Đỗ
Kim Thêm
Để
khởi đầu cho công cuộc đổi mới về kinh tế, Việt Nam đã đề cao hai khái niệm
quan trọng, nhà nước pháp quyền và kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho đến nay, hai khái niệm này dù đã được
triển khai nhưng vẫn chưa giải đáp thỏa đáng như nhiều người mong đợi. Đây là một
nan đề cần được đặt ra và thảo luận nghiêm chỉnh hơn. Vấn đề mà giới học thuật
luôn quan tâm theo dõi là Việt Nam cần phải hiểu thế nào về hai khái niệm này.
Trong khi chờ đợi những công trình nghiên cứu hoàn chỉnh ra đời, bài viết này
xin được góp một phần nhỏ vào công việc tìm hiểu chung và chỉ giới hạn trong vấn
đề khái niệm nhà nước pháp quyền tại Đức.
I.
Định nghĩa nguyên thủy ở thế kỷ XVIII
Nhà
nước pháp quyền (Rechtsstaat) là một thuật ngữ luật học xuất phát từ học
giới của Đức, trong khi đó ý niệm rule of law trong Anh ngữ
hoàn toàn có một nội dung khác và État de droit không hề có
trong Pháp ngữ trước đây. Khái niệm nhà nước pháp quyền (Rechtsstaatsbegriff)
bắt ngưồn từ chủ thuyết tự do của Đức trong thời kỳ sơ khai (Deutsches
Frühliberalismus), đặt luật pháp của nhà nước trên nền tảng của lý trí (Vernunftsrecht).
Robert von Mohl là học giả đầu tiên đã dùng khái niệm này trong sách luật giáo
khoa mang tên Staatsrecht des Königsreich Würtemberg năm 1829.
Thật ra trước đó đã có nhiều học giả khác đề cập đến khái niệm này, nhưng không
triển khai sâu rộng bằng von Mohl, đó là Carl Theodor Welcker với tác phẩm Die
letzten Gründe von Recht, Staat und Strafe năm 1813 và
Johann Christoph Freiherr von Aretin với tác phẩm Staatsrecht der
konstitutionellen Monarchienăm 1824. Ba tác giả này đều đồng ý một điểm
chung là nhà nước pháp quyền không phải là một hình thái đặc biệt của nhà nước
(eine besondere Staatsform) mà là một thể loại nhà nước chuyên biệt (eine
eigene Staatsgattung). Nhà nước pháp quyền theo von Mohl và Welcker phải được
hiểu là nhà nước đặt trên căn bản của lý trí hay lý tính (Staat der
Vernunft, Verstandestaat). Trong khi đó von Aretin nhấn mạnh đến khía cạnh
khác hơn, nhà nước pháp quyền cai trị trên nguyên tắc ý chí chung của lý trí và
chỉ nhắm mục tiêu đạt đến những điều tốt đẹp nhất. Cả ba cùng chấp nhận
nhà nước pháp quyền là một nhà nước tôn trọng luật thiên về lý tính, dựa theo
những nguyên tắc lý tính này nhà nước sẽ thực hiện việc sống chung của con người.
Thông
qua khái niệm cơ bản này, các học giả đề cập đến những đặc điểm quan trọng khác
của nhà nước pháp quyền như sau:
1.
Nhà nước pháp quyền là một nhà nước thế tục, không thuộc giáo quyền, là một
chính thể cộng hoà (res publica) nhằm đem đến phúc lợi cho toàn dân, phục
vụ cho mỗi cá nhân được tự do, bình đẳng và tự quyết định cho mục tiêu của
mình. Chính sự hỗ trợ này làm cho nhà nước đạt được sự chính thống. Do đó, những
vấn đề thuộc về khuynh hướng siêu nhiên của con người liên quan tôn giáo và đạo
đức phải đặt ra ngoài phạm vi của nhà nước pháp quyền.
2.
Nhà nước pháp quyền chỉ giới hạn mục tiêu trong trong phạm vi bảo vệ tự do và
an toàn cũng như tài sản của người dân, nghĩa là tạo điều kiện cho mỗi cá nhân
được đảm bảo tự do để tự phát huy theo phương cách riêng. Vai trò bảo vệ của cảnh
sát rất quan trọng trong nhà nước pháp quyền. Cảnh sát phải được hiểu là lực lượng
tháo gỡ những chướng ngại, chống đỡ những nguy cơ, đem đến an sinh, đây chính
là một hình thức, dù phụ thuộc, nhưng đem đến phúc lợi chung cho toàn thể.
3.
Nhà nước pháp quyền phải tôn trọng những quyền cơ bản của người dân: bảo vệ tự
do cá nhân, tự do tôn giáo, tự do báo chí, tự do đi lại, tự do kết ước và tự do
hoạt động nghề nghiệp; tài sản của người dân phải được tôn trọng, toà án phải
được độc lập trong các quyết định và chính quyền phải có trách nhiệm với người
dân. Tất cả phải có tinh thần thượng tôn luật pháp, dân chúng phải có cơ quan đại
diện và có quyền tham gia vào sinh hoạt lập pháp. Tổ chức nhà nước phải dựa
trên nguyên tắc phân quyền rõ rệt và được tất cả chấp nhận. Nguyên tắc tam quyền
phân lập của Montesquieu là nền tảng cho sự phân công trong tổ chức của nhà nước,
nhưng sự phân chia quyền lực của nhà nước dựa trên những nguyên tắc đấu tranh
bình đẳng của các thế lực chính trị và xã hội, chứ không hẳn là sự phân công
thuần túy dựa trên chức năng chuyên biệt.
Khái
niệm này đã bị ảnh hưởng khá sâu đậm từ nguyên tắc lý tính của Immanuel Kant. Dựa
trên tinh thần khai sáng bằng lý trí, Kant đã định nghĩa nhà nước là một kết hợp
của con người trong luật pháp. Ông cho rằng luật pháp do nhà nước quy định phải
dựa trên nguyên tắc lý tính, những đặc điểm về hình thức của nhà nước pháp quyền
cần phải được thể hiện và được cụ thể hoá bằng các học thuyết về nhà nước.
Theo Kant, dân quyền dựa trên quan điểm pháp lý cần phải dựa trên những nguyên
lý tiên thiên như sau:
-
Tự do của mỗi cá nhân trong xã hội;
-
Bình đẳng trong mối quan hệ với mọi người khác;
-
Độc lập của từng cá nhân trong xã hội.
Những
nguyên lý này sở dĩ gọi là tiên thiên là vì không thuộc về
kinh nghiệm, không phải người dân chỉ có được vì luật pháp của nhà nước quy định,
mà có sẵn trước khi nhà nước ra đời. Một trong những hình thức tự do quan trọng
nhất của dân quyền mà Kant kể đến là tự do trong luật pháp, nghĩa là người dân
không thể tôn trọng một loại luật pháp nào khác hơn là luật pháp mà chính người
ấy đã đồng tình. Quyền bình đẳng và sống tự lập không gì khác hơn là có được
quyền về tư hữu và tự do hoạt động nghề nghiệp.
Khi
bàn về những điểm chủ yếu của khái niệm nhà nước pháp quyền, Kant cho rằng nhà
nước chỉ nên chuyên tâm vào việc đảm bảo quyền tự do và quyền tư hữu cho người
dân, mục tiêu này nhằm đem lại an sinh phúc lợi và chính mục tiêu này tạo nên một
chính thể cộng hoà (res publica). Những sinh hoạt chính yếu của con người
không nằm trong phạm vi những sinh hoạt công cộng mà là những sinh hoạt cá nhân
có liên hệ đến phạm vi công. Thay vì chuyển hướng thiên về ý niệm quyền lợi
công cộng, nhà nước nên phát huy quyền cá nhân, điều này sẽ tạo nên ý nghĩa hơn
cho duy trì trật tự công cộng. Khi nhà nước tạo được điều kiện cho mỗi cá nhân
tự thực hiện được việc đảm bảo tự do và tư hữu, thì nhà nước đã tạo nên những đặc
trưng cho một nhà nước pháp quyền.
Theo
định nghĩa nguyên thủy này thì luật pháp phải dựa trên một nguyên tắc luật nhà
nước thống nhất, cả về thủ tục lẫn nội dung, đặc điểm của nó không thể chỉ giới
hạn vào luật thủ tục hay luật nội dung, vì nó biểu hiện đặc trưng cho một nhà
nước chuyên biệt, tạo nên một tinh thần mới cho nhà nước, mà sự thực thi luật
pháp này làm cho phương thức cai trị khác với những hình thái của nhà nước theo
hình thái cổ truyền. Đối nghịch với nhà nước pháp quyền không phải là thể chế
quân chủ hay quý tộc mà là thể chế thần quyền và bạo chúa. Hai thể chế thần
quyền và bạo chúa không gắn liền với nguyên tắc lý tính vì thể chế thần quyền dựa
vào những tín điều tôn giáo, trong khi thể chế bạo chúa dựa trên ý chí độc đoán
của người cai trị. Bạo chúa không phải chỉ có thể xảy ra trong một thể chế quân
chủ tuyệt đối mà còn có trong thể chế dân chủ. Nhà nước pháp quyền có khuynh hướng
tự do nhưng không nhất thiết có thể có khuynh hướng dân chủ. Do đó, tự do chính
trị và sự tham gia vào các sinh hoạt nhà nước của người dân phải được bảo đảm.
Nhưng tự do này cũng sẽ bị giới hạn khi mà tự do chính trị không còn bảo vệ tự
do của người dân, nó còn gây nguy hiểm khi mà nó không còn hỗ trợ cho nguyên tắc
lý tính mà nhường chỗ cho nhưng ham mê quyền lực.
Khái
niệm về luật pháp (Gesetzesbegriff) trở nên vô cùng quan trọng trong việc
định hình và cụ thể hoá khái niệm về nhà nước pháp quyền. Luật pháp có nghĩa là
những quy định tổng quát được hình thành qua sự đồng thuận của các đại biểu dân
chúng thông qua thủ tục thảo luận và biểu quyết công khai. Tất cả những nguyên
lý chủ yếu thuộc về một nhà nước pháp quyền đều nằm trong khái niệm về luật
pháp này, trong đó có cả hai khía cạnh định chế và thủ tục. Luật pháp không chỉ
giới hạn ở thủ tục hay nội dung, mà luật pháp là một thể thống nhất, nó nối kết
hai yếu tố này thành một loại hình luật pháp bất khả phân. Sự đồng thuận của
các đại biểu dân chúng nhằm đảm bảo nguyên tắc tự do và vai trò người dân như một
chủ thể hữu quyền trước pháp luật. Luật pháp phải mang tính tổng quát, vì tính
cách này sẽ ngăn chặn mọi vi phạm có chủ đích nhắm vào phạm vi tự do của người
dân và xã hội, thông qua những thủ tục thảo luận và biểu quyết công khai thì nội
dung của luật pháp sẽ đạt được một mức độ của lý tính. Nguyên tắc hợp pháp của
luật hành chánh chỉ rõ điều này. Luật pháp của các cơ quan hành chánh đặt ra chỉ
có hiệu lực pháp lý, khi chính cơ quan hành chánh này tự đặt mình dưới luật
pháp và bị chi phối bởi luật pháp. Luật pháp của một nhà nước pháp quyền là sự
diễn đạt ý muốn của nhà nước, nhưng ý muốn này thể hiện ý muốn chung và quyền của
toàn dân. Sự thống trị của luật pháp phải được hiểu là sự cai trị dựa trên những
nguyên lý về tự do của người dân.
II.
Định nghĩa bổ sung ở thế kỷ XIX
Tuy
đề cao nguyên tắc lý tính và tự do chính trị của người dân và gây ảnh hưởng sâu
đậm trong học giới, khái niệm nhà nước pháp quyền đã có nhiều thay đổi ở thế kỷ
XIX, đặc biệt là ở việc chú trọng thuần về hình thức của luật pháp, nhất là luật
về thủ tục tố tụng. Thật ra trào lưu này hình thành không đồng bộ, các lập luận
không xuyên suốt và thuyết phục. Một trong những học giả thuộc học phái này
là Friedrich Julius Stahl. Ông cho rằng nhà nước phải là một nhà nước
pháp quyền, đó là một mẫu mực chung mà chúng ta đồng thuận vì nó nằm trong chân
lý của động lực phát triển chung trong thời đại mới. Nhưng khái niệm này phải
quy định rõ đâu là đường hướng và giới hạn cũng như khả năng bảo đảm phạm vi tự
do của công dân trong luật pháp. Vì lý do nhà nước phải tôn trọng đạo đức, khái
niệm này phải quy định rõ đâu là ranh giới cần thiết giữa luật pháp và đạo đức.
Nhà nước pháp quyền không thuần túy thiên về những quy định theo luật hành
chánh hay chỉ lo bảo vệ quyền cá nhân. Khái niệm này không chỉ đề ra mục tiêu
cho nhà nước, mà chính nhà nước phải tự thực hiện mục tiêu mình đề ra. Theo
Stahl, không nên loại bỏ hẳn vai trò nhà nước đạo đức và chế độ thần quyền
trong sinh hoạt chính trị. Nhà nước pháp quyền không còn là một thể loại nhà nước
như đã đề ra trước đây, nhằm tạo ra một nguyên lý mới về nhà nước, đó là một
quyền lực cai trị, do đó vấn đề cần phân biệt giữa mục tiêu theo đuổi và phưong
cách thực hiện.
Khi
chấp nhận định nghĩa này làm tiêu chí, thì những đòi hỏi bảo đảm quyền tự do
cho người dân, bình đẳng trước pháp luật, khái niệm luật pháp trong khuôn khổ của
luật nội dung và định chế, sự độc lập của toà án, nguyên tắc pháp định của các
thủ tục hình sự như các tác giả của thế kỷ XVIII đặt ra sẽ không còn quan trọng
nữa. Khi cho rằng một nhà nước hiến định sẽ tạo nên thể chế cộng hòa (res
publica), thì cũng khó chấp nhận rằng nhà nước này sẽ có chiều hướng phát
triển dân chủ. Đặc điểm của khái niệm nhà nước pháp quyền này là tìm ra cái gì
có thể khả thi và bằng cách nào. Chú trọng vào tính hiện thực, khái niệm này chỉ
nhắm áp dụng trong phạm vi luật về thủ tục hình thức tố tụng và về luật hành
chánh, thí dụ như nguyên tắc ưu tiên luật pháp trong phạm vi luật hành chánh, tạo
ra thể chế bảo vệ hữu hiệu người dân trước các cơ quan hành chánh và tòa án, nhất
là tạo ra luật hành chánh nhằm bảo vệ tự do cho người dân. Đó là những điểm chủ
yếu của khái niệm nhà nước pháp quyền.
Trong
chiều hướng này, Otto Mayer đã định nghĩa nhà nước pháp quyền là một nhà nước
có được một hệ thống luật hành chánh được quy định chặt chẽ, dĩ nhiên để đạt được
điều này nhà nước pháp quyền phải lấy hiến pháp làm cơ sở. Khi đề cập đến khái
niệm nhà nước pháp quyền, von Stein cho rằng những đặc trưng của nó là khi mà
người dân có chỗ đứng trong hiến pháp của nhà nước, mỗi quyền mà người dân có
được, kể cả việc chống lại bạo lực nhân danh chính quyền, phải thực sự có giá
trị. Nhà nước pháp quyền không phải là một thể loại đặc biệt về nhà nước như
các học giả đã đề cập trước đây, mà thực ra chỉ là một giai đoạn trong quá
trình phát triển về sinh hoạt tự do của nhà nước.
Định
nghĩa bổ sung còn đề ra những đặc điểm sau đây:
1.
Đối với Stahl, vì dựa vào quan điểm về nhà nước bảo thủ và tôn giáo, nên nhà nước
pháp quyền dựa trên nguyên tắc lý tính và quyền cá nhân có phần giảm đi, chủ yếu
là chú trọng về nguyên tằc hình thức của nhà nước pháp quyền. Nhà nước không chỉ
là một nhà nước pháp quyền mà còn phải đề cao tính cách đạo đức, một định chế
được tạo ra một trật tự thế gian theo mẫu mực tôn giáo. Khi so với những quan
niệm về nhà nước pháp quyền trước đây thì mục tiêu xây dựng nhà nước như là một
cơ quan tối thượng cần xét lại. Khái niệm nhà nước pháp quyền thực ra chỉ đúng
với một khía cạnh ngoại tại của nhà nước mà thôi.
2.
Rudofl von Gneist dựa vào định nghĩa của Stahl mà khai triển thêm trong khi
Freiherr von Stein cho rằng việc hình thành định chế có tầm quan trọng đặc biệt.
Một phần dựa vào ý tưởng của von Stein, von Gneist đề ra hai quan điểm đối nghịch,
một trật tự nhà nước cho xã hội (đây là một mô hình theo kiểu cai trị tự quản của
Anh) và một trật tự xã hội cho nhà nước (đây là một mô hình nhà nước tự do sau
Cách mạng 1789 của Pháp). Do đó, những quy định về mục tiêu của nhà nước nhắm
vào quyền tự do của cá nhân cũng bị hạn chế hơn. Trong nhà nước pháp quyền,
theo von Gneist, thì luật pháp đặt ra khuôn khổ và giới hạn việc thi hành luật
cho nhà cầm quyền. Do đó nguyên tắc hành chánh tự trị không được phép vượt qua khuôn
khổ của luật pháp mà chính là giúp cho việc thi hành luật pháp để bảo vệ nguời
dân được hữu hiệu hơn; chính cơ quan tài phán hành chánh sẽ giám sát những thủ
tục này để bảo đảm được tốt hơn. Quan điểm của von Gneist là phải chú trọng xây
dựng tổ chức quốc hội. Quốc hội chỉ hoạt động hữu hiệu khi mọi tầng lớp địa
phương hợp tác tích cực với nhà nước. Sự tham gia của người dân vào việc thi
hành nhiệm vụ của nhà nước cần phối hợp giữa nhiệm vụ công và hoạt động nghề
nghiệp riêng. Đối với von Gneist, việc thực thi khái niệm nhà nước pháp quyền
là một công việc thuộc về luật hành chánh, đăc biệt hướng về cải tổ hành chánh
địa phương và toà án hành chánh. Ý niệm của ông ảnh hưởng khá sâu đậm đến chính
quyền thời bấy giờ.
3.
Hai học giả khác cũng thuộc học phái này là Otto Bähr và Otto von Gierke. Hai
ông đã đi vào chi tiết hơn von Gneist khi bàn về nhà nước pháp quyền. Theo hai
ông, thật ra đây là một khái niệm khác thuộc phạm vi luật hiến pháp. Nhà nước
cũng là một tổ chức, dù là tối cao, nhưng cũng chỉ là một hình thái nối kết của
con người trong xã hội với nhau như các tổ chức khác trong xã hội, nhà nước
không chỉ giới hạn trong phạm vi cơ quan hành chánh chuyên lo cai trị dân
chúng. Luật hành chánh chỉ là một hình thức luật mà thôi, mà thực chất của nó cần
phải phân biệt với các luật khác. Nhà nước trong khái niệm về nhà nước
pháp quyền, cũng như các tổ chức xã hội khác, phải tự đặt mình trong luật pháp,
không thể đặt trên luật pháp. Nhà nước pháp quyền phải tạo thể thống nhất giữa
nhà nước và pháp luật, nghĩa là tạo mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với
nhau trong tinh thần tôn trọng luật pháp. Cụ thể là thẩm quyền của các cơ
quan phải do luật pháp quy định, việc thực thi quyền phải được luật pháp công
nhận và bảo vệ. Đặt cơ quan hành chánh dưới sự giám sát của toà án nhằm bảo đảm
cho tinh thần thượng tôn luật pháp của nhà nước pháp quyền. Dù không bày tỏ
công khai nhưng Bähr và von Gierke cũng ghi nhận vai trò của toà bảo hiến trong
khái niệm nhà nước pháp quyền, vì tất cả các cơ quan của nhà nước phải tự đặt
mình trong khuôn khổ luật pháp. Do đó, vấn đề quyền tối thượng và quyền của các
cơ quan quyền lực quốc gia được đặt trong thể thống nhất của nhà nước và luật
pháp, nên những vấn đề khác chỉ là phụ thuộc.
Càng
về sau thì những học thuyết tìm cách giảm bớt những tính cách lý thuyết ra khỏi
khái niệm nhà nước pháp quyền để nhằm đề cao vai trò của sự áp dụng luật trong
chính trị. Do đó vấn đề mục tiêu nhà nước là gì trong khái niệm về nhà nước
pháp quyền cũng không được chú trọng. Chính sự thay đổi này làm cho khái niệm
nhà nước pháp quyền chính xác hơn trước đây khi thiên về hình thức và giáo đìều.
Nhà nước pháp quyền phải quy định mối quan hệ giữa luật pháp, chính quyền và cá
nhân, và chính quyền cũng như cá nhân không thể vi phạm luật pháp. Quan niệm
này đối nghịch với các khái niệm trước đây, vì cho rằng mối quan hệ giữa nhà nước
pháp quyền và cá nhân không phải là một loại chế độ thuộc thần quyền hay theo bạo
chúa, cũng không hẳn là theo chế độ dựa trên cảnh sát trị. Nhưng quan điểm này
vẫn duy trì quan niệm sự thống trị của luật pháp và xem đây là sự đảm bảo cho
quyền tự do của người dân. Đặc biệt hơn, các học giả này chỉ nhấn mạnh đến hai
nguyên tắc trọng pháp của cơ quan hành chánh cũng như quyền bào đảm trước tòa
án.
Cũng
trong nỗ lực này các học giả đã giảm bớt hơn nửa về nội dung khái niệm nhà nước
pháp quyền. Nhà nước pháp quyền không có nghĩa là nhà lập pháp có quyền tuyệt đối,
đây phải là một giới hạn cần được đặt ra. Nếu trước đây nguyên tắc lý tính được
coi là nền tảng chính thống cho nhà nước, thì nay chính ý chí của cơ quan lập
pháp mới làm cơ sở cho luật pháp. Nguyên tắc tổng quát của luật pháp được coi
như là một điều chủ yếu, thì nay bị xem là thông thường trong khái niệm của luật
pháp. Ý niệm cơ bản của luật pháp chỉ thuần về hình thức, nghĩa là một đạo luật
được coi là hợp pháp khi những nguyên tắc về luật thủ tục được tôn trọng.
Điều này cho thấy có sự chuyển biến trong ý thức về khái niệm nhà nước pháp quyền.
Richard Thomas, ngược lại, cho rằng quan điểm này đã từ bỏ ý niệm về nhà nước
pháp quyền khi đem toàn bộ nhà nước giao cho một cơ quan nào đó có một quyền lực
tuyệt đối. Ông cũng chống lại quyền lực tuyệt đối của nhà lập pháp trong việc
thay đổi hiến pháp. Thật ra ý kiến của Thomas không phải là phản dân chủ, nhưng
cho thấy tinh thần tôn trọng luật pháp theo học thuyết thực tại pháp quyền. Nhiệm
vụ của luật pháp và quyết định tối hậu của nhà lập pháp là nhằm mang lại hòa
bình trong một xã hội đa dạng. Do đó, không thể cho phép một đặc quyền chính trị
cho một nhóm quyền lực nào theo đuổi một muc tiêu riêng khi mà họ nhân danh quyền
lực với giá trị tuyệt đối trong các thủ tục lập pháp.
Dù
chỉ đảm bảo tự do theo đúng nguyên tắc luật tố tụng, khái niệm nhà nước pháp
quyền thiên về hình thức này đã chiếm ưu thế đến cuối thời kỳ Cộng hoà Weimar.
Thật ra không thể cho rằng các học giả này chủ trương một hình thức trống rỗng,
đây là một sự định hình và khách quan hoá trong ý nghĩa của những nguyên tắc
căn bản của sự phát triển nhà nước pháp quyền: an toàn trong tự do và tôn trọng
quyền tư hữu. Chính nhà nước pháp quyền thiên về hình thức này mới là nhà nước
pháp quyền của dân chúng, nhằm đảm bảo sự phân phối tài sản khi ngăn chặn mọi
thủ tục vi phạm quyền tư hữu của cá nhân. Dù là thiên về hình thức nhưng
nhà nước pháp quyền lại trung dung về chính trị, nghĩa là tạo sự ổn định trong
việc bảo vệ quyền tư hữu đã được định hình.
III.
Định nghĩa hiện nay
Trong
thời kỳ Đức Quốc xã thì khái niệm nhà nước pháp quyền hoàn toàn bị hủy diệt. Với
những nỗ lực xây dựng ngành luật học thời hậu chiến, các học giả Đức đã tiếp tục
truyền thống trước đây khi đưa ra hai chiều hướng mới nhằm định hình cho khái
niệm nhà nước pháp quyền. Chiều hướng thứ nhất thiên về xã hội trong khi chiều
hướng thứ hai thiên về luật nội dung.
1.
Quan điểm thứ nhất cho rằng khái niệm nhà nước pháp quyền nguyên thuỷ đặt trọng
tâm vào quyền tự do của người dân, thực ra chỉ là một mô hình hiến pháp, không
thể nào giải quyết được hết các vấn đề xã hội đặt ra. Ba ý niệm cơ bản trong
khái niệm nhà nước pháp quyền: bình đẳng trước luật pháp, tự do của người dân
và bào đảm quyền tư hữu không chỉ nhằm giúp con người thoát khỏi những ràng buộc
thời phong kiến, mà còn cho con người được tự do hơn trong hoạt động kinh tế và
thoát khỏi những bất bình đẳng tự nhiên, điều này chỉ đạt được khi sự bình đẳng
trong toàn xã hội cũng được tôn trọng. Do đó, vấn đề phát triển con người trong
sự toàn diện cần được đề ra thành nguyên tắc cho tương lai. Chiều hướng cũ đã
không những không giải quyết bất công trong xã hội mà còn đem lại sư tương phản
giai cấp trầm trọng hơn khi ta chỉ dựa trên nền tảng của một xã hội bình đẳng
thuần về luật pháp. Von Stein và Karl Marx đã hiểu rõ tính biện chứng lịch sử của
trào lưu này. Mặt khác trào lưu công nghiệp hoá xã hội đã làm mất đi ít nhiều
môi trường sống. Cả hai vấn đề này vượt ra khỏi khái niệm nhà nước pháp quyền,
do đó đòi hỏi mới cho nhà nước phải là một nhà nước can thiệp vào các vấn đề xã
hội, nhà nước có nhiệm vụ cung ứng và phân phối tài sản. Nhà nước phải đối đầu
với những vấn đề bất công xã hội mà không thuần túy chỉ nhằm vào việc bảo vệ
quyền tự do cá nhân như trong khái niệm nhà nước pháp quyền trước đây. Nhà nước
còn phải giải quyết nhiều vấn đề khác, thí dụ như tình trạng gia tăng dân số, nếu
không thì việc bảo đảm luật pháp này trở thành khẩu hiệu trống rỗng.
Nhưng
tìm đâu ra một chuẩn mực chính xác để định hướng cho nhà nước xã hội là điều
không dễ dàng, trong khi những lời kêu gọi hướng về nhà nước xã hội thì lại quá
chung chung. Qua nhiều tranh luận sôi động thì các học giả đều không đồng thuận
một khái niệm chung cho nhà nước xã hội lồng trong ý niệm về nhà nước pháp quyền.
Nhưng trong mức độ nào đó thì chúng ta có thể chấp nhận khía cạnh nhà nước can
thiệp vào các vấn đề xã hội trong mô hình này, đây là những câu hỏi mà không ai
tìm được câu trả lời thoả đáng. Có học giả cho rằng không thể có sự hoà hợp giữa
hai ý niệm về nhà nước xã hội và nhà nước pháp quyền trên bình diện hiến pháp.
Các học giả khác lại cho rằng nhiệm vụ bảo vệ những người thua kém về mặt xã hội
phải được minh thị trong hiến pháp và là một ủy nhiệm của hiến pháp cần phải
thi hành, vì đây chính là một vai trò quan trọng của hiến pháp trong việc tái
phân phối lợi tức xã hội. Nếu luận điểm này được chấp nhận thì bao nhiêu hệ quả
sẽ phải đặt ra. Những quyền đòi hỏi, thủ tục và hình thức phân phối theo quan
điểm nhà nước xã hội phải được giải quyết. Khi đặt trọng tâm vào việc giải quyết
các vấn đề phân phối trong xã hội thì khái niệm nhà nước pháp quyền sẽ mất đi ý
nghĩa ban đầu của nó.
Ernst
Forsthoff là một trong những học giả đã nhấn mạnh đến tính cách không hòa hợp của
hai khái niệm này. Ông cho rằng không thể nào kết hợp hai quan điểm nhà nước xã
hội và nhà nước pháp quyền trên bình diện hiến pháp, vì việc thực hiện khái niệm
nhà nước xã hội chỉ dựa trên bình diện lập pháp và luật hành chánh là đủ. Theo
ông, nhà nước pháp quyền nhắm vào bảo đảm những quyền hiến định đặc biệt và
bình đẳng trước luật pháp, tạo lập tài sản và tôn trọng tư hữu. Do đó, khi dựa
trên khái niệm nhà nước pháp quyền mà lại đi xa hơn nữa để nhằm vào phân chia tài
sản xã hội là một điều không chấp nhận được. Một mặt, khi quy định quyền bảo đảm
có công việc cho mọi người dân, nhà nước phải có bổn phận trợ cấp khi người dân
bị mất việc, trong khi nhà nước lại không có quyền điều hướng thị trường theo mục
tiêu của mình. Đó chính là một giới hạn khi đề cập đến quyền tự do hoạt động và
chọn nghề nghiệp. Nhà nước không thể xã hội hoá các phương tiện sản xuất vì
không được hiến pháp quy định, trong khi đó thì quyền tự do hoạt động nghề nghiệp
và bảo vệ quyền tư hữu dù được tôn trọng vẫn bị ảnh hưởng.
Đâu
là lý do nội tại cho vấn đề này? Von Stein giải thích rằng, với hình thức nhà
nước pháp quyền chúng ta đã đạt được tự do về mặt cơ bản, không nên đi sâu vào
chi tiết của các vấn đề cụ thể của xã hội. Những xung đột do những tương phản của
xã hội không thể giải quyết trên bình diện luật hiến pháp. Vấn đề là phải tìm
ra sự xung đột xã hội bắt nguồn từ đâu để giải quyết, theo ông, đó chính là mối
quan hệ giữa tư bản, lao động, điều kiện làm việc và phương cách thụ đắc quyền
tư hữu. Do đó, khi bàn đến nhà nước xã hội là chúng ta phải nghĩ đến những điều
kiện xã hội để thực hiện quyền tự do theo luật định, quyền này phải làm sao áp
dụng cho tất cả mọi người, có nghĩa là làm cho bất công xã hội giảm đi. Để giải
quyết vấn đề này, chúng ta cần tìm cách giải quyết trên bình diện chính quyền
và lập pháp hơn là luật hiến pháp. Toà Bảo hiến Đức cũng đã nhiều lần xác nhận
học thuyết này. Qua án lệ, tòa cho rằng cơ quan lập pháp được ủy nhiệm đảm nhận
vai trò tổ chức một nhà nước xã hội nhằm đem lại công bình xã hội trong khuôn
khổ mà hiến pháp cho phép, mục tiêu xã hội là một phương cách để giải thích,
nhưng không thể bắt nguồn từ hiến pháp hay khái niệm nhà nước pháp quyền để tạo
ra một quyền hay một định chế nào đòi hỏi đấu tranh cho các vấn đề xã hội. Do
đó, những nguyên tắc nhà nước xã hội cần được xác minh qua hành vi của các nhà
lập pháp và cơ quan công quyền, trong đó những quyền bảo đảm từ hiến pháp mang
lại phải được tôn trọng.
Nhưng
quan điểm này cũng đã bị phê bình vì những quyết định của các nhà lập pháp
trong các vấn đề xã hội đã đem đến tác dụng ngươc lại. Những đạo luật về trợ cấp
xã hội, hưu bổng, cho thấy quyền lợi của dân chúng không còn được tôn trọng
thích đáng.
Một
khía cạnh khác được tranh cãi là vai trò nhà nước trong việc can thiệp vào các
vấn đề xã hội, chẳng hạn các quyết định liên quan đến thuế. Luật pháp không thể
trừu tượng mà phải quy định cụ thể trong các quyết định đánh thuế. Nhưng
làm thế nào để đạt mục tiêu nhà nước xã hội (bảo vệ quyền tư hữu, tôn trọng di
sản) đó chính là vấn đề. Án lệ đã nhiều lần xác nhận đánh thuế là quyền lập
pháp nhưng phải tôn trọng quyền tư hữu. Nhà lập pháp một mặt tìm cách đánh thuế
để đem lại công bình và an sinh xã hội, mặt khác phải đem đến thăng tiến chung
cho xã hội. Quyết định liên quan đến thuế là một điều kiện cần thiết để
nhà nước can thiệp vào các vấn đề xã hội, mà thật ra vấn đề mối quan hệ giữa
nhà nước xã hội và nhà nước pháp quyền cũng không giải quyết đến tận gốc rễ. Điểm
chủ yếu trong hai vấn đề trên đây là làm sao tìm ra một mức độ hợp pháp khả dĩ
chấp nhận được để giải quyết hơn là tìm kiếm trong luật hiến pháp hay khái niệm
nhà nước pháp quyền là cơ sở.
2.
Một chuyển hướng quan trọng khác trong khái niệm nhà nước pháp quyền trong thời
kỳ này là thiên về luật nội dung hơn là hình thức như đã cổ vũ trước đây. Vấn đề
này không mới lạ trong học giới nhưng qua kinh nghiệm đau xót của thời kỳ Đức
Quốc xã cho thấy tôn trọng luật hình thức sẽ không đem đến hiệu năng nhất định.
Quyền lực của cơ quan nhà nước phải được quy đinh cụ thể hơn trong lãnh vực bảo
vệ tự do cho người dân. Hiến pháp không chỉ nêu lên những giới hạn chung trong
việc bảo vệ tự do. Cơ quan nhà nước phải thực hiện những giá trị cơ bản nhằm
tránh dẫn đến chế độ độc tài. Đây là những giá trị khách quan trong xã hội mà
hiến pháp phải công nhận và được áp dụng chung trong mọi sinh hoạt xã hội. Giá
trị cơ bản này không phải chỉ là hình thức mà phải đặt trong khuôn khổ nội dung
của luật hiến pháp. Khái niệm này nhằm loại bỏ những hình thức trống rỗng của
luật chỉ đề ra khuôn khổ chung. Nhà nước pháp quyền phải chú trọng đến nội dung
của pháp quyền, không thể thiên về luật thủ tục hay hình thức như trước đây.
Dĩ
nhiên khái niệm này cũng gặp nhiều phản biện của các học giả khác, thí dụ như
Adolf Arndt. Ông cho rằng làm sao có thể đồng thuận về một nội dung khi mà
chúng ta không thể xác định được nội dung để đồng thuận. Thật ra, sự đồng thuận
chỉ là một điều kiện tiên quyết nên đặt ra để thảo luận, nhưng khi thông qua hiến
pháp thì sự đồng thuận có thể đạt được hay duy trì được. Ít nhất, chúng ta phải
chấp nhận những giá trị cơ bản đã làm nền tảng cho sự đồng thuận cho sự sống
chung. Nhưng ở mức độ nào để chúng ta gọi là trật tự nền tảng cho nhà nước pháp
quyền? Có học giả cho rằng nhà nước là một thực thể sinh động, giải quyết vấn đề
đòi hỏi phải có thời gian dài, nhà nước sẽ có khả năng tự điều chỉnh trước đòi
hỏi của tình thế xã hội. Hai vấn đề liên quan đến khía cạnh này là vai trò của
một định chế hữu hiệu và niềm tin của dân chúng trong nỗ lực xây dựng nhà nước pháp
quyền theo luật nội dung.
IV.
Kinh nghiệm cho Việt Nam?
Bài
viết này nhằm trình bày thật đơn giản về nội dung khái niệm nhà nước pháp quyền
của Đức. Những đặc điểm chủ yếu của khái niệm này là dựa vào lý tính, tôn trọng
quyền căn bản của người dân, khi thì thiên về luật thủ tục, thuần về hình thức,
nặng về hành chánh hoặc cảnh sát, lúc lại quan tâm đến luật về nội dung hay các
vấn đề công bình trong xã hội. Các tranh luận về những luận điểm này trong học
giới cũng như trong công luận đã làm phong phú cho nội dung của vấn đề cũng như
giúp áp dụng tốt hơn trong thực tế. Ai cũng thấy được dù bối cảnh lịch sử,
trình độ phát triển xã hội và dân trí Đức và Việt khác nhau, nhưng kinh nghiệm
của Đức trong lãnh vực xây dựng một nhà nước pháp quyền không phải là một mặt
hàng xa xỉ mà Việt Nam có thể bỏ qua. Dĩ nhiên, tìm cách áp dụng nó vào hoàn cảnh
của Việt Nam hiện nay như thế nào lại là một thách thức khác và không nằm trong
chủ đề của bài viết này.
Dù
những thành tựu về cải tổ luật pháp trong tiến trình đổi mới của Việt Nam đã được
khen ngợi, nhưng Việt Nam có những vấn đề của chính mình mà kinh nghiệm của Đức
không giúp được. Những nan đề quen thuộc là: vai trò của Đảng trong nhà nước
pháp quyền, thẩm quyền hạn chế của đại biểu quốc hội trong việc thảo luận các vấn
đề học thuyết, giới học thuật thì lại hiếm hoi, trong khi giới luật sư chỉ bận
tâm đến các dịch vụ trung gian cho nhà nước và thân chủ hơn là đóng góp thiết
thực cho công bình xã hội và giúp nâng cao trình độ của quốc hội. Nhưng quan trọng
hơn là bối cảnh chung, giáo dục xuống cấp, đạo đức suy đồi, tội phạm tăng cao
và sự thờ ơ của dân chúng là trở lực chính cho sự phát triển nhà nước pháp quyền
trong ngắn hạn. Cuối cùng chỉ còn lại một niềm hy vọng mong manh cho những người
ưu tư là thành tựu xây dựng một nhà nước pháp quyền tại Việt Nam sẽ đạt được
trong trường kỳ, do nỗ lực chung của mọi giới.
Nguồn:
http://www.talawas.org/?p=25484