Nguyễn Ước
I.
Vấn nạn và quan điểm
II.
Chỉ cá nhân thôi sao
III.
Tưởng quốc Utopia
IV.
Khế ước xã hội
V.
Ý chí chung
VI.
Sự hình thành quốc gia
VII.
Công bình
VIII.
Tự do cá nhân và luật pháp
IX.
Phong trào nữ quyền
X.
Một số kết luận
I. Vấn nạn và quan điểm
Từ
thời này sang thời khác, ta thường nghe các chính trị gia mỗi khi vận động quần
chúng, tranh cử hay tranh luận với nhau trong nghị trường, thường nói tới việc
"quay trở lại với nền tảng", hoặc hô hào bằng hai tiếng văn hoa hơn:
"về nguồn" hay dùng một cụm từ rúng động hơn như: "lấy cứu cánh
và các giá trị của quốc gia dân tộc làm phương châm". Dù sử dụng cách nói
nào trong ba cách ấy đều có chung một hàm ý là tái khẳng định nguyện vọng và mục
đích của con người khi tìm tới với nhau để lập thành một cộng đồng lớn rộng của
người dân, mang hình thức xã hội.
Hầu
hết người nói và người nghe đều mặc nhiên hiểu với nhau rằng nền tảng ấy là những
nguyên tắc căn bản của thể chế dân chủ hoặc dân chủ xã hội hoặc dân tộc chủ
nghĩa hoặc thậm chí các quyền của con người được luật pháp quốc tế ghi trong
nhiều công ước và tuyên ngôn của Liên hiệp quốc. Ðôi bên tranh luận đều tìm
cách phân tích, giải thích, chống đối hoặc biện minh cho pháp chế đặc thù hoặc
việc đưa ra một chính sách nào đó liên quan tới thiện ích của xã hội như một
toàn bộ hoặc tới các khái niệm về công bình.
Vài
câu hỏi gợi ý
Nhưng
những nguyên tắc căn bản có tính nền tảng mà các chính trị gia có thể chọn lựa
để quay trở lại là những cái gì? Ðể góp phần gợi ý nhằm khám phá chúng, ta thử
nêu lên một số câu hỏi như sau:
1.
Có phải chúng là những cơ sở trên đó các hệ thống chính trị được lập nên? Nếu
như thế, chúng bao gồm những gì?
2.
Ý nghĩa triết học của lối nói "về nguồn" hoặc "quay trở lại nền
tảng" hoặc "lấy cứu cánh và các giá trị của quốc gia dân tộc làm
phương châm" ấy là gì? Nếu một chính trị gia dính líu tới một vụ tai tiếng
tính dục nào đó, ta có thể cho rằng anh ta đang đi ngược lại các nguyên tắc căn
bản không? Ðằng sau câu hỏi ấy ẩn chứa một câu hỏi khái quát hơn về việc có thể
xem các giá trị gia đình là nền tảng không? Ðối với kẻ không tuân giữ các
"qui tắc căn bản" về gia đình vốn được xem như qui ước của xã hội thì
sao?
3.
Nhưng các nhu cầu và các cảm xúc cùng các thôi thúc căn bản của con người là
gì? Với câu hỏi này, bạn có thể bắt chẹt các chính trị gia hời hợt vào những
lúc ơ hờ nhất của anh ta.
4.
Nói một cách khái quát hơn nữa, cái gì là "nền tảng" của một đời sống
được văn minh hóa?
5.
Ta có thể tiếp tục đồng thuận các giá trị căn bản nào, nếu có? Phải chăng có một
giá trị nền tảng nào đó để từ đó bạn xuất phát và rồi triển khai, hoặc có phải
nó là cái gì đó cố định và không thay đổi mà bạn cần quay trở lại nó từ thời
này tới thời khác?
Các
chủ đề của triết học chính trị
Bắt
đầu từ cụm từ "quay trở lại nền tảng", chúng ta đi vào một số chủ đề
được triết học chính trị quan tâm. Có thể trình bày các khái niệm ấy bằng những
thuật ngữ trừu tượng hơn như thế này:
a.
Các khái niệm về giải phóng, công bình, tự do và bình đẳng;
b.
Vai trò của quốc gia;
c.
Mối quan hệ giữa quốc gia và cá nhân;
d.
Bản chất của chính quyền;
e.
Ðịa vị của luật pháp;
d.
Vai trò của quyền lực;
e.
Các quyền con người.
II. Chỉ cá nhân thôi sao?
Có
thật sự hiện hữu cái được gọi là quốc gia không? Có cái được gọi là xã hội
không? Nếu đột nhiên tôi tuyên bố rằng quốc gia Canada không hiện hữu, tôi chác
chắn bị xem là người mất trí, nhưng có quả thật tôi điên không? Thật ra, chưa
chắc tôi là người mất trí, vì có tới hai cách nhìn các vấn đề ấy trong tương
quan giữa cá nhân và xã hội.
Cách
thứ nhất cho rằng xã hội, hoặc quốc gia là một thực tại ở bên trên cá nhân các
công dân. Quốc gia là "thật" với ý nghĩa rằng nó có thể sử dụng sức mạnh
của nó trên các công dân, cưỡng bách họ ra chiến trường, đánh thuế và thu thế
cùng áp đặt luật pháp lên mọi người dân. Lòng yêu nước đặt cơ sở trên việc có ý
tưởng về thực tại ấy.
Cách
thứ hai cho rằng không có cái được gọi là xã hội như thế. Chỉ có các cá nhân
cùng nhau quyết định các nguyên tắc và các qui định nhằm mang lại phúc lợi cho
nhau và cùng nhau hợp đoàn để cùng thực hiện những điều vượt quá khả năng của một
người hoặc một gia đình. Xét theo trường hợp này, Nhật Bản hoặc Hiệp chúng quốc
Hoa Kỳ chỉ là hai cái tên: cả hai không có thực tại nào khác hơn hàng chục triệu,
hay hàng trăm triệu người dân tình cờ sống trên hai mảnh đất ấy của địa cầu với
các định chế đa dạng mà bằng vào đó họ tổ chức đời sống của chính họ.
Không
xã hội thì không cá nhân
Nếu
thiên về cách nhìn thứ nhất, bạn có thể rướn thêm một bước nữa và tuyên bố rằng
cá nhân chỉ hiện hữu như là thành phần của các đoàn nhóm xã hội rộng lớn hơn. Từ
đó, bạn có thể lập luận rằng:
1.
Bạn là thành phần của một gia đình và một nhóm bạn bè: bạn là mẹ, là cha, là
con hoặc là người bạn tùy vào tư cách quan hệ của bạn. Nếu không có những người
ấy, tức chẳng có mối quan hệ nào thì bạn cũng chẳng có bất cứ danh xưng hay địa
vị nào trong những cái vừa kể.
2.
Bạn đang nói loại ngôn ngữ không do bạn đặt ra. Bạn chung chia một kho lưu trữ
ngôn từ và tư tưởng. Không có xã hội sẽ không có ngôn ngữ. Bạn có "các quyền"
như một cá nhân chỉ vì chúng được cung cấp cho bạn qua xã hội.
Do
đó, dù vẫn tiếp tục là con người nhưng nếu không có xã hội, bạn sẽ không thật sự
là một "cá nhân" với đầy đủ họ và tên, các quyền, ngôn ngữ và một kho
tàng dồi dào tư tưởng để bạn mặc sức thừa hưởng.
Diễn
tả cách khác
Ngang
đây, ta có thể trình bày những ý tưởng trên theo một cách khác:
a.
Ðối mặt với con mèo, con chuột không thể dùng lập luận cho trường hợp của nó để
đòi hỏi quyền sống, tự do và hạnh phúc;
b.
Các quyền của cá nhân và các nghĩa vụ xã hội không được con người phát hiện ra
trong tự nhiên mà đều do xã hội đặt ra;
c.
Không có xã hội thì không có các quyền, không có các nghĩa vụ, không có luật
pháp và không có đạo đức.
Ði
tìm sự cân bằng
Ý
tưởng về cá nhân hoặc công dân được nối kết mật thiết với ý tưởng về xã hội hoặc
quốc gia. Cái này được xác định trong tương quan với cái kia. Ðối với triết học
chính trị, chủ đề mang tính trung tâm là tìm kiếm một sự cân bằng có thể chấp
nhận được giữa hai cái đó. Chủ nghĩa cá nhân; thể chế dân chủ; chủ nghĩa toàn
trị; chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa đế quốc văn hóa; chủ nghĩa bá quyền khu vực;
chủ nghĩa dân tộc; chủ nghĩa quốc tế: tất cả những chủ nghĩa ấy đều liên quan tới
sự cân bằng giữa cá nhân hoặc đoàn nhóm và toàn bộ xã hội rộng lớn hơn mà chúng
là thành phần.
Thế
nhưng, liệu các thành phần hợp thành đoàn nhóm hay toàn bộ xã hội đó có một
lòng một dạ với nhau không? Ðể trả lời ta thử tìm hiểu:
1.
Trong Hiệp hội các nước Ðông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations -
Asean) bạn sẽ trông mong phúc lợi tổng thể của một hệ thống tiền tệ và chính trị
thống nhất, theo kiểu mẫu của Liên hiệp châu Âu (European Union – EU) hoặc bạn
nhấn mạnh tới nhu cầu phải có quyết định địa phương của các quốc gia hội viên
riêng biệt, hoặc tới sự đe dọa cho quyết định thuộc loại đó.
2.
Theo bạn, có phải Liên hiệp quốc hiện nay là một loại kiểu mẫu cho "nhà nước
toàn cầu" trong tương lai, trong đó những quốc gia cá biệt gộp lại các lợi
ích riêng của họ vì thiện ích lớn lao hơn? Hoặc nó đơn giản chỉ là một nhóm các
quốc gia riêng biệt, hợp đoàn vì tiện ích của nhau trong đó mỗi nước tìm cách sở
đắc tối đa lợi lộc có thể được cho chính nó, tương ứng với việc duy trì tính
cách hội viên?
3.
Cụm từ "làm thành viên tốt của một bầy đàn hay một đoàn nhóm" có ngụ
ý gì?
III. Tưởng quốc Utopia
Trong
kho tàng tri thức của nhân loại, cuốn Republic (Cộng hòa) của
Plato là một tác phẩm vĩ đại tới nổi triết gia, nhà thơ và nhà tiểu luận Ralph
W. Emerson (1803-1882) của Mỹ cho rằng với cuốn sách ấy và Kinh Coran (Qur’an),
người ta có thể đốt hết các thư viện trên thế giới vì tinh hoa của chúng đều nằm
trong hai cuốn đó.
Khái
quát cuốn Republic
Dưới
hình thức một cuốn sách nhỏ, Plato đã thực hiện một công trình rộng lớn, tập
trung tư tưởng của ông về siêu hình học, đạo đức học, tâm lý học, giáo dục,
chính trị và thẩm mỹ. Nói như Will Durant trong The Story of Philosophy (Câu
chuyện triết học): "Chúng ta có thể tìm thấy trong đó những vấn đề ngày
nay chúng ta đang băn khoăn suy nghĩ: thuyết cộng sản và xã hội, thuyết nam nữ
bình quyền, thuyết hạn chế sinh sản và phương pháp dạy trẻ. Những vấn đề của
Nietzsche về đạo đức và quí tộc, những vấn đề của Rousseau về trạng thái tự
nhiên và tự do giáo dục, những vấn đề của Bergson về đà sống (elan vital) và những
vấn đề của Freud về phân tâm học".
Ðặc
biệt, trong Republic, Plato bàn tới vấn đề con người và tổ chức quốc
gia cùng lãnh đạo công quyền. Có thể nếm trải đôi chút hương vị ý tưởng của ông
như:
"Con
người thế nào, quốc gia thế ấy";
"Sự
sụp đổ sẽ đến khi những con buôn nhờ giàu sang mà trở thành người cai trị";
"Chính
quyền cũng biến hóa như tính tình của con người biến hóa";
"Quốc
gia được cấu tạo bởi các bản tính của những người đang ở trong nó";
"Tất
cả những quốc gia đều gồm có hai quốc gia, quốc gia của người nghèo và quốc gia
của người giàu, hai quốc gia ấy xung đột nhau gay gắt".
Dĩ
nhiên những lời trích vừa kể không thể nào phản ánh toàn bộ tư tưởng được Plato
trình bày rất có hệ thống. Từ chúng, ông kiến lập chủ nghĩa duy lý tưởng
(idealism) chính trị và dựng lên giữa cõi trí tưởng của mình một quốc gia để
hình dung cụ thể hóa việc thực thi chủ nghĩa ấy.
Lai
lịch chữ Utopia
Thật
ra, Utopia – tiếng Hi Lạp nghĩa là "không nơi nào" –
là nhan đề một tác phẩm hư cấu viết bằng tiếng La-tin, xuất bản năm 1516 của
nhà văn Anh Thomas More (1478-1535) mà ngày nay bạn có thể tìm đọc nguyên bản
tiếng Anh và các bản dịch ra tiếng Pháp, Tây Ban Nha, Nhật Bản, v.v... Trong
tác phẩm đó, More vẽ lên một quốc gia lý tưởng, ở đó mọi sự được tổ chức vì cái
thiện tối thượng cho loài người như một toàn bộ, và cái ác như nghèo đói và khốn
khổ không hiện hữu.
Cuốn Utopia ấy
nổi tiếng và tên sách trở thành một thuật ngữ tổng quát để đặc biệt dùng làm
danh từ chung hoặc tính từ đi kèm với mọi khái niệm về các mô hình một quốc gia
lý tưởng của các triết gia xã hội và các nhà kiến thị (visionary) muốn nhìn xa
trông rộng. Suốt hai ngàn năm qua, đã có hàng chục tác phẩm của các nhà tư tưởng
và văn hào như Augustine, Bacon, Saint-Simon, Aldoux Huxley, George Orwell,
v.v... dựng lên những tình tiết hư cấu về một quốc gia lý tưởng thuộc loại đó
trong tâm tưởng. Ngay trong triết học Ðông phương, cũng có một tưởng quốc như
thế được dựng lên giữa cuốn Ðạo đức kinh của Lão Tử.
Thế
nhưng, nổi bật và toàn diện nhất vẫn là Republic của Plato với
nội dung gồm đủ loại vấn đề, được chuyển tải bằng lối hành văn khúc chiết, rất
hùng hồn, cao nhã, dồi dào chất thơ và nhờ thế, nó gợi hứng cho các trí óc lỗi
lạc, tác giả của các cuốn mang bản sắc utopia về sau. Cho nên, để thuận tiện khảo
sát, các học giả vẫn thường gọi quốc gia lý tưởng và tưởng tượng của Plato là một
loại tưởng quốc Utopia nguyên sơ.
Quốc
gia của Plato
Tương
hợp với hình ảnh các thành quốc hoặc tiểu quốc hơn 2000 năm trước, nước không rộng,
dân không đông. Nhưng đã là mô hình tâm tưởng thì chi tiết to hay nhỏ ấy chẳng
thành vấn đề. Diễn tả lối sống "hạ giới" của họ, tôi xin phép mượn lời
của Will Durant trong bản dịch, không đầy đủ, của Trí Hải và Bửu Ðích, cuốn Câu
chuyện triết học, tt 34-35, NXB Ðại học Vạn Hạnh Sài Gòn, 1971:
"Trước
hết, chúng ta hãy thử hình dung nếp sống của một xã hội giản dị.
"Người
ta sẽ sản xuất lúa, rượu, áo quần, dày dép, nhà cửa. Họ sẽ làm việc lưng trần
và chân không trong mùa hạ, mang giày và áo ấm trong mùa đông. Họ tự nuôi sống
bằng lúa mì, xay bột và nướng bánh. Họ ngồi ăn trên chiếu hoặc trên lá, ngả
lưng vào giường hoặc vào thân cây. Họ ăn uống với gia đình, uống rượu do họ tự
làm lấy, mang những vòng hoa trên đầu, hát những điệu ca tụng thần linh, sống
trong sự hòa nhã êm ái, không để cho nhân khẩu trong gia đình vượt quá phương
tiện sinh nhai vì họ biết lo xa, sợ nghèo đói và chiến tranh...
"Lẽ
cố nhiên họ có những món ăn ưa thích: trái ô liu, phó mát, hành, su và những thứ
rau khác; họ tráng miệng bằng xoài, mận, đào. Họ nướng những loại trái cây và uống
rượu có chừng mực. Với những món ăn [kiêng khem] như vậy, họ có thể sống an
nhàn cho đến tuổi già và để lại cho con cháu một đời sống cũng an nhàn".
Giai
cấp và chính quyền
Quốc
gia của Plato có ba giai cấp, và cấp cao nhất ấy đảm trách chính quyền:
1. Giai
cấp thứ dân, "sắt hay đồng", gồm những người buôn bán, làm kỹ nghệ,
làm canh nông. Họ có gia đình riêng gồm vợ chồng, của riêng và sanh con cái
riêng, tuy không trực tiếp nuôi. Tuy thế, sinh hoạt thương mại và sản xuất của
họ đều do nhóm lãnh đạo điều khiển để tránh hố cách biệt giàu nghèo quá lớn. Cấm
cho vay nặng lãi. Thứ dân nào có của cải gấp bốn lần trung bình phải nộp cho
nhà nước.
2. Giai
cấp quân nhân, "bạc", có nhiệm vụ bảo vệ quốc gia, chống các kẻ
thù bên trong cũng như bên ngoài, và sẵn sàng chiến thắng. Nhất là họ đảm trách
việc bảo vệ nhóm lãnh đạo. Họ không có gia đình riêng hay tài sản riêng.
3. Giai
cấp hay nhóm lãnh đạo, "vàng", ăn ở tập thể với nhau, không có vợ
con, không của cải. Mọi nhu cầu đã có xã hội cung cấp. Họ sống giản dị liêm khiết,
lo việc điều hành quốc gia và phân phối của cải thặng dư. Họ là những người có
đời sống trí thức cực cao, ham chuộng và có khả năng truy tầm chân lý, không
bao giờ mưu lợi riêng tư. Nhóm lãnh đạo này nên là các triết gia. Phần thưởng độc
nhất của họ là niềm tự hào đã giúp ích cho xã hội.
Cả
ba giai cấp ấy sống theo bản tính tự nhiên, không đụng chạm quyền lợi của nhau.
Mọi người cùng phối hợp để xã hội điều hòa, quốc gia công bình, tuy cơ cấu quốc
gia không có hình thức tam quyền phân lập giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp
như ngày nay.
Sinh
đẻ và kế hoạch hóa
Quốc
gia khuyến khích giao hợp càng nhiều càng tốt giữa những nam nữ mạnh khỏe và ưu
tú. Chỉ cho phép phụ nữ từ 20 tuổi tới 40 tuổi thụ thai với đàn ông từ 30 tuổi
tới 45 tuổi. Ðàn ông trên 35 tuổi sống độc thân bị đánh thuế rất nặng. Việc
giao hợp ngoài lứa tuổi hay ngoài các thời kỳ cho phép mà thụ thai sẽ bị phá
thai. Ngoài giai cấp thứ dân ra, phụ nữ không là vợ của riêng ai cả.
Xã
hội chỉ nuôi dưỡng những đứa bé mạnh khỏe. Trẻ em nào bị sinh ra không đúng
theo pháp luật qui định hoặc ốm yếu sẽ bị thủ tiêu. Những đứa con khi mới lọt
lòng phải sống tập thể, không ai được giành quyền sở hữu các hài nhi ấy. Chúng
sống với nhau như chị em và anh em. Tất cả các bà mẹ đều chăm sóc cho tập thể
những đứa con chung này.
Giáo
dục và thăng tiến
Giáo
dục là con đường duy nhất để thăng tiến và thoát ly giai cấp. Tiến trình giáo dục
bắt đầu từ trước khi đứa bé chào đời. Trẻ em nam cũng như nữ, đều được đi học
và có cơ hội đồng đều trong xã hội để chuyển từ giai cấp thứ dân sang hai giai
cấp kia.
Mười
năm đầu, học cấp một, bên cạnh văn hóa, việc học ưu tiên cho thể dục, thể thao
và âm nhạc. Tới năm 16 tuổi, bớt âm nhạc nhưng chú trọng tới môn đồng ca. Kể từ
năm 20 tuổi, tìm hiểu để thực nghiệm những điều đã học. Sau đó, học sinh phải
tham dự kỳ thi lên cấp hai. Nếu đậu, học tiếp. Nếu rớt, làm giai cấp thứ dân,
chuyên lo thương mại, kỹ nghệ hoặc canh nông.
Người
thi đậu cấp hai học thêm mười năm nữa. Lại dự thi lên cấp ba. Nếu rớt, thành
quân nhân, viên chức hành chính.
Người
thi đậu cấp ba lại học thêm nữa. Giờ đây, đặc biệt học về triết học để suy luận
minh bạch và cai trị khôn ngoan. Sau một học trình 10 năm về thế giới tư tưởng,
về vũ trụ học và cách xử thế trị quốc, họ sẽ đi thực tế 15 năm. Sau đó, nếu
thành tựu, họ sẽ tham gia giai cấp lãnh đạo quốc gia mà người trong nhóm đó, tốt
nhất nên là các triết gia.
Phê
bình Utopia của Plato
Suốt
hơn 2000 năm qua, đã có nhiều ý kiến về "quốc gia lý tưởng của
Plato". Ðặc biệt ngay môn sinh của ông là Aristotle cũng cho rằng:
a.
Ðề nghị của Plato không mới, đã xuất hiện nhiều lần trong lịch sử;
b.
Nếu mọi người là anh em, tình huynh đệ sẽ chẳng còn ý nghĩa;
c.
Của cải chung sẽ không ai giữ gìn;
d.
Ðời sống tập thể giết chết óc sáng tạo của cá nhân;
đ.
Không thể nào đòi hỏi dân chúng sống đời đạo đức quá cao;
e.
Nền giáo dục ấy chỉ dành cho những người ưu việt.
Từng
được thử nghiệm
Thế
nhưng, những ý tưởng của Plato không phải là hoàn toàn chưa được thực hiện. Bản
thân Plato và sau đó, Plotinus, người đứng đầu chủ thuyết tân-Plato
(neo-platonism) cũng đã đeo đuổi việc thực hiện. Sau thời Plato, châu Âu cũng
đã có thời kỳ sống dưới chế độ giáo sĩ "thông thái và cộng sản tập thể"
như trong Republic. Nói như Will Durant trong sách vừa dẫn:
"Phần
lớn các hoạt động chính trị của Công giáo cũng có nguồn gốc từ các ‘lời nói dối
vương giả và lộng lẫy’ mang bản sắc Plato hoặc bị chúng ảnh hưởng; có thể truy
tầm dấu vết của thiên đàng, luyện ngục, hỏa ngục với hình thức trung cổ của nó
trong tác phẩm Republic của Plato’ và ‘dân châu Âu cả ngàn năm
lao động cực nhọc để phải đóng góp nhân tài vật lực cho những người cai trị loại
ấy [giáo sĩ và vua chúa] mà không có được tiếng nói nào’ và ‘Những giáo phái
cai trị xứ Paraguay trước đây là những giai cấp lãnh đạo xứng đáng với ly tưởng
của Plato’." (X. Criticism, Phê bình Plato, t.41).
Tóm
lại, giấc mơ của Plato thật ra vẫn còn hiện hữu không nhiều thì ít, không thật
thì dối ở cả ba nơi: một tầng lớp lãnh đạo "ư tú" nào đó muốn biện hộ
cho cuộc sống xa cách quần chúng, chiếm hữu và bảo vệ đặc quyền đặc lợi của
mình và của các nhóm lợi ích vệ tinh của mình; mơ ước khiêm tốn của quần chúng
muốn sống thái bình an lạc; và sau cùng, giấc mộng cao cả của các triết gia và
các nhà xã hội muốn có một "thiên đàng hạ giới".
Chủ
nghĩa ưu tú
Tưởng
quốc của Plato được điều hành bởi những người thông qua thành quả giáo dục cả
thể lý lẫn triết lý mà trở thành giai cấp lãnh đạo. Trong Republic,
con đường trở thành người ưu tú ấy rộng mở đồng đều cho hết thảy các thanh thiếu
nhi có xuất xứ từ cả ba giai cấp trong tưởng quốc.
Từ
sau Plato, hai chữ ưu tú dần dà bị lạm dụng, hầu như làm mất tất cả ý nghĩa lý
tưởng và cao thượng, để trở thành đặc tính cấu kết của một hạng người nhất định
trong xã hội. Tại Tây phương ngày nay, có không ít chính khách hay nhà hoạt động
xã hội, giáo dục, v.v... cảm thấy bị sỉ nhục nặng nề khi có kẻ bảo rằng họ theo
chủ nghĩa ưu tú (elitism).
Hiểu
theo khái niệm hiện hành tại Âu - Mỹ, chủ nghĩa ưu tú có hai nghĩa:
1.
Phương cách nhằm tổ chức một hệ thống, một xã hội, v.v... để cho chỉ một số ít
người – thí dụ giàu sang hay đặc quyền – có quyền lực hoặc có ảnh hưởng hoặc có
khả năng tiếp cận nó;
2.
Khích lệ cảm giác hơn người vì mình là thành phần thuộc giới ưu tú của xã hội.
Xét
theo nội hàm đó, người ưu tú là thành phần hãnh tiến, được xem là tài giỏi nhất
nhờ sự chọn lựa cá biệt của một bộ phận hoặc một nhóm lớn rộng hơn; giới ưu tú
cũng là một giai cấp hoặc tập đoàn, hoặc mang tính đoàn nhóm, gồm những người sở
hữu tài sản, quyền lực, thế giá, v.v...
Như
thế, vì tính chất bất bình đẳng xã hội và cơ hội thăng tiến không đồng đều một
cách chủ ý, "người ưu tú" ấy không thực sự là phần tử tinh hoa của xã
hội như một toàn bộ, không phục vụ xã hội như một cứu cánh, và hoàn toàn đối lập
với nội hàm người ưu tú của Plato.
Có
lẽ nên gọi "người ưu tú" (elite) ngày nay, cách riêng trong chế độ phục
vụ các nhóm quyền lợi, là "kẻ ưu tuyển", nghĩa là những kẻ được ưu
tiên tuyển chọn với tinh thần phân biệt (discrimination) bởi những người theo
chủ nghĩa ưu tú nhằm đào tạo và phục vụ cho quá trình củng cố đặc quyền đặc lợi
của chính họ.
Ngang
đây, chúng ta đã lang thang khá sâu trong tưởng quốc của Plato, nay xin quay về
thực tại với nhu cầu con người khi tìm tới nhau để lập thành xã hội và quốc
gia.
IV. Khế ước xã hội
Nhu
cầu tự bảo tồn
Nhu
cầu có tính nền tảng của con người chính là tự bảo tồn. Vốn sinh vào thời tao
loạn, Thomas Hobbes (1588-1679), nhà triết học chính trị người Anh, hiểu bằng mất
thấy tai nghe những chấn thương của chiến tranh và xâu xé chính trị xảy ra trên
khắp đất nước. Ông lấy tình trạng quốc gia vô luật lệ và đầy nguy hiểm ấy làm
điểm xuất phát cho lý thuyết chính trị của mình.
Trong
chương 13 của cuốn Levithan (Thủy quái) xuất bản năm 1651,
Hobbes mô tả cuộc sống sẽ ra sao một khi con người chỉ còn biết trông cậy vào sức
lực của mỗi người để tự bảo vệ:
"Trong
hoàn cảnh đó, không có chỗ cho kỹ nghệ vì thành quả phát xuất từ nó hóa ra bất
định; và hệ quả là không có văn hóa trên địa cầu; không có ngành hàng hải;
không có sự sử dụng hàng hóa vì chỉ có thể vận chuyển chúng bằng đường biển;
không có việc xây cất nhà cửa vì không có công cụ để chuyên đi chở lại những vật
liệu đòi hỏi nhiều sức lực; không có kiến thức về diện mạo quả đất; không có sự
tính toán thời gian; không nghệ thuật; không thư từ; không xã hội; và điều tệ hại
hơn hết thảy là nỗi sợ hãi triền miên cùng nguy cơ của cái chết vì bạo hành; và
cuộc sống của con người cô liêu, nghèo khổ, bẩn thỉu, hung ác cùng ngắn ngủi."
Hobbes
đánh giá rằng nhu cầu tự bảo tồn là rất căn bản cho cuộc sống của con người.
Dùng một hình thức hoặc luận cứ có tính "luật tự nhiên", ông lập luận
rằng lý trí có thể cho thấy cơ sở của khoa học chính trị là sự bảo tồn sự sống.
Qua
trích đoạn trên, Hobbes cũng cho thấy rằng xã hội đặt nền tảng trên an sinh của
con người, và rằng không có an ninh thì chẳng thể nào có văn minh. Giá trị của
quốc gia được nhìn theo khả năng của nó trong việc bảo vệ và tạo phúc lợi cho
các cá nhân hợp thành nó.
Trong
tình huống đó, Hobbes lập luận rằng dân chúng hợp đoàn với nhau để cùng bảo vệ
nhau, và họ đặt lên kẻ cai trị để duy trì trật tự xã hội. Bắt đầu với cái được
gọi là truyền thống "khế ước xã hội", lý thuyết chính trị của ông nảy
sinh từ nhu cầu tự bảo tồn.
Tuy
thế, Hobbes tin rằng nên trao cho kẻ cai trị – vốn được bổ nhiệm theo cách ấy –
quyền hành tuyệt đối, và chỉ có việc giao phó như thế mới có thể duy trì hiệu
quả an ninh quốc gia.
Chính
quyền đại biểu
Xuất
từ quan điểm tương tự, John Locke (1632-1704) lập luận rằng ông thấy luật pháp
do nhà cai trị áp đặt lên các cá nhân dựa trên nhu cầu bảo tồn sự sống và quyền
làm chủ tài sản của quốc gia, chống lại những nguy cơ từ nước ngoài. Nhưng
Locke vượt quá Hobbes khi lập luận rằng, nếu kẻ cai trị không tạo được phúc lợi
cho những người dân tham gia khế ước xã hội, thì nên để cho dân chúng có quyền
thay thế các kẻ cai trị ấy bằng các kẻ khác.
Nói
cách khác, lập luận của Locke cổ vũ cho thể chế dân chủ đại biểu, với các kẻ
cai trị chịu trách nhiệm trước những người đã đưa họ lên nắm chính quyền. Như
thế, chúng ta có một chính quyền sinh hoạt hợp hiến, trong đó kẻ cai trị có quyền
hành trong chừng mực được dân chúng trao cho và nội trong những nguyên tắc được
thiết định trong hiến pháp. Chính quyền đó do dân chúng thiết lập và được điều
hành vì phúc lợi của dân chúng.
Nói
cách khác, đối với Hobbes và Locke, sự biện minh đạo đức cho hành động của một
quốc gia là một lý thuyết đạo đức và mang tính duy thực lợi chủ nghĩa
(uttilitarianism). Thuyết này chủ trương rằng một lý thuyết đúng nếu nó tạo
phúc lợi hoặc hữu ích cho hầu hết dân chúng, nghĩa là mưu tìm "cái thiện
cao cả nhất là cái phục vụ cho số lượng lớn lao nhất". Nó do Jeremy
Bentham cùng John Stuart Mill đưa ra, trong các luận văn của ông có nhan đề On
Liberty (Bàn về tự do) và On Representative Government (Bàn
về chính quyền đại biểu), và đã được đề cập sơ lược trong chương 7 của sách
này.
Ða
số thắng thiểu số
Các
hệ thống chính trị lấy khế ước xã hội làm cơ sở, dựa trên sự đồng thuận của dân
chúng rằng họ sẽ cùng nhau hành động vì phúc lợi của nhau. Thế nhưng, xuất hiện
và nổi bật một vấn đề rằng, một cách chính xác, cái gì là phúc lợi của xã hội
và ai là người quyết định nó. Tới một mức độ nào mà một cá nhân có thể, dựa
trên cơ sở khế ước xã hội, hành động nhân danh toàn thể dân chúng? Tất cả dân
chúng có cần phải đồng ý hay không trước khi một hành động nào đó được đưa ra?
Khi có sự xung khắc giữa các lợi ích, việc phân xử chúng phải dựa trên cơ sở
nào?
Locke
tuyên bố rõ ràng rằng các quyết định phải phản ánh nguyện vọng của đa số, và
thiểu số phải chấp nhận phán quyết đó.
"Bằng
hành động đồng thuận với những người khác để tạo thành một bộ phận chính trị
duy nhất dưới sự cai trị của chính quyền, mọi người tự đặt mình dưới nghĩa vụ đối
với từng người trong xã hội để phục tùng quyết định của đa số, và được chung
quyết bởi đa số; hoặc nói cách khác, sự thỏa thuận nguyên thủy mà qua đó y và
những người khác liên kết thành một xã hội đồng nhất sẽ không có ý nghĩa gì cả
và sự thỏa thuận cũng sẽ không hiện hữu, nếu y được để cho tự do và dưới những
ràng buộc nào đó khác với những gì y đã ở trong Trạng thái Tự nhiên trước
đó." -The Second Treatise of Government, (Luận văn thứ hai về
chính quyền - chương 13, phần 97)-
Các
câu hỏi để ngẫm nghĩ
Như
thế, chính quyền có thể hành động trong mức độ nó có được sự ưng thuận của đa số.
Nhưng giả dụ điều gì sẽ xảy ra một khi kẻ cai trị mưu tìm hành động theo cách
được họ xem là không đi ra ngoài lợi ích của dân chúng cho dù hành động ấy
không được dân chúng, như những cá nhân, thật sự mong muốn.
Vấn
nạn trên có thể đưa dẫn tới ba câu hỏi để chúng ta cùng nhau suy tưởng:
1.
Khi nào việc bất tuân luật lệ được xem là chính đáng?
2.
Trong một thể chế dân chủ, có thể biện minh cho hành động bất tuân dân sự
không?
3.
Phải chăng sự ủng hộ của đa số dân chúng tự nó đủ để biện minh cho các hành động
do một chính quyền dân chủ thực hiện?
V. Ý chí chung
Từ
Jean Jacques Rosseau...
"Khi
nhiều người liên kết lại, tự coi như một cơ thể duy nhất, họ chỉ có một ý chí
chung duy nhất liên quan đến sự sinh tồn cộng đồng và phúc lợi chung. Lúc đó mọi
điều phán quyết của tập thể đều năng động và giản dị, các phương châm đều sáng
tỏ, ai cũng thấy rõ có những lợi ích trái ngược nhau một cách rối rắm; lợi ích
chung là thể hiện khắp nơi một cách hiển nhiên, chỉ cần có lương tri là nhận ra
được ngay."
Trích
đoạn trên là của J.J. Rosseau (1712-1778), nhà văn và triết gia người Thụy Sĩ.
Dù không được học hành tới nơi tới chốn theo lối trường ốc, đồng thời có cuộc sống
riêng tư đầy gian nan và nhiều màu sắc, ông đã sản sinh các ý tưởng về thể chế
dân chủ, gây nên những ảnh hưởng cực kỳ lớn trên toàn thế giới từ cuối thế kỷ
18 tới nay.
Cuốn Du
Contrat Social của Rousseau xuất bản năm 1762 đã đưa tới khẩu hiệu "Tự
do, Bình đẳng và Bác ái" của cuộc cách mạng Pháp năm 1789.
Tại Việt Nam, cuốn ấy có tới bốn lần dịch. Lần thứ nhất, do nhà cách mạng Nguyễn
An Ninh (1900-1943) dịch các đoạn chính, với nhan đề Dân ước. Lần
thứ hai, do Phạm Thị Tự (?) dịch toàn văn, xuất bản tại Sài Gòn trước năm 1975,
với nhan đề Xã Ước. Lần thứ ba, do Thanh Ðạm dịch một cách đầy đủ
và tuyệt vời, trong đó có trích đoạn trên lấy từ trang 151, với nhan đề Bàn
về khế ước xã hội, do NXB Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 1992. Tại hải
ngoại, có bản dịch dễ hiểu và chú giải rõ ràng của Nguyễn Văn Hóa, Khế
ước xã hội, do Nxb Học Viện Công Dân, Houston, Hoa Kỳ, năm 2008.
Quyền
tư hữu là nhân tạo
Trong
khi thừa nhận rằng mọi quốc gia đương thời đều không hoàn hảo, Rousseau tìm
cách khởi sự từ các nguyên tắc đệ nhất và thiết lập một hệ thống chính trị có
tính đúng qui cách hay hợp pháp, hoặc có thể nói theo ngôn ngữ chính trị là làm
nên tính chính thống (legitimate) của một chế độ. Giống như Hobbes và Locke,
ông nhìn trở lại con người trong trạng thái tự nhiên, nhưng khác với hai tác giả
đó, Rousseau nghĩ rằng trong trạng thái ấy, nhu cầu của dân chúng hẳn ít ỏi và
tương đối được thỏa mãn dễ dàng, đồng thời không dễ xảy ra xung khắc.
Trái
lại, một khi đã lập thành xã hội, dân chúng "rào quanh" tài sản của
mình và ngày càng, bằng hình thức này hay hình thức nọ, tước đoạt tài sản của
người khác. Các nhu cầu cơ bản như nhà ở và lương thực trở thành những tiện
nghi mà con người chỉ có thể được đáp ứng qua đổi chác, vì thế nhiều người lâm
cảnh khốn khó. Với quyền tư hữu, sự bất bình đẳng ngày càng gia tăng, dẫn tới
tình trạng xung đột dân sự.
Như
thế, trong khi Hobbes và Locke thấy quyền tư hữu là quyền tự nhiên và đáng được
bảo vệ, thì Rousseau thấy nó nhân tạo do xã hội đặt ra. Ông thấy xã hội có
khuynh hướng làm hư hoại con người tự nhiên thay vì làm cho nó trở thành tốt
hơn. Ðối với Rousseau, các cảm xúc tự nhiên và các bản năng đều tốt tận nền tảng;
chính chính quyền bị áp đặt bởi lý trí mới là cái đe dọa loài người.
Cá
nhân phải theo ý chí chung
Rousseau
trình bày một hình thức khế ước xã hội mà ý nghĩa của nó rất khác với cái được
Hobbes và Locke đề ra.
Theo
ông, chủ đề trung tâm là làm thế nào cá nhân có thể bảo lưu tự do của nó đồng
thời vẫn chấp nhận các điều khoản thỏa thuận của khế ước xã hội cùng sự đòi hỏi
cá nhân phải ràng buộc vào các ý nguyện của xã hội như một toàn bộ. Rousseau giải
quyết vấn nạn ấy bằng ý tưởng về "ý chí chung". Ông lập luận rằng cá
nhân phải phó thác cho cộng đồng trọn cả bản thân, kể cả mọi quyền của mình.
"Ý chí chung là tối thượng" và cá nhân tìm thấy sự tự do của mình bằng
việc tuân giữ nó.
Ðối
với Rousseau, tự do tự nhiên, trong thực tế, là nô lệ các đam mê cá nhân. Ngược
lại, đặt sang một bên ý chí riêng tư và cá nhân để chấp nhận ý chí chung tức là
khám phá những khát vọng cao hơn cùng sự tự do có tính đạo đức. Dĩ nhiên sẽ xảy
ra những cơ hội trong đó ý chí cá nhân đối lập với ý chí chung, nhưng lúc ấy,
cá nhân đương sự bị buộc phải chấp nhận ý chí chung vì thiện ích của toàn thể cộng
đồng.
Bằng
lập luận ấy, quan điểm của Rousseau bao hàm một lập trường cho phép chính quyền
áp bức. Ông cho phép quốc gia áp đặt những gì được nó xem là "ý chí
chung".
Các
nhà lập pháp quyết định
Bất
cứ hệ thống chính trị nào cũng phải có kẻ nào đó quyết định cách thức áp dụng
luật pháp tổng quát vào các hoàn cảnh cá biệt. Rousseau quả quyết rằng nên có
nhà lập pháp, tức là người biết một cách bản năng "ý chí chung" là gì
và có khả năng áp dụng nó.
Ta
có thể nói một cách khái quát rằng trong khi đối với Hobbes và Locke, các cá
nhân có khả năng tự do quyết định cái gì thuộc về những lợi ích tốt nhất của họ,
dù đôi khi họ phải đặt các lợi ích ấy sang một bên vì phúc lợi của đa số, thì đối
với Rousseau, các cá nhân không có khả năng quyết định cái gì là tốt nhất, và
do đó họ bị đòi buộc phải chấp nhận cái được xem là tốt nhất bởi ý chí chung,
nói cách khác, bởi quốc gia.
Hậu
quả ghê gớm
Các
nội hàm của khía cạnh ý chí chung trong tư tưởng của Rousseau rất rộng rãi.
Trên thực tế, nó đưa tới những thảm trạng kinh người, điển hình là những gì thường
xảy ra sau một cuộc cách mạng.
Quốc
gia có thể tiến hành hành động quyết liệt nhất như xử trảm tầng lớp quí tộc, loại
trừ những giai cấp nào mà họ xem là đối nghịch hoặc là "đối tượng của cách
mạng" bằng những cuộc thanh trừng diễn ra trên khắp nước, sắc tộc này có
thể tìm cách diệt chủng, hoặc thanh tẩy, sắc tộc kia trong một nước, v.v... Các
hành động ấy được thực hiện nhân danh phúc lợi của quốc gia, dựa trên "ý
chí chung".
Vấn
đề nằm ở chỗ không ai cũng như không người nào trong bất cứ cơ hội nào có khả
năng thách thức "ý chí chung" ấy. Và do đó, hiện hữu sự khả thi rằng
trên thực tế, những gì được thực hiện ấy không là ý chí hoặc nguyện vọng của
dân chúng. Trong thế kỷ 20, đã xảy ra nhiều sự cố có thể dùng làm thí dụ điển
hình cho quyền lực của quốc gia khi nó tuyên bố hành động vì lợi ích của toàn
thể cộng đồng, trong khi đó, trên thực tế, nó gieo rắc kinh hoàng lên khắp nước.
...tới
Karl Marx
Sinh
năm 1813 và mất năm 1889, Karl Marx là nhà tư tưởng có ảnh hưởng cực kỳ lớn
lao. Người ta không thể viết về lịch sử thế kỷ 20 mà không đề cập tới chủ nghĩa
Marx và các chế độ cộng sản nảy sinh từ lý thuyết ấy.
Chào
đời tại Ðức, Marx dời sang sống ở Paris khi tờ báo Rheinische Zeitung (Báo
miền sông Rhein) do ông làm biên tập viên rồi chủ bút bị buộc phải đóng cửa. Bị
trục xuất khỏi Paris lẫn Brussels, ông cuối cùng định cư tại Luân Ðôn. Tác phẩm
quan trọng nhất của Marx là Das Kapital (Tư bản luận, 1867)
trong đó ông tiên đoán rằng chủ nghĩa tư bản chứa bên trong nó mầm hủy diệt
chính nó, sẽ nhường chỗ cho chủ nghĩa xã hội.
Mọi
sự xuất từ kinh tế
Marx
lập luận rằng tôn giáo, đạo đức, các ý tưởng chính trị và cấu trúc xã hội đều,
một cách nền tảng, bắt rễ trong kinh tế, cách riêng trong sự sản xuất và phân
phối hàng hóa. Dân chúng có những nhu cần căn bản phải được đáp ứng để họ sống,
và xã hội ngày càng trở thành phức tạp hơn nhằm mục đích sản xuất hàng hóa và
cung cập các dịch vụ để thỏa mãn những nhu cầu căn bản ấy. Do đó, Marx thông giải
lịch sử bằng các thuật ngữ kinh tế.
Ông
thấy lịch sử được hình thành và uốn nắn bởi đấu tranh giữa các giai cấp xã hội
khác nhau. Giai cấp trưởng giả đối đầu với giai cấp vô sản; công nhân đối đầu với
chủ nhân, như trước kia địa chủ đối đầu với nông dân của họ. Các hành động của
cá nhân được đánh giá theo cách đóng góp của chúng vào công cuộc đấu tranh giai
cấp ấy, và các hành động của giai cấp, như một toàn bộ, được nhìn trong bối cảnh
rộng lớn hơn của xã hội.
Duy
vật biện chứng pháp
Về
phương diện lịch sử triết học, Marx chịu ảnh hưởng của Hegel (1770-1831) là người
cho rằng đời sống của các cá nhân bị vây bủa bởi thủy triều lịch sử mà nó đang
tự tháo gở bằng một quá trình đặt cơ sở trên lý trí.
Giống
với Hegel, Marx thấy thực tại đang tự thao tác qua một quá trình biến đổi.
Hegel giới thiệu ý tưởng về "biện chứng pháp" (dialectic). Trước
tiên, bạn có một tiền đề (thesis); kế đó, phản ứng lại tiền đề ấy, bạn có cái đối
lập, tức là phản đề (anti-thesis); và việc mang cả hai cái đó hiệp vào nhau, bạn
có một tổng hợp đề (synthesis). Rồi cái thứ ba này lại trở thành tiền đề của một
bộ ba mới. Cứ thế. Nhưng đối với Hegel, quá trình biện chứng ấy có tính phi vật
chất, dẫn đưa tới sự nhận thức hòa điệu của cái Geist, hoặc tinh thần
của thời đại, trong đó mọi người chấp nhận một cách tự do lợi ích của toàn thể
xã hội.
Ngược
lại, đối với Marx, quá trình biện chứng ấy có tính duy vật. Chính những điều kiện
kinh tế trong đó các giai cấp sinh sống và lao động sản sinh sự thúc ép phải
thay đổi, đưa tới hậu quả là hệ thống kinh tế hiện hành bị lật đổ bằng cuộc
cách mạng, và thiết lập một hệ thống mới, rồi tới lượt cái đó dẫn đưa tới cuộc
đối đầu giai cấp thêm nữa, và cứ thế tiếp tục.
Tiến
tới xã hội không giai cấp
Marx
hướng mắt nhìn tới sự thành tựu một xã hội không giai cấp trong đó không còn trạng
thái đối đầu, nhân dân lao động tự mình làm chủ các phương tiện sản xuất và
phân phối. Do đó, xã hội không giai cấp ấy được đặc điểm hóa bằng sự công bình
kinh tế trong đó mỗi người được hưởng phúc lợi từ lao động của chính mình.
Các
luận điểm ấy được nối kết với cái nhìn của Marx về sự thành toàn cá nhân con
người. Ông lập luận rằng, trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, các cá nhân lao động
vì lương tiền, làm ra sản phẩm để kẻ khác lấy đó mà kiếm lợi, và họ càng ngày
càng đánh mất mình trong tình cảnh lao động như thế. Người lao động không thể
thực thi tính sáng tạo và tình nhân đạo chân chính. Họ bị vong thân: trở thành
một vật phi nhân tính, một cái máy với cứu cánh độc nhất trong cuộc đời là sản
xuất và là phương tiện trong công cuộc làm ra "tư bản".
Marx
thấy quá trình ấy dẫn tới tình trạng tài sản ngày càng tập trung vào tay của một
nhóm nhỏ "giai cấp trưởng giả", trong khi đó giai cấp vô sản lao động
chìm đắm trong nghèo khó. Ông tin rằng tình trạng ấy tối hậu sẽ dẫn tới sự lật
đổ hệ thống tư bản chủ nghĩa do bởi chính bàn tay của những người lao động liên
thủ hành động. Ông tin rằng với sự ra đời của xã hội không giai cấp, mỗi cá
nhân có khả năng phát triển đầy đủ tiềm năng của chính mình.
Marx
triết gia nhập thế cuộc
Triết
học Marx gieo rắc ảnh hưởng cực kỳ. Nó có đủ nội dung để có thể phát biểu về đủ
loại vấn đề. Từ bản tính của lịch sử tới lao động, bản năng, các định chế chính
trị, các giai cấp xã hội, các vấn đề văn hóa, v.v... Bản thân Marx cũng là thí
dụ điển hình nhất cho cách thức mà triết gia có thể ảnh hưởng lên tiến trình lịch
sử.
Người
ta khó có thể nghiên cứu Marx nếu không nhận biết tác động toàn cầu của hệ tư
tưởng Marx trong thế kỷ 20. Những biến động đầy kịch tính và lẹ làng của chủ
nghĩa cộng sản trong mười lăm năm cuối của thế kỷ 20, sự tự hủy diệt đã không xảy
tới cho chủ nghĩa tư bản như dự báo của Marx, rõ ràng sẽ được các học giả đặc
biệt lưu tâm khi nghiên cứu triết học chính trị của ông.
Ngược
lại, người ta cũng không dễ dàng đánh giá quá cao tác động tổng quát của tư tưởng
Marx, có lẽ cách riêng quan điểm cho rằng chính trị đặt cơ sở trên kinh tế. Dù
tác phẩm chính của Marx là Tư bản luận (1867), ta có thể tiếp
cận ông dễ dàng hơn bằng cách đọc các tác phẩm trước đó, đặc biệt Hệ tư
tưởng Ðức (1846) và Tuyên ngôn Cộng sản(1848).
Cá
nhân chỉ là hạt cát
Ðiểm
nổi bật cần ghi nhận trong tư tưởng Marx – đi theo Rousseau và quả thật, Hegel
– rằng ông nhìn các cá nhân con người như những phần tử đang gộp các lợi ích của
nó vào phúc lợi của đoàn nhóm rộng lớn hơn. Các hành động của cá nhân được nhìn
như thể đại biểu cho giai cấp hoặc đất nước của nó, và các hành động ấy được
phán xét bởi bất cứ cái gì được xem là chính đáng, do đoàn nhóm xã hội rộng lớn
hơn trong đó cá nhân chỉ là một hạt cát rất nhỏ nhoi.
Ðiều
này tương phản với truyền thống được nảy sinh từ Hobbes và Locke, vốn nhấn mạnh
lên cá nhân. Trong phần kế tiếp, chúng ta sẽ thấy sự phân chia ấy vẫn còn có mặt
trong triết lý chính trị, được tìm thấy trong các quan điểm khác nhau về công
bình của hai triết gia hiện đại là Rawls và Nozick.
Tùy
quan điểm xuất phát
Nói
tóm lại, trong khi nhìn vào lý thuyết chính trị, ta có thể lấy hoặc cá nhân hoặc
xã hội như một toàn bộ, làm điểm xuất phát.
Từ
quan điểm cá nhân, có những lý thuyết về khế ước xã hội qua đó các cá nhân tự
do đến với nhau vì phúc lợi của nhau, như quan điểm của Hobbes và Locke.
Tuy
nhiên, bằng phương cách ngược lại, nếu xem đoàn nhóm xã hội ở địa vị cao hơn
các cá nhân, người dân bị buộc phải chỉ tìm thấy sự tự do của mình bằng thái độ
chấp nhận và lao động theo ý chí chung, như Rousseau và Marx chủ trương.
VI. Sự hình thành quốc gia
Ngày
nay, quan điểm về tính chất tự nguyện của dân chúng trong việc hình thành quốc
gia và khế ước xã hội của các triết gia từ thế kỷ 18 về trước như Hobbes,
Locke, Mills và đặc biệt J.J. Rousseau có nguy cơ bị xem như những biện luận chỉ
có tính suy tưởng triết học, không đưa ra được bằng chứng nào và hoàn toàn sai
lầm.
Quá
trình lập quốc
Cách
đây 5.500 năm, loài người không có một chính quyền quốc gia nào cả. Thậm chí
mãi tới năm 1492 sau C.N., tất cả vùng Bắc Mỹ, vùng Phi Châu hạ Sahara,
Australia, New Guinea, các quần đảo Thái Bình Dương và phần lớn vùng Trung và
Nam Mỹ, không một vùng nào có quốc gia (nation). Dân chúng tại đó sinh sống
trong một tổ chức xã hội sơ đẳng theo kiểu bộ tộc và bầy đàn hoặc dưới quyền của
một lãnh chúa.
Xét
về lịch sử, quá trình lập quốc thường diễn ra theo những cách thức dưới đây:
1.
Sự thu tóm quyền lực của một lãnh chúa có ưu thế nhất;
2.
Sự thắng thế của bộ tộc này lên bộ tộc kia;
3.
Sự kết hợp của các bộ tộc khi phải cùng nhau đương cự với một cuộc xâm lăng lớn
hơn;
4.
Quá trình thực dân hóa của Tây phương từ nửa sau thiên niên kỷ thứ hai đưa tới
việc kết hợp các bộ tộc hoặc các sắc tộc thành quốc gia;
5.
Sự phân chia bản đồ thế giới thành nhiều quốc gia đưa tới tình trạng quốc gia
này áp đặt khuôn mẫu của mình trên những vùng đất có các bộ tộc nhưng không có
quốc gia.
Chuyển
nhượng quyền cá nhân
Còn
có thêm những minh họa tổng quát cho các lập luận trên là tại Á Phi. Cách đây
hai trăm năm, những bộ tộc Cherokee đã từng bước thành lập một chính quyền
Cherokee thống nhất trong cố gắng tuyệt vọng chống lại sức ép của người da trắng.
Và chúng ta thường chứng kiến sự cạnh tranh và giao chiến giữa các thực thể
chưa thành quốc gia để rồi chấm dứt khi một lãnh chúa thắng trận và thành lập
các định chế tiền quốc gia.
Thí
dụ, sự thành lập quốc gia Zulu do lãnh chúa tài ba Dingiswayo lãnh đạo vào đầu
thế kỷ thứ 19, phát xuất từ sự tranh chấp giữa các lãnh chúa. Hay tại châu Phi
ngày nay, một số quốc gia tuy đã thành hình nhưng vẫn thường xuyên bị khủng hoảng
vì các lãnh chúa tranh chấp nhau. Sự áp đặt định chế quốc gia lên các tiểu quốc
do bởi quá trình thực dân đô hộ như tại Phi Luật Tân, Ấn Ðộ, Indonesia, v.v...
Như
thế, các nhà nước quốc gia được thành lập dưới áp lực của một hoặc hai hoàn cảnh.
Ðôi khi áp lực bên ngoài của một quốc gia xâm lăng đã cưỡng ép người dân phải
chuyển nhượng quyền lợi cá nhân của mình cho một nhà nước có khả năng kháng cự
lại kẻ xâm lăng hữu hiệu hơn. Ðôi khi sự thắng lợi của bộ tộc này lên bộ tộc
kia và cứ thế làm thành một quốc gia rộng lớn. Gần như không có một cụm sắc tộc
nào tự nguyện tổ chức thành một quốc gia mà không có áp lực từ bên ngoài. Và
con người luôn luôn miễn cưỡng chấp nhận nhường quyền lợi của mình cho một thực
thể khác.
Quốc
gia dân tộc và quốc gia độc lập
Nói
chung, một dân tộc là một tập hợp con người cùng chung một văn hoá, lớn hơn một
bộ tộc hoặc một sắc tộc hay cộng đoàn. Dân tộc ấy dần dà chung chia một ngôn ngữ
chính, một tôn giáo đa số, những định chế đa dạng, một quá trình lịch sử. Khi một
dân tộc có một nước hay một quốc gia, người ta gọi nó là quốc gia dân tộc
(nation state).
Nước
Pháp, nước Ðức, nước Nhật, nước Việt Nam là những quốc gia dân tộc. Có nhiều quốc
gia có ít nhất hai dân tộc, chẳng hạn như Canada và Bỉ. Có quốc gia gồm rất nhiều
dân tộc như Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ, Ấn Ðộ, hoặc như Trung Hoa: Hoa, Tạng, Mã, Hồi,
Mông, v.v... Có dân tộc cho tới nay, năm 2008, không có quốc gia như dân tộc
Kurd hoặc dân tộc Palestine ở Trung Ðông.
Một
quốc gia được cấu thành chủ yếu bởi ba yếu tố:
1. Lãnh
thổ. Một không gian cụ thể với những ranh giới trên đất, trên biển,
trên không, được quốc tế công nhận;
2. Dân
tộc. Dân chúng đang sống trên lãnh thổ đó;
3. Chính
quyền. Guồng máy điều hành các công việc của quốc gia.
Yếu
tố phức tạp và gay cấn nhất trong bản liệt kê trên là chính quyền, bao gồm cả
ba ngành phân lập theo quan điểm của Montesquieu (1689-1755) mà giá trị chẳng
thua kém gì nhau; đó là lập pháp, hành pháp và tư pháp. Dân chúng ở trong hoàn
cảnh không thể không ủy thác việc trực tiếp điều hành quốc gia cho chính quyền,
hiểu như một thứ khế ước xã hội. Thời bình, họ sống lao động, tuân thủ pháp luật
trong đó có trách nhiệm bầu cử hoặc ứng cử, và đặc biệt giữ nghĩa vụ đóng thuế.
Thời chiến, họ sẵn sàng hi sinh tính mạng để bảo vệ đất nước, cũng là bảo vệ cộng
đồng dân tộc với đầy đủ quyền sống của nó như một tập thể độc lập.
Hữu
hiệu và chính thống
Tính
hữu hiệu (efficiency) của chính quyền nằm ở mức độ thể hiện chức năng đối nội
và đối ngoại của nó. Tổng quát, ba chức năng chính của chính quyền là:
1. Giữ
gìn an ninh trật tự; bảo vệ tự do, tài sản, và tính mạng của người dân;
2. Phục
vụ phúc lợi của dân chúng, cũng là thiện ích của xã hội như một toàn bô;
3.
Bảo vệ quyền lợi của dân tộc và lãnh thổ của quốc gia trước cộng đồng quốc
tế.
Tính
chính thống (legitimacy) của một chính quyền – cũng được hiểu là tính hợp pháp
và hợp lý – không chỉ được chứng minh trong phương cách sở đắc quyền hành của
nó hoặc do bởi sự chuyển giao hợp pháp quyền cai trị hoặc hệ quả của một cuộc
cách mạng phát xuất từ ý nguyện của dân chúng. Một chính quyền đang chính thống
có thể trở nên phi chính thống khi nó:
a.
Tự xem mình đứng trên cả hiến pháp và luật pháp quốc gia;
b.
Không nỗ lực thể hiện nghị trình đã hứa và đánh mất cứu cánh phục vụ dân chúng,
cũng là xã hội, như một toàn bộ;
c.
Không còn khả năng điều hành công việc của quốc gia mà vẫn bám víu quyền lực bằng
đủ loại phương sách và phương tiện;
d.
Nhân danh ý chí chung và khế ước xã hội để cưỡng bách và trấn áp dân chúng vì
phúc lợi của giới thống trị.
Một
số vấn đề để ngẫm nghĩ
Nếu
quả thật các lập luận trên là đúng, chúng đưa tới một số câu hỏi cần bạn suy
nghĩ để tìm lời giải đáp:
a.
Có cần phải xem xét lại nguồn gốc và bản tính của quốc gia và cái gọi là khế ước
xã hội không?
b.
Có phải quốc gia và xã hội là một thực tại trong đó không thể nào tránh khỏi diễn
ra tình trạng áp bức và bất công xã hội?
c.
Công cuộc bảo vệ quốc gia và xây dựng xã hội nên nhắm tới mục đích củng cố vị
thế của các nhóm quyền lợi (bộ tộc thắng thế, tầng lớp ưu tuyển, thế lực thực
dân, tập đoàn kinh tế, v.v...) hay cho các thành phần của nó như một toàn bộ?
d.
Có phải đã tới lúc nên lấy các quyền của con người làm nền tảng cho sinh hoạt
quốc gia và phát triển xã hội, thay vì nhấn mạnh cái gọi là khế ước xã hội có
tính suy tưởng triết học, đã bị vi phạm thậm tệ và vô số lần bởi những kẻ thống
trị thường nhân danh ý chí chung cho tiện ích riêng?
đ.
Như thế, nội hàm của các quyền con người được pháp chế hóa có thể thay cho cái
gọi là khế ước xã hội theo cảm quan chung không?
e.
Phải chăng những suy tưởng triết học tự chúng không bao giờ đủ khả năng hình
thành một lý thuyết chính trị, mà còn phải khai thác những thành quả nghiên cứu
của các bộ môn khác như sử học, khảo cổ học, nhân chủng học, kinh tế học,
v.v...?
VII. Công bình
Công
bình là ý tưởng có tính nền tảng đối với triết học chính trị. Nếu dân chúng hợp
đoàn để bảo vệ nhau, nếu nhân dân sắp cùng nhau tham gia một hợp đồng chung tạm
gọi theo cách cũ là khế ước xã hội, nếu người dân sắp để qua một bên các lợi
ích riêng của mình, họ cần phải tin tưởng rằng xã hội họ sống đang đặt cơ sở
trên những nguyên tắc công bình. Nhưng cái gì lập nên công bình chính trị?
Trong
những đoạn dưới đây, chúng ta sẽ nhìn lướt qua các ý tưởng về công bình, được
trình bày bởi ba triết gia sống cách nhau hơn hai mươi tư thế kỷ: một cổ đại và
hai hiện đại.
Plato:
công bình là quân bình
Vấn
nạn "Công bình là gì?" được đặt ra xuyên suốt một trong những tác phẩm
vĩ đại nhất của triết học, như chúng ta đã nhìn thoáng qua, đó là cuốn Republic của
Plato. Suốt những trang sách đối thoại ấy, những câu trả lời đa dạng được đưa
ra và rồi bị bác bỏ, cũng như lời gợi ý cho thấy những vấn đề nào "có vẻ
đúng chứ không thật sự đúng".
Một
trong những kẻ đóng vai chính trong các cuộc đối thoại đó là Glaucon. Nhân vật ấy
giới thiệu câu chuyện chiếc nhẫn Gyges. Ðó là chiếc nhẫn làm cho người đeo nó
có khả năng biến thành vô hình nếu y muốn, và vì thế y tránh được mọi hậu quả
hành động của mình. Nhưng nếu các hành động của ta không có hậu quả nào thì tại
sao ta lại phải công bình? Giá trị tự thân của công bình là gì? Ðó là một câu hỏi
nằm ở tâm điểm của vấn đề.
Qua
những lời đối đáp do Plato viết, Socrates xem xét các giai cấp khác nhau trong
dân chúng đang làm thành thành quốc Athens. Rồi ông lập luận rằng mỗi giai cấp
đưa ra những định chuẩn và nguyên tắc đạo đức đặc thù nhưng ta chỉ có thể tìm
thấy công bình trong thực tế công tác cá biệt mà mỗi giai cấp thể hiện. Cũng một
cách như thế, linh hồn cá nhân được chia làm ba phần: tâm trí, tinh thần và
lòng khao khát. Và rằng đối với cá nhân, công bình cốt ở sự quân bình của ba phần
ấy, với mỗi phần thể hiện công tác riêng của nó vì phúc lợi cá thể của nó.
Như
thế, công bình được nhìn theo sự hòa điệu và việc thể hiện chức năng cá biệt của
mỗi thành phần trong xã hội; mỗi thành phần sống tương xứng với địa vị và thực
thi đúng nghĩa vụ của mình. Trong cuốn Republic, Plato muốn tầng lớp
cai trị quốc gia đều là triết gia, những kẻ chỉ truy tầm chân lý thay vì mưu
tìm quyền lợi riêng tư cho bản thân họ. Ông lập luận rằng điều ấy quả thật thiết
yếu nếu muốn thiết lập công bình cho hết thảy mọi người chứ không riêng cho lợi
ích của một tầng lớp đặc thù trong cư dân.
Thời
nào cũng thế, tự thân triết học có nhu cầu đi ngược lại bối cảnh thời đại và xã
hội đặc thù của nó, và Plato không ở ngoài thông lệ ấy. Trong khi mưu tìm sự
quân bình giữa các thành tố trong xã hội và trong bản ngã với ưu tiên dành cho
khả năng trí tuệ, Plato đưa ra khái niệm một quốc gia được lãnh đạo bởi các triết
gia. Ý tưởng của ông được trình bày trong bối cảnh lịch sử hơn 2.300 năm trước
nên thật không dễ diễn dịch sang bối cảnh và thuật ngữ chính trị hiện đại một
cách hoàn toàn chính xác.
Tuy
nhiên, điều rõ ràng là, đối với Plato, công bình không được tìm thấy trong bình
đẳng vì Plato không bao giờ dự kiến thiết lập một xã hội của những người cùng đẳng
cấp với nhau và ngang hàng nhau. Nó cũng không được tìm thấy trong lợi ích cá
biệt theo giai tầng xã hội vì ông bác bỏ ý tưởng rằng trong xã hội đó lợi ích
được dành cho người mạnh hơn; ông chủ trương sự quân bình giữa dân chúng và những
giai cấp khác nhau, mỗi bên làm những công tác thích hợp với mình và cùng nhau
lao động vì thiện ích chung.
Rawls:
công bình là bình đẳng
Trong
cuốn A Theory of Justice (Một lý thuyết về công bình, 1972),
John Rawls (1921-2002), triết gia người Mỹ và cố giáo sư Ðại học Harvard, bắt đầu
với giả tưởng có một nhóm người đến với nhau và cùng quyết định những nguyên tắc
dùng làm cơ sở hoạt động cho hiệp hội chính trị của họ. Nói cách khác, họ bắt đầu
hình thành một khế ước xã hội cho đoàn nhóm của họ.
Nhưng
Rawls thêm vào một tiêu chuẩn quan trọng nữa, rằng họ cần phải quên hết những
gì liên quan tới bản thân của mỗi cá nhân thành viên. Họ phải làm như thể không
biết mình giàu hay nghèo, nam hay nữ. Họ cũng chẳng cần biết mình thuộc chủng tộc
nào và đang có địa vị gì trong xã hội. Họ đến với nhau một cách đơn giản như những
cá nhân không lý lịch, và chỉ vậy thôi. Như thế, qua đó, Rawls tìm thấy các
phương thế để thiết lập những nguyên tắc rằng:
"Những
con người tự do và hợp lý đang quan tâm sâu xa tới các lợi ích của chính họ, sẽ
cùng nhau chấp nhận quan điểm ban đầu về sự bình đẳng như một hành động xác định
các quan hệ có tính nền tảng cho hiệp hội của họ", (trang 11).
Nói
cách khác, những người tham gia đoàn nhóm ấy quan tâm tới việc tạo phúc lợi cho
nhau nhưng không cần biết tới lý lịch cá nhân của mỗi người. Bằng cách ấy,
Rawls hy vọng đạt được sự công bình để người dân tìm cách làm ra luật pháp theo
phương cách tạo phúc lợi cho chính họ, cho dẫu cuối cùng họ có biết rõ những
người cùng hội cùng thuyền với mình là ai đi nữa.
Rawls
lập luận rằng một đoàn nhóm như thế cần tới hai nguyên tắc:
1. Tự
do. Mỗi người cần có những quyền ngang nhau với một chuỗi các quyền tự
do căn bản mở rộng hết sức có thể được, trong chừng mực không ngăn trở người
khác cũng đang có một chuỗi các quyền tự do căn bản tương tự;
2. Phân
phối tài nguyên. Nếu có những bất bình đẳng xã hội, thì theo Rawls phải
phân phối tài nguyên sao cho người kém lợi thế nhất trong xã hội được hưởng
phúc lợi lớn lao nhất.
Quan
niệm công bình ấy đặt cơ sở trên bình đẳng. Rawls lập luận rằng quả thật bình đẳng
khi để cho mọi người có tự do và cơ hội ngang nhau, và rằng giả dụ có chút nào
bất bình đẳng thì chỉ nên cho phép xảy ra nếu sự bất bình đẳng đôi chút ấy đem
lại phúc lợi cho những người kém lợi thế nhất trong cuộc đời. Theo Rawls, xã hội
ngoài công tác căn bản là bảo vệ các cá nhân đến với nhau để lập nên nó, nó còn
có nhiệm vụ tổ chức việc chia sẻ đồng đều các phúc lợi vật chất và xã hội.
Nietzsche:
công bình là hướng thượng
Thế
nhưng không phải mọi triết gia đều đồng ý với nỗ lực giảm thiểu những bất bình
đẳng của Rawls. Trước đó, trong thế kỷ 19, Friedrich Nietzsche (1844-1900), triết
gia Ðức, đưa ra quan điểm ngược lại. Ông cho rằng không nên kềm hãm kẻ mạnh vì
nhu cầu của kẻ yếu. Nietzsche cho rằng thể chế dân chủ và Kitô giáo có hiệu quả
tiêu cực, làm suy nhược giống nòi loài người bằng việc, theo một cách nào đó,
mưu tìm lợi thế đặc biệt cho kẻ yếu đuối, nghèo khổ và tật nguyền.
Thay
vào đó, Nietzsche hướng tới Ubermensch – "siêu nhân"
hoặc "người phi thường", kẻ phô bày ý tưởng phấn đấu cho cái gì đó
hơn và hơn nữa. Ðối với Nietzsche, con người là cái gì đó cần khắc phục: một khởi
điểm mà từ đó ta chuyển động hướng tới trước và hướng lên cao.
Phê
bình khái quát
Lối
tiếp cận của Rawls còn bị phê phán một cách tổng quát hơn. Trong chương này,
chúng ta vừa xét đến sự phân chia giữa hai loại người. Một là những người cho rằng
cá nhân có quyền ưu tiên và cho quốc gia có vai trò tối thiểu, cùng những người
cho tới nay vẫn lập luận rằng quốc gia không hiện hữu. Hai là những người cho
quốc gia có quyền ưu tiên để chỉ trong bối cảnh xã hội ấy các cá nhân mới phát
triển đầy đủ tiềm năng của nó. Chúng ta hãy khảo sát lý thuyết của Rawls từ điểm
nhìn đó.
Bằng
cách làm cho những kẻ tìm đến nhau để thiết lập các nguyên tắc của xã hội cùng
quên đi tiểu sử cá nhân của nhau, người ta cũng làm cho họ buông bỏ tất cả những
gì họ có thể sở đắc và thành tựu về mặt tự nhiên. Việc người thành công bị làm
cho quên hết những gì họ sở đắc nhờ lao động cần cù và phải quyết định chọn phần
được chia đồng đều các tài nguyên bị gộp chung sẽ đưa tới tình trạng người ta
chỉ lao động vì sở thích và không có hố cách biệt giàu nghèo.
Cũng
bằng cách nhìn mọi người đều ngang nhau, lý thuyết của Rawls thiết lập một xã hội
cống hiến những chia sẻ bình đẳng. Nhưng có phải dân chúng trong một xã hội thật
sự đều quả thật giống như thế? Người ta có thể lập luận rằng chưa bao giờ và sẽ
không bao giờ có sự đồng thuận về một quan điểm có tính căn nguyên để lấy đó
làm chuẩn mực cho việc bắt đầu tiến trình lập ra những qui tắc của xã hội; mọi
hệ thống pháp luật thật sự và mọi ý tưởng về công bình đều bị đóng khung trong
bối cảnh lịch sử của chúng.
Câu
hỏi ngược của Dworkin
Ronald
Dworkin (1931- ), triết gia luật học và là giáo sư trường Luật thuộc Ðại học
New York cũng đưa ra một lời phê bình khác về quan điểm của Rawls.
Dworkin
lập luận rằng thay vì nêu ngay câu hỏi "Công bình là gì?" bạn nên đặt
trước đó một câu hỏi khác, đó là "Cả nam lẫn nữ nên có loại đời sống nào?
Và trong con người, cái gì được coi là tuyệt hảo?" Ông nêu lý lẽ rằng quan
điểm tự do, như Rawls đưa ra, không để mắt xem xét tới câu hỏi ấy. Ứng xử của
Rawls về các cá nhân không hoàn toàn đặt cơ sở trên những gì có liên quan tới họ
như những cá nhân.
Tạm
đúc kết
Tóm
lại, ý tưởng của Rawls về công bình đặt ra những vấn đề khiến chúng ta phải suy
ngẫm. Nếu chỉ cho phép có sự bất bình đẳng đôi chút, dựa trên cơ sở tạo phúc lợi
cho người ít may mắn nhất như quan điểm của Rawls, thì con người nói chung ít
có cơ hội triển khai sự tuyệt hảo của nó, vì mọi phương thế cống hiến cho quá
trình phát triển sự tuyệt hảo ấy dường như sẽ làm khuếch rộng thay vì thu hẹp
khoảng cách giữa người có nhiều năng lực nhất và người có ít năng lực nhất. Hơn
nữa, làm thế nào một lý thuyết như thế tránh khỏi việc gây ra trạng thái tầm
thường nhạt nhẽo, vô vị trong cuộc sống?
Nozick:
công bình là quyền giữ của cải
Nếu
cứu cánh của xã hội là bảo vệ sinh mạng, tự do và tài sản của cá nhân, thì nên
làm cho mỗi người có khả năng bảo tồn những gì chính đáng là của mình. Nhân
danh việc thiết lập sự bình đẳng, xã hội phân phối của cải mà trong thực tế, nó
đang tước đoạt của cá nhân quyền bảo quản, cái vốn là lý do khiến cho con người
ngay từ đầu tìm tới với nhau để hình thành xã hội.
Người
đưa ra lối tiếp cận vừa kể đối với vấn đề công bình là Robert Nozick
(1938-2002). Ông là triết gia người Mỹ, giáo sư Ðại học Harvard. Trong cuốn Anarchy,
State and Utopia (Tình trạng vô chính phủ, quốc gia và tưởng quốc
Utopia, 1974), Nozick lập luận rằng thật sai lầm khi quốc gia thu thuế các cá
nhân và ép buộc họ đóng góp vào các dịch vụ y tế vốn đưa phúc lợi tới cho kẻ
khác. Hành động ấy xâm phạm quyền tự do của cá nhân trong việc sở đắc của cải
và bảo tồn sự thịnh vượng đó.
Ðối
với Nozick, thật hoàn toàn chính đáng khi bạn cho kẻ khác cái bạn có nếu bạn chọn
lựa làm điều đó nhưng đừng đòi hỏi người khác phải cho bạn cái của họ. Theo lý
thuyết xã hội này, sự đóng góp tự nguyện được hoan nghênh nhưng các sắc thuế cưỡng
bách thì không. Ông lập luận rằng công bình là vấn đề quyền mà các cá nhân phải
có để bảo lưu các "vật sở hữu", của cải mà họ đã sở đắc một cách hợp
lệ.
Phê
bình Nozick
Nhận
xét trường hợp của Nozich, ta thấy có một đặc điểm quan trọng rằng trong mọi thời
đại, từ xưa tới nay, của cải thật sự mà cá nhân sở đắc đều có liên quan tới câu
chuyện cuộc đời của người ấy: của cải ấy có thể đến do bởi cá nhân đó lao động
trong nhiều năm trời hoặc đến từ gia tộc qua thừa kế. Tuy thế, trong thực tiễn,
không phải bao giờ cũng có thể dễ dàng xác minh rằng tất cả của cải mà họ sở đắc
đều hợp lệ. Ðất đai mà một dòng họ đang có qua nhiều thế hệ có thể, từ căn
nguyên, được sở đắc bởi các phương thế đáng ngờ nhất.
Nhằm
chống lại những kẻ mưu tìm sự bình đẳng, Nozick cũng lập luận rằng cho dù dân
chúng được làm cho bình đẳng, họ cũng sẽ lập tức bắt đầu giao dịch thương mại
và rồi nhanh chóng lập thành sự bất bình đẳng.
Ðúc
kết một cách khác
Qua
những ý tưởng của các triết gia về công bình cùng những người đồng thuận hoặc
chống đối họ, ta có thể tóm gọn một cách cụ thể và trực tiếp.
a.
Hoặc "quyền tư hữu là trộm cắp". Kết luận này ngụ ý rằng mọi tài sản
nên thuộc về quốc gia, hoặc tối hậu, thuộc về cộng đồng toàn thế giới. Công
bình đòi hỏi sự tái phân phối dựa trên nhu cầu.
b.
Hoặc "tái phân phối là trộm cắp!" Kết luận này hàm ý rằng mỗi cá nhân
có quyền đối với những gì mình sở đắc một cách hợp lệ. Công bình đòi hỏi nên để
cho mỗi cá nhân triển khai tiềm năng của mình, không bị ngăn trở bởi các khái
niệm giả tạo về công bình.
VIII. Tự do cá nhân và luật pháp
Tự
do, theo ngữ cảnh này, tương đối khác với chữ tự do trong cuộc tranh luận về
"tự do và thuyết tất định" được đề cập tới ở một chương trước trong
đó người theo thuyết tất định lập luận rằng chúng ta không bao giờ có tự do chọn
lựa điều mình làm vì mọi sự có khả năng bị quyết định dưới dạng quan hệ nhân quả.
Ở
đây, mục đích của cuộc tranh luận là bàn về cấp độ của tự do mà cá nhân có quyền
hành xử trong xã hội, với giả thiết rằng tự do ấy có thể có trên sự tự do của
những người khác: tự do hành động nội trong giới hạn nhất định do pháp luật qui
định. Một khi con người hành động vượt ra ngoài giới hạn ấy, xã hội có thể can
thiệp bằng cảnh sát và tòa án để buộc kẻ "sống ngoài vòng pháp luật" ấy
thọ phạt.
Trong
khuôn khổ pháp luật
Tham
chiếu quan điểm đạo đức mang tính duy thực lợi chủ nghĩa (xem chương 7), ta thấy
John Stuart Mill lập luận rằng trong trường hợp riêng tư của một cá nhân nào
đó, khi hành động của người ấy chỉ tác động lên bản thân y, thì đương sự được tự
do tuyệt đối; chỉ khi nào hậu quả của hành động ấy tác động lên người khác thì
mới cần tới pháp luật can thiệp vào sự tự do ấy. Ðây là căn bản theo lẽ thường,
hợp với cảm quan chung của nhiều người trong việc làm luật.
Ta
có thể nêu lên một thí dụ thời thượng, đó là vấn đề hút thuốc lá. Nếu hút thuốc
lá là một hành động riêng tư với hậu quả chỉ làm hại, dù nhiều mặt, và chỉ hành
hạ bản thân người chọn việc hút thuốc thì không có nhu cầu phải làm luật chống
lại nó. Luật pháp có thể can thiệp, cấm hút thuốc lá nơi công cộng nếu nó là một
trong các nguy cơ gây hỏa hoạn, hoặc có người muốn tự do hít thở không khí
trong lành, không bị ô nhiễm vì khói thuốc của người khác.
Có
thể biện minh đơn giản cho việc làm luật dựa trên cơ sở duy thực lợi chủ nghĩa
rằng luật pháp bảo vệ người khác trong xã hội khỏi bị các hiệu quả hành động của
cá nhân.
Nhưng
có nên bắt xã hội như một toàn bộ, qua những dịch vụ y tế của nó, phải trả giá
cho quyết định của một cá nhân hút thuốc, dùng ma túy hoặc luyện tập các môn thể
thao nguy hiểm? Ở đây, luật pháp phải thiết lập sự quân bình giữa quan điểm đạo
đức duy thực lợi chủ nghĩa với sự bảo tồn các quyền của cá nhân.
Lập
quân bình cho tự do tối đa
Ý
tưởng về tự do cá nhân là cơ sở cực kỳ quan trọng trong tư tưởng chính trị hiện
đại, có lẽ do phản ứng trước những kinh nghiệm quá đổi hãi hùng của hệ thống độc
tài dưới các chế độ quốc xã, phát xít, Khmer đỏ, và một số chế độ chuyên chế phản
dân chủ ở Nam Mỹ, châu Phi và nhiều nơi khác trên thế giới. Triết gia Áo Karl
Popper (1902-1994) thuộc "Câu lạc bộ Vienna", từng lưu vong sang sống
ở Tân Tây Lan rồi Luân Ðôn, trong cuốn The Open Society and its
Ennemies (Xã hội mở và các kẻ thù của nó, 1945) đã lấy chủ đề tự do
làm trung tâm cho cuộc luận chiến của ông chống lại các hệ thống chính trị có nội
hàm chuyên chế.
Trong
thập niên 1960, phần lớn các cuộc tranh luận chính trị đều tập trung lên cách
thức xã hội tuy giữ gìn trật tự nhưng vẫn để cho tự do tối đa. Lý thuyết của
John Rawls về công bình có thể được nhìn như một nỗ lực biện minh cho quan điểm
cấp tiến về một xã hội trong đó sự tái phân phối của cải là một chọn lựa hợp lý
của các cá nhân tự do.
Rawls
đưa ra quan điểm, với một tiền giả định trong lý thuyết của mình, rằng với điều
kiện mọi cái cốt yếu của đời sống đã được thỏa mãn, người dân sẽ chọn tự do
thay vì, thí dụ, chọn cơ hội để có thêm của cải. Quan điểm này bị Ronald
Dworkin và các triết gia khác thách đố; họ nghĩ rằng có một số người thà chấp
nhận lao vào trò may rủi để chiến thắng còn hơn chơi một cách an toàn và đi
theo quan điểm bình đẳng, cấp tiến của Rawls.
Quyền
con người
Luật
pháp về các quyền của con người hình thành trên cơ sở tán thành sự tự do của cá
nhân, và xem mọi người đều có những quyền con người cơ bản. Tuy nhiên, có khác
biệt giữa việc có một chuỗi các quyền ấy và sự tự do để có thể hành xử chúng. Về
mặt tổng quát, dù các quyền ấy được cung cấp đồng đều cho mọi người bất chấp tuổi
tác và năng lực nhưng đôi khi cần phải cắt bớt việc hành xử các quyền ấy.
Sự
giảm thiểu ấy thường dựa trên một số cơ sở như:
a. Tuổi
tác. Trẻ em có quyền và được luật pháp bảo vệ để khỏi bị người khác lợi
dụng hay bóc lột, như chúng không được phép, thí dụ, đi mua thuốc lá hay mua rượu,
lái ô tô hay lái máy bay. Những giới hạn ấy được đặt ra vì khi chưa tới độ tuổi
thích đáng theo pháp luật qui định, thường là 18 tuổi, trẻ em đều bị xem là
không đủ khả năng đưa ra những quyết định có trách nhiệm, và vì thế, phụ huynh
hoặc xã hội phải đặt ra các cấm cản đối với tự do của trẻ em.
b. Bệnh
tâm thần. Những kẻ bị mất trí và rất có thể là mối nguy cho bản thân
hoặc cho người khác, cũng đều bị kiềm chế.
c. Thiếu
kỹ năng. Khác với tính tự nhiên của quyền sở hữu, lái máy bay hay lái
các loại xe có gắn máy, nếu không có bằng lái là phạm pháp. Có thể biện minh
cho qui định ấy trên cơ sở duy thực lợi chủ nghĩa vì có thể gây nguy hiểm cho
người khác trên trời hoặc trên đường. Cũng thế, làm nhà phẫu thuật hoặc tiến
hành giải phẫu nếu không có bằng cấp chuyên môn là phạm pháp. Không có sự chấp
nhận chính thức và công khai các kỹ năng ấy, nhiều thao tác thuộc loại đó có thể
gây nguy hiểm cho mạng sống hoặc tình trạng sức khỏe của người khác.
Bên
cạnh sự cắt giảm thường xuyên ấy, những người vi phạm pháp luật cũng bị truất
các quyền đó. Hình thức xử lý họ có thể, thí dụ bằng giam giữ trong nhà tù hay
quản chế tại gia, hoặc bằng lệnh của tòa án nhằm chận lại các hành động đang được
tiến hành hoặc ngăn trở người này khỏi tới gần người kia hoặc đặt chân tới một
địa điểm nhất định. Lệnh ấy có thể được dùng một cách hồi tố nếu đương sự từng
phạm pháp trước đó, hoặc chận đứng sự việc sắp xảy ra, thí dụ ngăn không cho xuất
bản một bài báo có tiềm năng gây hại.
Vẫn
sở hữu các quyền
Trong
hết thảy các trường hợp ấy, cá nhân đương sự vẫn còn giữ các quyền căn bản của
mình nhưng không thể hành xử chúng, trên căn bản rằng sự hành xử của đương sự sẽ
đi ngược lại các lợi ích của xã hội như một toàn bộ. Lối tiếp cận này đặt cơ sở
trên ý tưởng khế ước xã hội trong đó luật pháp của xã hội được tạo ra bởi sự đồng
thuận, và tình trạng tạm thời mất các quyền tự do nhất định ấy được đánh đổi bằng
sự sở đắc một biện pháp bảo vệ xã hội. Do đó, cũng có thể biện minh cho nó trên
cơ sở duy thực lợi chủ nghĩa.
Nhưng
Ronald Dworkin lại lập luận rằng "quyền" là cái cá nhân có thể hành xử
dù sự tiến hành nó đi ngược lại lợi ích chung. Nói cho cùng, đối với một quyền
nhất định của tôi, thí dụ tự do ngôn luận, tự do đi lại... nếu không có người
nào muốn thách đố nó thì không có vấn đề tôi phải tuyên bố rằng tôi có nó. Chỉ
trong những tình huống khó khăn, tôi mới phải đòi "được quyền thực thi
nó".
Ðiều
ấy có nghĩa rằng, ít nhất trong bối cảnh tức thời, không thể biện minh cho các
quyền ấy trên các cơ sở duy thực lợi chủ nghĩa. Nó không nhất thiết cung cấp
"cái thiện cao cả nhất cho số lượng lớn lao nhất". Thông thường, chỉ
có thiểu số mới đòi hỏi phải có quyền. Các quyền được thiết lập theo khế ước xã
hội, thí dụ Hiến pháp Hoa Kỳ hoặc Hiến chương Liên hiệp quốc, và biểu hiện các
định chuẩn căn bản được dùng cho sự đối xử mà cá nhân có thể trông mong nhận được
vì thực tế hệ thống luật pháp và xã hội đã đề ra các quyền ấy.
Ba
điểm đúc kết
Ta
có thể tóm lược những gì đã được trình bày trong phần này dưới hình thức ba điểm:
1.
Tự do cá nhân cần được cân bằng với nhu cầu của xã hội như một toàn bộ. Có thể
thẩm định tính chất đạo đức trong việc hành xử tự do cá nhân dựa trên cơ sở duy
thực lợi chủ nghĩa;
2.
Các quyền của con người thể hiện sự tự do căn bản và các cơ hội mà cá nhân có
thể kỳ vọng nhận được từ xã hội. Ðôi khi có thể cấm cản các quyền ấy nếu sự
hành xử chúng tạo nguy cơ cho cá nhân hoặc xã hội như một toàn bộ;
3.
Không phải lúc nào cũng có thể lấy duy thực lợi chủ nghĩa làm cơ sở biện minh
cho việc hành xử các quyền con người. Ðiều quan trọng là cá nhân có thể đòi hỏi
quyền ấy cho mình dù nó không tạo ra phúc lợi cho đa số.
IX. Phong trào nữ quyền
Từ
đầu sách đến nay, chúng ta đã thấy xuất hiện rất nhiều triết gia, và chắc chắn
độc giả không thể không để ý rằng hầu hết các triết gia được đề cập tới ngang
đây đều thuộc nam giới. Dường như giới đàn ông sắp xếp các nghị trình thảo luận
cho loài người, cả về mặt triết học lẫn về mặt chính trị, khiến chúng có vẻ trở
thành những lối tiếp cận vấn đề dựa trên thứ lý tính và luật pháp hình như chỉ
đặc biệt thích đáng với môi trường trí thức của nam nhi. Vì thế, có thể xem là
đã lơ là sự đóng góp của riêng phần nữ nhi và tạo ra sự mất quân bình trong việc
đặt vấn đề và giải quyết vấn đề cho toàn thể loài người.
Bình
đẳng là nền tảng trí tuệ
Sự
xuất hiện của phong trào nữ quyền, do đó, đã và đang đưa dẫn vấn đề phái tính
vào các khái niệm về công bình, bình đẳng và các quyền con người. Cuộc đấu
tranh cho bình đẳng giới đồng thời còn vạch ra các địa hạt từng bị nam giới xem
là độc quyền của họ, hoặc có cái nhìn thiên lệch, gạt bỏ nữ giới ra đứng bên lề.
Tác
phẩm chủ yếu trong công cuộc vận động nhân danh phụ nữ là cuốn A
Vindication of the Rights of Women (Xác minh các quyền của phụ nữ,
1792) của triết gia người Anh kiêm nhà văn đấu tranh cho nữ quyền Mary
Wollstonecraft (1759-1797).
Trong
cuốn sách đó, Wollstonecraft lập luận rằng sự bình đẳng là nền tảng của trí tuệ.
Tuy nhiên, quan điểm ấy không hàm ý rằng không nên có sự phân biệt giữa nam giới
và nữ giới. Và bà hoàn toàn sung sướng thấy rằng đàn bà và đàn ông đóng những
vai trò khác nhau trong xã hội. Trong thực tế, bà thấy hành động đóng góp chủ yếu
của phụ nữ xuất phát từ trong gia đình.
Bắt
đầu từ các định chế
Vào
thế kỷ 19, chủ đề chính yếu cho viễn cảnh phong trào nữ quyền trong đời sống
chính trị của nước Anh là cuộc vận động cho phụ nữ có quyền bầu cử. Chủ đề này
không chỉ do người nữ trình bày, nó còn nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của nhiều
người nam, trong đó có J.S. Mill, triết gia duy thực lợi chủ nghĩa.
Nói
chung, phong trào nữ quyền tìm cách trình bày một phê phán có tính lịch sử về
những bất công xã hội mà nữ giới đã và đang gánh chịu, đồng thời gợi ý cho thấy
rằng định kiến phái tính trọng nam khinh nữ không đơn giản chỉ là vấn đề thành
kiến cá nhân mà là cố hữu trong các định chế chính trị và xã hội, thí dụ chế độ
gia trưởng, các chính sách về ưu tiên tuyển dụng công nhân và sai biệt lương bổng,
v.v...
Tới
đạo đức phái tính
Trên
mặt trận rộng lớn hơn, phong trào nữ quyền cũng mở tới các cuộc thảo luận về mối
quan hệ giữa hai phái tính, vai trò riêng biệt của nữ giới, và những hàm ý đạo
đức của phái tính. Từ đó, các nhà tư tưởng của phong trào nữ quyền đã có những
đóng góp đặc thù vào lối tiếp cận mang tính "đạo đức học đức hạnh"
(xem chương 7), và thông thường, nó được xem như một loại lý thuyết chính trị cấp
tiến, mang màu sắc khuynh tả và được sự ủng hộ của cánh tả.
Ngày
nay, cuộc đấu tranh bình đẳng giới diễn ra không chỉ ở ngoài xã hội, trong sinh
hoạt gia đình mà còn vào tận phòng ngủ, nơi mà sinh hoạt tính dục phải diễn ra
theo sự đồng thuận và trân trọng của cả đôi bên.
X. Một số kết luận
Vấn
đề đối với triết học chính trị, và có lẽ đối với toàn bộ triết học, là nó phải
thao tác trên những khái niệm bị khái quát hóa và trừu tượng. Hiếm khi người ta
thấy nó ứng xử tương xứng với một tình huống thật sự mà con người tìm thấy
chính mình ở trong đó. Thế giới thì phức tạp. Của cải và sự thịnh vượng, ở vào
một tư thế và địa vị nào đó, là sự sở đắc bằng cái giá nghèo khổ của người
khác. Kinh tế thị trường "tự do" dẫn một số người tới thành công thịnh
đạt và một số người khác tới lao đao thất bại. Luật pháp, vốn tạo phúc lợi cho
những kẻ muốn bảo lưu sự thịnh vượng của họ, được một thiểu số ưu quyền xem như
lời bào chữa và trấn an cho lòng tham danh hám lợi của mình.
Khảo
sát cả nội hàm lẫn ứng dụng
Những
gì chúng ta thấy trong triết học chính trị là sự khảo sát những nguyên tắc trên
đó lập nên các hệ thống pháp luật và chính trị. Các quyền của con người, công
bình xã hội, bình đẳng nhân vị, khế ước xã hội, thể chế dân chủ – những cái đó
đều là những thuật ngữ có thể được các triết gia khảo sát nhằm làm sáng tỏ nội
hàm của chúng. Nhưng những ý tưởng ấy cũng là kết quả của các khái niệm tổng
quát hơn về cuộc sống con người cùng ý nghĩa của nó và giá trị của nó. Do đó,
triết học chính trị còn khảo sát cả sự ứng dụng thực tiễn những am hiểu có tính
nền tảng về đời sống con người.
Một
khi bạn đi quá quan điểm của Hobbes cho rằng xã hội được thiết lập để hỗ tương
bảo vệ nhau, một khi bạn nói rằng người ta có quyền tổ chức xã hội theo một
cách thức đặc thù và không chỉ vì nhu cầu sinh tồn mới phải làm như thế, lúc
đó, bạn đang bao hàm các ý tưởng về công bình, tự do, bình đẳng, sự định giá mạng
sống con người, và địa vị của cuộc sống con người vào trong sự am hiểu về thế
giới như một toàn bộ.
Quan
điểm tổng quát
Nếu
chúng ta phân chia triết học thành các phần, mỗi phần ứng xử với một số vấn đề
hữu hạn, thì đôi khi chúng ta có thể quên mất các vấn nạn căn bản, thí dụ như
khi ra sức tập trung vào các chủ đề chính trị và luật pháp đặc thù khiến ta
không quan tâm đúng mức tới các chủ đề khác. Nhưng triết học, tự thân nó, lớn
lên và phát triển như một toàn bộ mang tính hữu cơ:
1.
Cách thức bạn tổ chức xã hội dựa trên quan điểm căn bản của mình về đạo đức.
2.
Rồi tới lượt đạo đức đặt cơ sở trên quan điểm của bạn về "cái tôi" hoặc
bản ngã, và về những ngụ ý của cái được gọi là một con người cá nhân.
3.
"Cái tôi" có những hàm ý đối với câu hỏi tổng quát hơn về ý nghĩa và
giá trị của cuộc đời, được thăm dò trong triết học tôn giáo.
4.
Các chủ đề tôn giáo phát sinh từ những vấn nạn nền tảng về cuộc đời – các câu hỏi
như "Làm thế nào ta biết được cái chắc chắn?"; "Tại sao thà có
còn hơn không?"; "Sống để làm gì?"; "‘Tôi nên làm gì?"
là điểm xuất phát cho toàn bộ triết học.
Nguồn:
http://phusaonline.free.fr/TuTuong/34_Triethocchinhtri.htm