về tâm trạng mới mẻ của tầng lớp
sĩ quan trẻ Myanma – những người đóng vai trò trung tâm trong việc thúc đẩy cải
cách. Các nhóm hoạt động đấu tranh vì nhân quyền đã chỉ ra hậu quả của những
năm tháng bị cấm vận nhằm thuyết phục ban lãnh đạo đất nước có một đường lối mới
phù hợp. Hành động can dự có uy tín của ASEAN cũng góp phần đánh đổ sự chống đối
của các tướng lĩnh trước cộng đồng quốc tế. Bên trong Myanma, các tướng lĩnh
cao tuổi dường như tin chắc rằng họ sẽ không bị trả giá về các hành vi đàn áp
trong quá khứ và tầng lớp sĩ quan nhìn chung hài lòng rằng vai trò đặc biệt của
họ trong nền chính trị Myanma vẫn sẽ được bảo đảm bởi Hiến pháp mà theo đó họ vẫn
có những ưu tiên và đặc lợi to lớn. Cảm giác an toàn trong hàng ngũ các cựu
lãnh đạo quân đội có thể đã giúp họ sẵn sàng chấp nhận sự mở cửa về chính trị
hiện nay.
5) Vậy thì vai trò của chính phủ Hoa Kỳ là gì?
Từ năm 1990 tới năm 2008 các chính quyền nối tiếp nhau lại
được Quốc hội thúc đẩy đã đưa ra hết biện pháp trừng phạt này đến biện pháp trừng
phạt khác đối với Myanma – chẳng hạn như cấm các khoản đầu tư mới, cấm nhập khẩu,
nêu tên các cá nhân và công ty bị trừng phạt tài chính. Dưới thời George
W.Bush, Đệ nhất Phu nhân Laura Bush đóng một vai trò quan trọng trong việc công
khai cho thế giới biết rằng chế độ quân sự Myanma phải tiếp tục là mục tiêu cho
sự cô lập.
Trong diễn văn nhậm chức của mình, Tổng thống Obama đã đề
nghị chìa tay ra cho các kẻ thù của nước
Mỹ “nếu như họ cũng mong muốn nới lỏng nắm đấm”. Chính sách này mang lại ít kết
quả tích cực trên toàn thế giới, ngoại trừ trường hợp Myanma. Chính quyền (của
Obama – ND) đã quyết định sớm mở kênh ngoại giao liên hệ với lãnh đạo Myanma do
Trợ lý Ngoại trưởng Kurt Campbell chỉ đạo
nhằm đưa ra chương trình nghị sự cho cải cách chính trị và không phổ biến vũ
khí hạt nhân của Myanma để phía Hoa Kỳ có thể giảm nhẹ các biện pháp trừng phạt.
Thiện chí của Chính phủ Hoa Kỳ được bày tỏ ở cấp có thẩm quyền đã cung cấp một
lịch trình thiết lập những mối quan hệ tốt đẹp và điều này đã giúp Chính phủ
Myanma được động viên, khích lệ và tự tin để bước tiếp. Quyết định của chính
quyền Obama phối hợp cùng với các đồng minh Châu Âu và Australia giảm nhẹ đáng
kể các biện pháp trừng phạt hồi đầu năm nay đã có tác động thúc đẩy hơn nữa cải
cách chính trị và kinh tế vốn vô cùng cần thiết lúc này.
6) Có thể rút ra những bài học chung nào về việc áp dụng
các biện pháp trừng phạt như công cụ để làm thay đổi hành vi những kẻ xấu chơi?
Các biện pháp trừng phạt đôi khi là cách hiệu quả duy nhất
của Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế nhằm cho các chế độ độc tài thấy hành vi của họ
là không thể chấp nhận được. Đó chính là trường hợp với Myanma đã tiếp diễn
trong nhiều năm. Có thể nói sự trừng phạt được thực thi là phù hợp.
Tuy nhiên, cần nhớ rằng các biện pháp trừng phạt bản thân
không phải là mục đích cuối cùng. như lời của một bài hát “bạn cần biết khi nào
nên kìm giữ và khi nào thì nên ôm”. Có những thế lực bảo thủ và khó cưỡng lại
được ở Washing ton vẫn tiếp tục đường lối trừng phạt cho dù chính sách đó có dẫn
tới kết quả tích cực hay không. Các nhóm nhân quyền đôi khi nhìn nhận sự trừng
phạt kẻ độc tài như một biện pháp trong chính sách hợp lý, mang tính đạo đức của
chính phủ và họ còn thông tin rộng rãi những vi phạm của các chế độ độc tài nhằm
tập hợp sự ủng hộ của quần chúng để lập quỹ hỗ trợ cho các đợt vận động áp dụng
các biện pháp trừng phạt với tư cách là sản phẩm cuối cho hoạt động của họ. Quốc
hội thì muốn chứng tỏ mình đang làm gì đó, bất kể là có hiệu quả hay không, các
chế độ độc tài bị trừng phạt nhờ đó lại trở nên được thế giới biết đến . Động
thái này là rất rõ ràng trong trường hợp đối với Cuba. Chính sách trừng phạt
Cuba được thực thi đã 50 năm nay và sự nhiệt thành ủng hộ nó từ phía các diễn
viên chính trị Hoa Kỳ vẫn không hề suy giảm,rút cục càng củng cố sự cầm quyền của
anhem nhà Castro. Mọi người, kể cả tầng lớp chính trị Hoa Kỳ, các nhóm đấu
tranh riêng rẽ và anh em nhà Castro dường như đều hài lòng với hiện trạng đó,
trừ nhân dân Cuba mới là những nạn nhân của hoàn cảnh. Chính sách đối với
Myanma cũng được đưa ra theo mô hình Cuba nhưng may mắn là giờ đây nó đã được
tách ra theo đường hướng khác.
7) Liệu chính phủ Hoa Kỳ đã chuẩn bị một cơ cấu phù hợp
để xử lý vấn đề kiểu như Myanma chưa?
Kể từ thời Tổng thống Carter, đã bắt đầu gia tăng nền móng hạ tầng các văn phòng và lực lượng
nhân viên chuyên trách vấn đề nhân quyền, được tách ra từ mảng chính sách đối
ngoại và an ninh quốc gia. Các văn phòng này sau đó trở thành tiếng nói của cộng
đồng các tổ chức nhân quyền phi chính phủ (NGO) nhưng được đặt bên trong Chính
phủ Hoa Kỳ, đóng vai trò như cái loa của các tổ chức nhân quyền NGO, tìm cách
tham gia vào các báo cáo của Ủy ban nhân quyền Hoa Kỳ và đấu tranh ủng hộ các
biện pháp đặc biệt do các NGO đề đạt. Theo một cách nào đó, điều này không khác
biệt hoàn toàn với cái cách mà các bộ phận cử tri khác được đại diện trong bộ
máy của chính sách ngoại giao, chẳng hạn như
việc kinh doanh thì đượcthông qua Ủy ban Kinh tế và Văn phòng kinh
doanh. Tuy nhiên việc nhận biết các văn phòng nhân quyền với khu vực cử tri của
nó có vẻ như là lối tư duy đơn giản (cần ghi nhận rằng Trợ lý Bộ trưởng về các
vấn đề Dân chủ, Nhân quyền và Việc làm, Michel Posner thực chất đã thoát ra khỏi
sự ràng buộc này để hoạt động với tư cách là người bảo vệ cho nhân quyền nhưng
lại chú trọng vào kết quả thực tế, không thiên về bề ngoài và mang sắc thái
quan tâm tới những mục tiêu của chính sách ngoại giao rộng lớn).
Thời gian còn là Vụ trưởng Vụ Các vấn đề Châu Á thuộc
Hội đồng An ninh Quốc gia, trong giai đoạn thay đổi chính sách của Hoa Kỳ đối với
Myanma vào khoảng từ 2009 tới 2011 tôi đã chủ trì một số cuộc họp liên cơ quan
(còn có tên gọi là Ủy ban Chính sách liên cơ quan) bàn về Myanma. Thông thường,
những cuộc gặp như thế đều có sự góp mặt của một đại diện cấp cao của mỗi cơ
quan và có một nhân viên trợ lý tháp tùng. Trong trường hợp Myanma, không ít
hơn 7 văn phòng thuộc Bộ Ngoại giao, đó là
vụ Đông Á, Vụ Nhân quyền, Vụ Phái đoàn Hoa kỳ tại Liên Hiệp Quốc, Văn
phòng liên lạc của Bộ Ngoại giao phái đoàn Hoa kỳ tại LHQ,Phái bộ Hoa Kỳ tại
các Tổ chức quốc tế ở Geneva, Đại sứ Hoa Kỳ về Tội ác chiến tranh và cảVụ Người
tỵ nạn cùng tham dự. Trong những cuộc họp như vậy,các vụ tham dự thường mong đợi
có chung một tiếng nói nhưngvới 7 cơ quan cùng tham gia và ai cũng tìm cách để
tiếng nói của mình được nghe thì quả thực là rất khó, thậm chí là không thể đạt
được điều này. Một số cơ quan rất hăng hái tìm cách lập Ủy ban Điều tra tội ác
chiến tranh của chế độ Myanma ngay vào đúng thời điểm bà Aung San Suu Kyi vừa
được gỡ bỏ tình trạng bị quản thúc tại gia và đã xuất hiện những dấu hiệu chưa
rõ ràng về một sự nới lỏng đàn áp. Chỉ sau khi trao quyền cho Trợ lý Vụ trưởng
Vụ Đông Á và Thái Bình Dương được phát ngôn thay cho Bộ Ngoại giao và chỉ đạo
công tác đối ngoại mà không có các nhóm khác của Bộ gây nhiễu thì cuối cùng
chính quyền mới có thể đưa ra một đường lối mạch lạc và thành công.
8) Con đường nào là hữu hiệu nhất để xử lý các vấn đề
có sự tham gia của những kẻ xấu chơi như chế độ Myanma?
Các tổ chức NGO có một vai trò không ai thay thế được
trong việc theo dõi những vụ lạm dụng nhân quyền, thu hút sự chú ý của công
chúng vào những vụ vi phạm nhân quyền và kẻ thủ phạm đồng thời huy động cộng đồng
quốc tế chú ý giám sát chúng.Đó chính là một trong những đặc điểm đáng tự hào của
xã hội dân chủ có lương tâm nơi mà hoạt động của các các nhóm gồm những người tự
nguyện cam kết bảo vệ lẽ công bằng ngay cả tại những góc khuất nẻo nhất trên
hành tinh này để quyết làm cho tiếng nói của những nạn nhân của sự bất công được
thế giới nghe thấy. Chúng ta không những không được coi thường hay đánh giá thấp
các nhóm nhân quyền này mà cần phải tôn vinh và tán dương đồng thời khuếch trương vai trò của họ.
Thế nhưng chính phủ Hoa Kỳ lại cần phải đóng một vai
trò khác trong khi vấn đề nhân quyền nhất định không được hạ thấp. Chẳng nên
khuyến khích thành lập và phát triển các văn phòng có mục đích tạo ra thêm ranh
giới giữa những quan chức chính phủ khi mà ưu tiên hàng đầu của họ là an ninh
quốc gia của chúng ta và thành công trong chính sách đối ngoại cũng như cam kết
mạnh mẽ về nhân quyền. Không nên để xảy ra tình trạng những nhóm nhỏ các nhân vật chuyên trách thể hiện các mối quan tâm về
nhân quyềnđồng thời hành động với tư cách là đại diện của cộng đồng NGO, trong
khi các quan chức chính phủ chịu trách nhiệm về an ninh quốc gia và chính sách
đối ngoại lại phản ứng bằng câu trả lời
có tính chất coi nhẹ vấn đề nhân quyền. Cơ cấu hiện nay của chúng ta thường
xuyên gây ra các cuộc đấu khẩu mang tính hình thức ở nhiều quốc gia thuộc diện
xấu chơi (trong lĩnh vực nhân quyền – ND) . Trong các trường hợp đó, những quan
chức Chính phủ chịu trách nhiệm nặng nề về an ninh quốc gia có xu hướng quan
tâm nhiều hơn tới nhân quyền khi tiếp xúc với các nước có tầm quan trọng chính
yếu về vấn đề an ninh ví dụ như TQ, Saudi Arabia và Pakistan, tuy nhiên họ lại
tỏ ra chậm trễ đối với các văn phòng nhân quyền phụ trách các quốc gia ít quan
trọng hơn trong chính sách đối ngoại, chẳng hạn như Myanma. Đó không thể là
khuôn khổ cho sự thành công hoặc cho một sự phát triển chính sách hợp lý. Chính
phủ của chúng ta cần làm cho các quan chức hàng đầu về an ninh quốc gia nhạy cảm
hơn đối với sự cần thiết phải thiết kế vấn đề nhân quyền trong chính sách của
mình một cách hiệu quả hơn, đồng thời nhắc nhở các văn phòng nhân quyền rằng họ
cũng cần phải tận tâm cam kết với các mục tiêu an ninh quốc gia Hoa Kỳ rộng lớn
chứ không chỉ là sự tiến bộ của chương trình nghị sự mang tính kỹ năng đặc biệt
của tổ chức NGO.
Nguồn:http://gocsan.blogspot.com/2012/11/prospects-of-political-reforms-in.html