Phạm Văn Tuấn
Trong công việc tìm hiểu bản chất con
người, bản chất của thiên nhiên và Thượng Đế, các nhà thơ, nhà văn, nhà triết học…
đã biểu lộ niềm tin của mình qua các tác phẩm. Hình ảnh của bản ngã (the
self) đã thay đổi trong văn chương, chẳng hạn từ thời Shakespeare qua
các giai đoạn lãng mạn và thời đại Victoria, tới chủ nghĩa cá nhân
hiện tại. Cho nên muốn hiểu rõ các tác phẩm văn học, cần phải hiểu thêm các tư
tưởng triết học, các khuynh hướng trí thức quan trọng qua nhiều thế kỷ.
Đã có sự liên hệ giữa cách suy tưởng
lý thuyết với các hình ảnh diễn tả trong văn chương. Nhờ lý thuyết về Kinh Tế Học
của Adam Smith (1723-1790), Charles Dickens đã
đạt được cách nhìn sâu sắc nhắm vào các điều phức tạp và các sự bất công của xã
hội tư bản. Charles Dickens đã mở lối cho các nhà văn danh tiếng sau này là Henry
James và Henry Adams. Các tác phẩm về phân tâm học củaSigmund
Freud đã dọn đường cho James Joyce và Virginia Woolf.
Sau khi Adam Smith bàn luận về thị trường, Karl Marx đã phân
tích bản chất của chế độ tư bản của thời kỳ cuối thế kỷ 19. Lý thuyết Mác Xít (Marxism)
đã đưa tới Cuộc Cách Mạng Cộng Sản Nga xẩy ra vào năm 1917 và sự bành trướng của
Đế Quốc Xô Viết sau trận Thế Chiến Thứ Hai.
1776 là năm các thuộc địa Bắc Mỹ tuyên
bố độc lập và Bản Tuyên Ngôn Độc Lậpcủa Hoa Kỳ đã tạo ra các nền tảng
chính trị của Thế Giới. Cũng vào năm 1776 xuất hiện tác phẩm Tài Sản của
các Quốc Gia (the Wealth of Nations) và nền triết học về tài
sản của Adam Smith đã dẫn đường cho thế giới kinh tế ngày nay. Adam
Smith đã nhìn thấy một bàn tay vô hình (an invisible hand)
chi phối tài sản và các cách tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, rồi tác giả cắt nghĩa
sức mạnh và cách hoạt động của thị trường.
Tài Sản của các Quốc Gia là tác phẩm đầu tiên viết về ngành
chính trị kinh tế học (political economy), đã thảo luận sự liên hệ giữa
tự do và trật tự, phân tích các phương thức kinh tế (economic processes),
tấn công hệ thống trọng thương (the mercantile system)
của nước Anh bởi vì hệ thống này đã giới hạn nền tự do mậu dịch (free
trade).
Tác phẩm Tài Sản của các Quốc
Gia đã trình bày các vấn đề căn bản của trật tự xã hội và sự tiến bộ của
con người trong một xã hội mà cá nhân đi theo con đường tư lợi (self-interest),
đã sản xuất ra các mặt hàng mà các người khác cần mua. Người bán và người mua gặp
nhau tại thị trường rồi nhờ thị trường mà có sự hòa hợp xã hội.
1. Cuộc đời của Adam Smith
Adam Smith là một nhân vật trầm lặng,
sống một cuộc đời ẩn dật, một con người ít viết thư từ và đã ra lệnh đốt bỏ một
số bản thảo khi gần qua đời vì vậy người đời sau hiểu rõ các tư tưởng của Adam
Smith hơn là cuộc đời của nhà Kinh Tế Học này.
Không có tài liệu nào ghi rõ ngày
sinh của Adam Smith, chỉ biết rằng ông được rửa tội vào ngày 5 tháng 6 năm 1723
tại Kirkcaldy, một ngôi làng đánh cá nhỏ nhưng thịnh vượng với dân số gần 1,500
người và nơi này gần thành phố Edinbug, xứ Tô Cách Lan. Adam Smith là con trai
của ông Adam Smith trong lần lập gia đình thứ hai với bà Magaret Douglas, con
gái của một chủ đất giàu có. Ông Adam Smith cha chỉ là một người kiểm soát thuế
vụ, đã qua đời trước khi Adam sinh ra. Người ta không biết gì về tuổi trẻ của
Adam ngoài câu chuyện kể lại rằng năm lên 4 tuổi, Adam đã bị bắt cóc do một
nhóm người Gypsies sống lang thang và sau cuộc báo động tìm kiếm, cậu bé Adam
đã được nhóm người kia bỏ lại.
Năm 1737 và ở vào tuổi 14, Adam Smith
theo học Đại Học Glasgow vào thời gian này đã là một trung tâm
danh tiếng của thời kỳ Khai Sáng (Enlightenment). Giảng dạy tại đại học
này có Giáo Sư Francis Hutcheson nổi danh về ngành triết học
luân lý (moral philosophy), là người đầu tiên dạy sinh viên bằng tiếng
Anh, không dùng tiếng La Tinh, và các quan điểm về Kinh Tế và Triết Học của ông
Hutcheson đã ảnh hưởng rất mạnh tới Adam Smith sau này. Trong một bức thư viết
15 năm sau, Adam Smith đã nói tới Tiến Sĩ Hutcheson không bao giờ có thể
quên được. Tốt nghiệp năm 1740, Adam Smith nhận được một học bổng, theo học
trường Balliol thuộc Đại Học Oxford. Trong thời gian sáu năm tại
trường đại học này, các sinh viên học tập cách tự học (self-education) để
quán triệt các nền triết học cổ điển và đương thời, họ phải đọc các tác phẩm của
các tác giả Hy Lạp và La Mã, cùng với các công trình của các giáo sư đại học thời
đó.
Khi trở lại Glasgow, Adam Smith đi
tìm việc làm. Nhờ các liên hệ của gia đình bên mẹ, nhờ sự trợ giúp của nhà luật
học và triết học Lord Henry Kames, Adam Smith được nhận làm Giảng
Sư tại Đại Học Edinburg với nhiệm vụ phụ trách các buổi thuyết
trình công (public lectures), đây là một hình thức giáo dục với tinh thần cải
tiến (improvement) được các nhà trí thức thời đó ưa chuộng. Các
bài thuyết trình công này gồm nhiều đề tài từ môn tu từ học (rhetoric) tới
ngành chính trị kinh tế học (political economy). Trong bài điếu văn viết
về Adam Smith nhiều năm về sau, Tạp Chí Quý Ông (Gentleman
‘s Magazine) đã bình luận rằngcách phát âm và thể văn của ông Adam Smith
đã hơn hẳn những thứ đang dùng tại xứ Tô Cách Lan.
Trình độ hiểu biết của Adam Smith đã
khiến cho ông được mời làm Giáo Sư Lý Luận (professor of logic) tại
Đại Học Glasgow vào năm 1751 ở tuổi 27, rồi năm sau, trở thành Giáo Sư môn Triết
Học Luân Lý (moral philosophy), một môn học bao gồm các ngành thần học tự
nhiên (natural theology), đạo đức học (ethics), luật học (jurisprudence)
và chính trị kinh tế học.
Thời gian đảm nhận chức vụ Giáo Sư tại
Đại Học Glasgow là thời kỳ sung sướng nhất và danh dự nhất
của đời tôi, theo như lời Adam Smith mô tả về sau. Mỗi ngày trong tuần lễ,
ông Adam thuyết giảng từ 7:30 tới 8:30 sáng trước lớp học tối đa 90 sinh viên
tuổi từ 14 tới 16, còn đợt giảng bài từ 11 giờ tới 12 giờ trưa được thực hiện 3
lần một tuần lễ. Vào buổi chiều, ông lo công việc của trường đại học khiến cho
vào năm 1758, Adam Smith được bầu làm khoa trưởng. Các bạn và người quen của
Adam Smith trong thời gian này gồm một số nhà quý tộc, nhiều người nắm giữ các
chức vụ cao cấp của chính quyền. Các nhà trí thức và khoa học gồm có Joseph
Black, một người tiền phong về ngành Hóa Học, James Watt là
nhà phát minh ra máy hơi nước, Robert Foulis là nhà sáng lập
ra Viện Hàn Lâm Kiểu Mẫu của nước Anh (The British Academy of Design), David
Hume là nhà triết học danh tiếng. Adam Smith còn quen thân với Andrew
Cochran, một nhà buôn, nguyên viện phó của Đại Học Glasgow, người sáng lập
ra Câu Lạc Bộ Chính Trị Kinh Tế Học (the Political Economy Club), nhờ đó
Adam Smith thu thập được nhiều hiểu biết của thế giới thương mại để rồi về sau
viết ra tác phẩm Tài Sản của các Quốc Gia.
Tác phẩm đầu tiên của Adam Smith là
cuốn Lý thuyết về các Tình Cảm Luân Lý(The Theory of Moral
Sentiments) xuất bản vào năm 1759, được viết ra với thể văn hào nhoáng, chải
chuốt, chứa đựng nhiều giai thoại, mang tính chất phân tích và tác phẩm này đã
tạo nên thứ ấn tượng sâu xa. Adam Smith đã mô tả qua tác phẩm các nguyên tắc về bản
chất con người (human nature) và đặt vấn đề về nguồn gốc của khả năng
tạo ra các phán xét luân lý, kể cả cách phán xét các hành vi của chính mình
trong việc tư lợi (self-interest) và tự bảo tồn (self-preservation).
Adam Smith đã cho rằng trong mỗi người chúng ta có một con người bên
trong(an inner man) đóng vai trò một người khách quan không thiên vị,
thường chấp nhận hay lên án các hành động của chính ta và của các người khác.
Qua tác phẩmCác Tình Cảm Luân Lý, Adam Smith đã có nhận xét quan trọng
như sau mà sau này ông lặp lại trong tác phẩm Tài Sản của các Quốc Gia: con
người tự tìm kiếm mình (self-seeking men) thường bị dẫn dắt bởi một bàn tay vô
hình (an invisible hand) … mà không ai biết, không do chủ đích, để làm thăng tiến
các lợi ích (interest) của xã hội. Các cá nhân được xã hội hóa để trở nên các
thành viên giàng buộc bởi giai cấp và theo khuynh hướng thị trường
(market-oriented) nhờ đó hệ thống kinh tế vận chuyển.
Tác phẩm Lý thuyết về các
tình cảm luân lý đã sớm mang lại danh tiếng cho Adam Smith. Nhiều người
từ xa đã tới nghe ông diễn thuyết kể cả hai sinh viên từMoscow. James Boswell cũng
xác nhận lý thuyết của Adam Smith là quan trọng và Charles Townshend đã
phải chú ý đến lý thuyết này. Ông Townshend là một nhà trí thức kiêm kinh tế học
tài tử, một chính khách nhiều ảnh hưởng và về sau là Bộ Trưởng Thương Mại (Chancellor
of the Exchequer) tức là nhân vật chịu trách nhiệm về các chính
sách thuế vụ của nước Anh mà hậu quả là Cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ. Ông Townshend mới
lập gia đình và đang tìm kiếm một gia sư cho đứa con riêng của bà vợ, tức là Hầu
Tước Buccleuch trẻ. Do sự thán phục tác phẩm kể trên và cũng
do lời khuyên của David Hume, Charles Townshend đề nghị với Adam Smith một số
thù lao khó từ chối: lương 500 bảng Anh một năm cộng với phí tổn du lịch và một
số tiền hưu tương đương, tất cả lớn gấp hai lợi tức của chức vụ giáo sư trong
khi thứ lợi tức này tùy thuộc vào học phí thu được của sinh viên.
Vào năm 1763 Adam Smith từ chức khỏi
Đại Học Glasgow rồi cùng vị Hầu Tước Buccleuch trẻ sang Pháp. Họ cư ngụ phần lớn
thời gian tại Toulouse và trong hoàn cảnh buồn tẻ này, Adam
Smith bắt đầu viết tác phẩm Tài Sản của các Quốc Gia. Sau 18 tháng
rảnh rỗi là hai tháng sống tại Geneva và Adam Smith đã được gặp Voltaire là
nhân vật mà ông kính trọng. Sau đó Adam Smith đi tới thành phốParis. Vào
thời gian này, David Hume là Đại Sứ Anh tại nước Pháp. Adam Smith được giới thiệu
với các câu lạc bộ văn học danh tiếng của phong trào Khai Sáng (the French
Enlightenment) và nhờ vậy ông làm quen với nhóm các nhà lý thuyết và cải
cách xã hội, được gọi là các nhà kinh tế (les économistes), đứng đầu nhóm là Francois
Quesnay. Đây là phong trào tìm kiếm phương pháp canh tân nền nông nghiệp của
nước Pháp bằng đường lối cải cách hệ thống thuế vụ và ông Quesnay đã phân tích
lý thuyết về công việc tiêu dùng đã được vận chuyển ra sao trong chu kỳ kinh tế
để sinh ra tài sản và sự tăng trưởng kinh tế. Adam Smith đã không đồng ý với
ông Quesnay về niềm tin rằng chỉ có các nông dân lao động trực tiếp với thiên
nhiên hay đất đai mới thực sự làm ra tài sản, thế nhưng ảnh hưởng của ông
Quesnay đối với Adam Smith rất lớn lao khiến cho nhà Kinh Tế Học người Anh này
đã có ý định đề tặng tác phẩm Tài Sản của các Quốc Gia cho ông
Quesnay nếu như ông này đã không qua đời trước khi cuốn sách được xuất bản.
Cuộc hành trình của Adam Smith tới
thành phố Paris bị cắt ngang vì cậu em trai của Hầu Tước Buccleuch trẻ qua Pháp
rồi cả hai đều bị bệnh nặng, cậu em trai qua đời mặc dù ông và vị cận thần chăm
sóc tận tâm. Adam Smith phải trở vềLondon và làm việc với Lord
Townshend vào mùa xuân năm 1767. Vào năm này, ông được bầu vào Hàn Lâm Viện
Hoàng Gia (The Royal Society) và nhờ vậy, làm quen với các nhân tài như Edmund Burke,
Samuel Johnson, Edward Gibbsonvà có lẽ cả với Benjamin Franklin.
Tới cuối năm 1767, Adam Smith trở lại Kirkcaldy và trong vòng 6 năm tại đây,
ông đã sửa chữa tác phẩm Tài Sản rồi sau ba năm sống nơi thành
phố London, tác phẩm kể trên mới được hoàn thành và xuất bản vào năm 1776.
Ngay sau khi được xuất bản, cuốn Tài
Sản của các Quốc Gia đã được mọi người khen ngợi, kể cả David Hume.
Sau đó Adam Smith được bổ nhiệm làm Tổng Giám Đốc Thuế Vụ miền Tô Cách Lan, một
chức vụ rất nhàn, lương năm là 600 bảng Anh, vì thế vào lúc tuổi già, ông rất
giàu có. Adam Smith sống độc thân, trầm lặng tại Edinburg, đôi khi đi du lịch tới
thành phố London hay tới Glasgow, nơi ông được mời giữ chức vụ Viện Trưởng Đại
Học. Adam Smith đã viết thêm một số tác phẩm nhưng các bản thảo đã bị ông ra lệnh
đốt bỏ. Ông qua đời vào năm 1790 ở tuổi 67 khi vẫn còn danh tiếng, được chôn cất
trong sân nhà thờ tại Canongate và trên mộ chí của ông chỉ ghi
vắn tắt rằng đây là nơi an nghỉ của tác giả cuốn sáchTài Sản của các Quốc
Gia.
2. Thời kỳ Khai Sáng và tác phẩm Tài Sản
Thời kỳ Khai Sáng hay còn được gọi là thời đại của
Lý Trí (the Age of Reason) là giai đoạn lịch sử bắt đầu sau Cuộc Cách Mạng
Rực Rỡ (The Glorious Revolution) tại nước Anh vào năm 1688 và chấm dứt
trước Cuộc Cách Mạng Pháp 1789, một thế kỷ về sau. Thời kỳ Khai Sáng đáng nhớ
không phải bằng năm tháng, mà bằng tên của các nhà triết học danh tiếng như Montesquieu,
Voltaire, Condorcet, Descartes, Diderot, Rousseau… tại nước Pháp, Emmanuel
Kant tại nước Đức, tại nước Ý có nhà sử học kiêm triết học Giambattista
Vico và nhà luật học kiêm xã hội học Beccaria, tại nước
Anh có John Locke, Edward Gibbson và Edmund Burke,
tại Bắc Mỹ là Benjamin Franklin, còn đại diện cho miền
Tô Cách Lan làDavid Hume và Adam Smith.
Các nhà triết học của thời kỳ Khai
Sáng bị ảnh hưởng sâu đậm vì các khám phá do ngành Vật Lý, chẳng hạn như định
luật về sự rơi tự do của Galileo Galilei tại nước Ý, định luật
về chuyển động và trọng lực của trái đất khám phá do Isaac Newtontại
nước Anh… Nhờ Toán Học, các nhà khoa học đã tìm ra các định luật của thiên
nhiên. Do căn cứ vào các phương pháp khoa học, vào cách quan sát và thí nghiệm,
các tiến bộ quan trọng đã được thực hiện tại các bộ môn Toán Học, Vật Lý, Hóa Học,
Thiên Văn, Cơ Học… và các nhà triết học chấp nhận ý tưởng của triết gia người
Anh là Francis Bacon theo đó kiến thức là sức
mạnh.
Kiến thức vì thế được biên soạn thành
các bộ Từ Điển Bách Khoa. Các nhà triết học cũng thành lập các viện nghiên cứu
khoa học và họ tin tưởng rằng phương pháp khoa học có thể áp dụng vào công
trình tìm hiểu bản chất của con người. Nhiều bộ môn Khoa Học Xã Hội như Triết Học,
Giáo Dục, Luật Pháp và Chính Trị Học đã được các nhà triết học khai phá, họ so
sánh lý trí với sự ngu dốt, với các điều mê tín dị đoan và cách chấp nhận thẩm
quyền của người dân, họ vạch ra cácbất công xã hội và tấn công chế
độ chuyên chế và phê phán giới cầm quyền, nhất là Nhà Thờ Cơ Đốc La Mã (the
Roman Catholic Church) đã duy trì sự ngu dốt vì quyền lợi riêng tư của nhà
thờ.
Các nhà triết học của thời kỳ Khai
Sáng không phải là những kẻ vô thần (atheists). Họ tin tưởng Thượng Đế
toàn năng nhưng mục đích của họ là trình bày rằng có thể điều tra được, tìm hiểu
được số mệnh (destiny) của con người trên trái đất và họ không chịu chấp
nhận niềm tin một cách thụ động do tôn giáo đặt ra. Các nhà lãnh đạo trí thức của
thời kỳ này đã dùng các khẩu hiệu như giáo dục, làm sáng tỏ (clarification),
phá vỡ điều huyền bí (demystification) trước các áp chế tinh thần.
Tới cuối thế kỷ 18, cách nhìn và cứu
xét sự vật của các nhà triết học đã thay đổi. Lý trí không còn được chú trọng
mà thay vào là cảm xúc (feeling). Trật tự, kỷ luật và cách kiểm
soát (discipline, order & control) đã bị thay thế bằng sự đam mê,
tính cá nhân và tính cấp thời (passion, individuality & spontaneity) và
khi thời kỳ Khai Sáng chấm dứt, phong trào Lãng Mạn bắt đầu.
1776 là năm bắt đầu của một giai đoạn lịch
sử mới. Vào thời điểm này, cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ đã diễn ra, cuộc Cách Mạng
Pháp đang âm ỉ và tốc độ của cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ tăng dần do phát minh về
năng lực hơi nước và một số khám phá khác. Vào lúc này tại nước Anh, đời sống
kinh tế của người dân nằm dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của chính quyền: giá cả
ổn định, tiền lương của giới lao động thấp, sản phẩm được điều hòa, nền ngoại
thương gồm cả nhập cảng và xuất cảng hoàn toàn do chính quyền điều khiển, các
giai cấp thống trị phản đối các đề nghị phân phối tài sản, giáo dục chỉ được
giành cho một thiểu số được ưu đãi, hình luật thì rất khắt khe và các quyền lợi
chính trị của đa số dân chúng chỉ có về mặt lý thuyết.
Qua nhiều thập niên, giới quý tộc chủ
đất đã nắm giữ chính quyền và hai giai cấp mới đi lên là giới thương
nhân và giới kỹ nghệ gia, đang đòi hỏi và nhận được các đặc
quyền. Họ chủ trương chỉ xuất cảng, hạn chế nhập cảng bằng thuế cao, không cho
đồng tiền ra khỏi xứ, tiền lương công nhân phải duy trì thấp và giờ lao động phải
dài… và tất cả các áp lực này đã được biến thành các đạo luật do Nghị Viện Anh
đặt ra. Nước Pháp và một số quốc gia lớn tại châu Âu cũng theo hệ thống kinh tế
này, được gọi là thuyết Trọng Thương (mercantilism) với
các niềm tin chính như sau: thứ nhất, các nhà trọng thương chủ
trương rằng tài sản và quyền lực của quốc gia được đo lường bằng mức độ tích
lũy vàng và bạc, và muốn có hai quý kim này, quốc gia phải đi chiếm
đoạt các thuộc địa, họ không coi trọng mức sống của người dân hay các thước đo
lường kinh tế khác, thứ hai, họ tin tưởng rằng tài nguyên của thế giới thì bị
giới hạn, nên một quốc gia giàu lên thì các quốc gia khác phải nghèo khó đi.
Các nhà trọng thương cũng tin rằng quốc gia phải xuất cảng nhiều sản phẩm kỹ
nghệ, nhập cảng nguyên liệu rẻ từ các thuộc địa và đây là các thị trường tiêu
thụ.
Adam Smith cho rằng các đường lối kinh tế
của thuyết Trọng Thương thì sai nhầm và có hại.
Ông đã bỏ ra nhiều năm quan sát trực tiếp các hoạt động kinh tế, nói chuyện với
nhiều loại người liên hệ, đọc sách và suy ngẫm rồi bắt đầu phác thảo cuốn sách Tài
Sản từ năm 1759, và sau rất nhiều lần duyệt xét, có thể sau lần thảo
luận với Benjamin Franklin, Adam Smith mới đưa bản thảo cho nhà in rồi vào ngày
9 tháng 3 năm 1776, cuốn sách thứ hai này được xuất bản.
Tác phẩm thứ hai của Adam Smith có
tên là Tìm Hiểu Bản Chất và các Nguyên Do của Tài Sản của các Quốc Gia”
(An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations),
gọi tắt là Tài Sản của các Quốc Gia, hay Tài Sản. Thực
ra, tầm vóc bách khoa của bộ sách hai tập này không chỉ bàn về bộ môn Kinh Tế Học.
Có nhà phê bình đã gọi tác phẩm là Bộ sách lịch sử và phê bình nền Văn
Minh của cả Châu Âu.
Bắt đầu tác phẩm bằng phần thảo luận
về cách phân công lao động, tác giả đã cứu xét nguồn gốc và công dụng của tiền
tệ, giá cả của các loại mặt hàng, lương bổng của công nhân, lợi nhuận, tiền
thuê đất đai, trị giá của bạc, sự phân biệt giữa lao động sản xuất và lao động
phi sản xuất. Sau đó là phần trình bày sự phát triển kinh tế của châu Âu kể từ
khi Đế Quốc La Mã sụp đổ, các phân tích và phê bình chính sách thương mại và
thuộc địa của các quốc gia châu Âu, lợi tức quốc gia, các phương pháp quốc
phòng và điều hành luật pháp của các xã hội sơ khai, nguồn gốc và sự phát triển
của các đạo quân tại châu Âu, lịch sử giáo dục vào thời trung cổ, sự phát triển
các món nợ công (public debts) và cuối cùng là việc cứu xét các nguyên tắc
thuế vụ và hệ thống lợi tức công (public revenue). Tại phần V của bộ
sách, tác giả Adam Smith đã phác họa bốn giai đoạn (stages) chính của
cách tổ chức xã hội: giai đoạn ban đầu gồm những người thợ săn thô sơ (rude
state of hunters), giai đoạn thứ hai là nền nông nghiệp du mục (nomadic
agriculture), giai đoạn thứ ba là nền canh tác phong kiến (feudal
farming) và giai đoạn cuối cùng là sự liên hệ thương mại (commercial
interdependence), và đi kèm với mỗi giai đoạn là các định chế (institutions)
thích hợp với các nhu cầu của từng giai đoạn.
Luận đề chính của tác phẩm Tài
Sản được căn cứ vào niềm tin rằng mỗi con người đều chính
thức bị thúc động bởi tư lợi (self-interest) mà điển hình là lòng ham
muốn tài sản (desire for wealth). Các động lực ích kỷ là căn cốt của các
hành động của con người và tác giả đã tin tưởng rằng tính ích kỷ cá
nhân đã dẫn tới sự an lạc xã hội (society’s welfare), rằng nếu
mỗi người cố gắng làm lợi cho chính mình một cách đều đặn, không ngừng, thì sẽ
dẫn tới sự thịnh vượng của quốc gia. Người hàng thịt, người nấu rượu, người làm
bánh mì chỉ vì tư lợi của họ mà khiến cho chúng ta có bữa cơm ăn. Adam Smith
còn cho rằng sự phân công lao động và tích lũy tư bản đã dẫn tới nền kỹ nghệ mới. Một
bàn tay vô hình dẫn dắt con người trong khi làm việc có lợi cho mình
thì đồng thời đã đóng góp lợi ích cho tập thể và về điểm này, Adam Smith đồng ý
với Thomas Paine là một chính quyền tốt nhất là loại
chính quyền cai trị ít nhất.
Trong cách phân phối lao động, Adam
Smith cho rằng nên phân chia tiến trình sản xuất thành các khâu đoạn nhờ đó gia
tăng mức độ sản xuất. Trước vấn đề của chủ nhân và công nhân, Adam Smith đã viết: giới
công nhân muốn đòi nhiều, giới chủ nhân muốn trả ít và tác
giả đã có cảm tình với giới công nhân bởi vì lương bổng cao sẽ khiến cho người
công nhân ham hoạt động hơn, chăm chỉ hơn và hưũ hiệu hơn, đồng thời tác giả
còn cho rằng các luật lệ về thời gian học nghề là sự can thiệp bất công vào quyền
lợi khi người công nhân ký khế ước làm việc, chọn nghề hay đổi nghề từ chỗ trả
lương thấp tới nơi trả lương cao.
Phần chính của tác phẩm Tài Sản là
quyển IV có tên là Về các hệ thống kinh tế (Of Systems of
Political Economy). Ở đây, tác giả cứu xét hai hệ thống: hệ thống thương mại
và hệ thống nông nghiệp và phần nông nghiệp chỉ dày bằng 1/8 của phần thương mại.
Adam Smith đã làm phát triển các nguyên tắc tự do kinh doanh(the
principles of laissez–faire) và tất cả các hoạt động kinh tế dẫn tới
tự do mậu dịch (free trade) bên trong cũng như bên ngoài, bởi vì nhờ nền
thương mại không bị giới hạn trong nước và ngoài nước mà một quốc gia có thể
phát triển toàn diện.
Lý thuyết về kinh tế của Adam Smith rất
phức tạp, khó hiểu đối với người đọc ngay cả 200 năm về sau. Trong cuốn sách Lịch
Sử của Nền Văn Minh, Henry Thomas Buckle đã nhận định rằng Tài
Sản của các Quốc Gia có lẽ là tác phẩm quan trọng nhất đã từng được viết
ra nếu xét về tư tưởng căn bản chứa đựng hay về các ảnh hưởng thực tế.
Adam Smith hiện diện giữa hai thời đại
lịch sử và ông đã biện hộ cho nền kinh tế tự do. Trong khi Cuộc
Cách Mạng Kỹ Nghệ đang tiến hành, các thương gia người Anh vì nhận rõ giá trị của
các lý thuyết của Adam Smith, đã bãi bỏ các giới hạn và đặc quyền của các nhà
trọng thương nên trong thế kỷ 19, họ đã làm phát triển nước Anh thành quốc gia
giàu có nhất thế giới. Các tư tưởng kinh tế của Adam Smith cũng ảnh hưởng tới
các quốc gia mậu dịch khác và Nhà Kinh Tế Học Adam Smith xứng
đáng được gọi là Người Cha của Nền Kinh Tế Mới.
Nguồn:http://www.vietthuc.org/adam-smith-1723-1790-va-tac-ph%E1%BA%A9m-tai-s%E1%BA%A3n-c%E1%BB%A7a-cac-qu%E1%BB%91c-gia/