Biên dịch: Phan Thị Hoài Phương | Hiệu đính: Nghiêm Hồng Sơn
Trong
những năm gần đây, sự bùng nổ dân chủ đã nhường chỗ cho suy thoái dân chủ. Từ
năm 1985 đến 1995, nhiều quốc gia thực hiện việc chuyển đổi sang dân chủ, mang
hưng phấn lan rộng về tương lai của nền dân chủ. Nhưng gần đây, dân chủ đã
thoái lui ở Bangladesh, Nigeria, Philippines, Nga, Thái Lan, và Venezuela. Còn
những nỗ lực của chính quyền Bush để thiết lập nền dân chủ ở Afghanistan và
Iraq dường như đã đẩy cả hai nước này vào sự hỗn loạn. Với sức mạnh ngày càng
tăng của Trung Quốc và Nga, những phát triển này đã khiến nhiều nhà quan sát
cho rằng nền dân chủ đã đạt đến đỉnh điểm và không còn dâng cao được nữa.
Kết
luận đó là sai lầm. Các điều kiện cơ bản của xã hội trên toàn thế giới chỉ rõ
ra một thực tế phức tạp hơn. Tin xấu là sẽ không thực tế khi cho rằng các thể
chế dân chủ có thể được thiết lập dễ dàng, hầu như bất cứ nơi nào, bất cứ lúc
nào. Mặc dù triển vọng luôn mang lại hi vọng, nhưng dân chủ chỉ có khả
năng xuất hiện và tồn tại cao nhất khi các điều kiện xã hội và văn hóa nhất định
đã được đáp ứng. Chính quyền Bush đã bỏ qua thực tế này khi cố gắng cấy ghép
dân chủ ở Iraq mà chưa thiết lập được an ninh nội bộ, đồng thời bỏ qua các điều
kiện văn hóa vốn đe dọa nỗ lực của chính quyền Bush.
Tuy
nhiên, tin tốt là điều kiện thuận lợi cho nền dân chủ có thể và thực sự xuất hiện,
và nhiều bằng chứng thực nghiệm cho thấy quá trình "hiện đại hóa"
thúc đẩy các điều kiện này phát triển. Hiện đại hóa là một hội chứng của những
thay đổi xã hội liên quan tới công nghiệp hóa. Một khi hoạt động, hiện đại hóa
có xu hướng thâm nhập vào tất cả các khía cạnh của cuộc sống: chuyên môn hóa
nghề nghiệp, đô thị hóa, tăng trình độ học vấn, nâng cao tuổi thọ và tăng trưởng
kinh tế nhanh chóng. Những yếu tố này tạo ra một quá trình tự củng cố giúp biến
đổi đời sống xã hội và các thể chế chính trị, đẩy mạnh sự tham gia của quần
chúng vào chính trị và dần dần giúp cho việc thành lập các tổ chức chính trị
dân chủ ngày càng khả thi hơn. Ngày nay, chúng ta hiểu rõ hơn bao giờ hết
về lý do tại sao và làm thế nào quá trình dân chủ hóa sẽ xảy ra.
Xu
hướng dài hạn tiến tới dân chủ luôn có những bước thăng trầm. Vào đầu thế kỷ
20, chỉ một số ít các nền dân chủ tồn tại, và thậm chí họ đã không đạt được dân
chủ đầy đủ theo tiêu chuẩn ngày nay. Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, số
lượng các nền dân chủ tăng mạnh, rồi tiếp tục tăng mạnh sau Chiến tranh Thế giới
lần thứ hai, và sự bùng nổ thứ ba diễn ra vào thời điểm cuối Chiến tranh Lạnh.
Sau mỗi lần bùng nổ đều kéo theo sự suy giảm, mặc dù số lượng các nền dân chủ
không bao giờ giảm trở lại số lượng gốc ban đầu. Đến đầu thế kỷ 21, khoảng 90
quốc gia có thể được coi là dân chủ.
Xu
hướng chung rất rõ ràng: về lâu dài hiện đại hóa tất yếu dẫn đến dân chủ, mặc
dù nhiều trong số các nền dân chủ này còn chưa hoàn thiện. Điều này có nghĩa rằng
sự trỗi dậy của nền kinh tế Trung Quốc và Nga có một khía cạnh tích cực: những
thay đổi cơ bản đang diễn ra tác động đến khả năng xuất hiện các hệ thống chính
trị ngày càng tự do và dân chủ trong những năm tới. Điều này cũng có nghĩa là
không có lý do gì để hoang mang về một thực tế rằng dân chủ hiện nay dường như
đang ở thế phòng thủ. Tác động qua lại giữa hiện đại hóa và dân chủ hóa đang
ngày càng trở nên rõ ràng, và nhiều khả năng cơ chế này sẽ tiếp tục hoạt động.
Cuộc tranh luận lớn
Khái
niệm về hiện đại hóa có một lịch sử lâu dài. Trong suốt thế kỷ 19 và 20, lý
thuyết Mác-xít về hiện đại hóa tuyên bố việc bãi bỏ chế độ sở hữu tư nhân sẽ chấm
dứt bóc lột, bất bình đẳng, và xung đột. Phiên bản lý thuyết cạnh tranh của chủ
nghĩa tư bản cho rằng phát triển kinh tế sẽ dẫn đến mức sống tăng và dân chủ.
Hai lý thuyết về hiện đại hóa này không ngừng cạnh tranh quyết liệt với nhau suốt
cuộc Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên, vào những năm 1970, chủ nghĩa cộng sản đã bắt
đầu trì trệ, và nhiều nước nghèo rõ ràng là không phát triển kinh tế cũng không
tiến đến dân chủ hóa. Không phiên bản không tưởng nào trở thành hiện thực, và
các nhà phê bình đã tuyên bố rằng lý thuyết về hiện đại hóa đã chết.
Tuy nhiên, kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, khái niệm hiện đại hóa đã hồi sinh, và một phiên bản mới của lý thuyết hiện đại hóa đã xuất hiện, làm rõ hơn hiểu biết của chúng ta về tác động của phát triển kinh tế toàn cầu. Bỏ qua các phiên bản đơn giản đầu tiên, khái niệm mới về hiện đại hóa làm sáng tỏ những thay đổi văn hóa đang diễn ra, chẳng hạn như sự gia tăng về bình đẳng giới, làn sóng dân chủ hóa gần đây, và lý thuyết hòa bình dân chủ.
Tuy nhiên, kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, khái niệm hiện đại hóa đã hồi sinh, và một phiên bản mới của lý thuyết hiện đại hóa đã xuất hiện, làm rõ hơn hiểu biết của chúng ta về tác động của phát triển kinh tế toàn cầu. Bỏ qua các phiên bản đơn giản đầu tiên, khái niệm mới về hiện đại hóa làm sáng tỏ những thay đổi văn hóa đang diễn ra, chẳng hạn như sự gia tăng về bình đẳng giới, làn sóng dân chủ hóa gần đây, và lý thuyết hòa bình dân chủ.
Trong
hầu hết lịch sử nhân loại, tiến triển về công nghệ cực kỳ chậm chạp và những
phát triển mới trong sản xuất lương thực chỉ đủ bù đắp nhu cầu từ gia tăng dân
số - đẩy các nền kinh tế nông nghiệp vào trạng thái cân bằng ổn định nhưng tiêu
chuẩn đời sống không được nâng cao. Lịch sử được coi là một chu kỳ lặp lại hoặc
suy giảm dài hạn từ thời kỳ vàng son trong quá khứ. Tình hình đã bắt đầu thay đổi
với cuộc Cách mạng Công nghiệp và sự ra đời của tăng trưởng kinh tế bền vững -
điều này gợi mở ra tầm nhìn về hiện đại hóa của cả tư bản và cộng sản. Mặc dù
các nhà lý luận cạnh tranh nhau quyết liệt, cả hai tư tưởng đều cam kết thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và sự tham gia quần chúng vào hoạt động
chính trị. Mỗi bên tin rằng các quốc gia đang phát triển của thế giới thứ ba sẽ
đi theo con đường của mình để tiến đến hiện đại hóa.
Vào
đỉnh điểm của Chiến tranh Lạnh, một phiên bản của lý thuyết hiện đại hóa nổi
lên ở Hoa Kỳ miêu tả sự kém phát triển như một hệ quả trực tiếp của những đặc
điểm văn hóa và tâm lý của một quốc gia. Kém phát triển được cho là phản ánh
giá trị chủng tộc và tôn giáo truyền thống bất hợp lý ngăn cản việc gặt hái những
thành tựu. Theo lý thuyết này thì các nền dân chủ phương Tây giàu có có thể
khai mở các giá trị hiện đại và đem lại tiến bộ cho các quốc gia "lạc hậu"
thông qua hỗ trợ kinh tế, văn hóa, và quân sự. Tuy nhiên, vào những năm 1970, sự
hỗ trợ này rõ ràng đã không mang lại nhiều tiến bộ cho sự thịnh vượng hay dân
chủ - mà làm xói mòn thêm niềm tin vào phiên bản về lý thuyết hiện đại hóa này,
ngày càng bị chỉ trích là vị chủng và trịch thượng. Điều này đã bị chỉ trích nặng
nề từ phái "lý thuyết phụ thuộc", họ cho rằng thương mại với các nước
giàu là bóc lột những nước nghèo và trói chặt những nước này vào thế phụ thuộc.
Tầng lớp tinh hoa ở những quốc gia đang phát triển hoan nghênh lập luận này, vì
nó ám chỉ rằng nghèo đói không liên quan gì đến các vấn đề nội bộ hoặc tham
nhũng của lãnh đạo địa phương mà là sai lầm của chủ nghĩa tư bản toàn cầu. Ở những
năm 1980, lý thuyết phụ thuộc đã trở nên phổ biến. Các quốc gia Thế giới thứ Ba
lập luận rằng họ có thể thoát khỏi sự bóc lột toàn cầu chỉ bằng cách rút khỏi
thị trường toàn cầu và áp dụng các chính sách thay thế nhập khẩu.
Thời
gian gần đây, các chiến lược thay thế nhập khẩu rõ ràng đã thất bại: các nước
ít tham gia vào thương mại toàn cầu như Cuba, Myanmar (còn gọi là Miến Điện) và
Bắc Triều Tiên, đã không phải là những quốc gia thành công nhất - thực tế họ là
những nước tăng trưởng kém nhất. Chiến lược định hướng xuất khẩu đã thực sự rất
hiệu quả trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và cuối cùng kéo theo
dân chủ hóa. Theo đó, gió đã đổi chiều và một phiên bản mới về lý thuyết hiện đại
hóa đã tạo được lòng tin. Sự phát triển kinh tế nhanh chóng của khu vực Đông Á
và dân chủ hóa sau đó của Hàn Quốc và Đài Loan dường như đã khẳng định những
tuyên bố cơ bản: sản xuất cho thị trường thế giới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế;
tái đầu tư vào nguồn nhân lực và nâng cấp lực lượng lao động để sản xuất hàng
hóa công nghệ cao mang lại lợi nhuận cao hơn và mở rộng tầng lớp trung lưu có học
thức, và một khi tầng lớp trung lưu trở nên lớn và đủ sức liên kết, ắt sẽ xuất
hiện dân chủ tự do - vốn là hệ thống chính trị hiệu quả nhất cho các xã hội
công nghiệp tiên tiến. Tuy nhiên, thậm chí đến ngày hôm nay, nếu đề cập đến hiện
đại hóa tại một hội nghị về phát triển kinh tế, người ta có thể sẽ phải nghe lặp
lại bài phê bình của lý thuyết phụ thuộc đối với phiên bản lý thuyết hiện đại
hóa vốn từng nhắc tới các "quốc gia lạc hậu", như thể đó là tất cả đối
với lý thuyết hiện đại hóa và không có các chứng cứ mới xuất hiện từ những năm
1970.
Thuyết
hiện đại hóa mới
Khi
nhìn lại, các phiên bản đầu của lý thuyết hiện đại hóa rõ ràng là đã sai về một
số điểm. Ngày nay, hầu như không ai mong chờ một cuộc cách mạng của giai cấp vô
sản sẽ bãi bỏ sở hữu tư nhân, mở ra một kỷ nguyên mới không có bóc lột và xung
đột. Cũng không có bất cứ ai mong đợi công nghiệp hóa sẽ tự hình thành các thể
chế dân chủ; chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát xít cũng nổi lên từ công nghiệp
hóa. Tuy nhiên, nhiều bằng chứng cho thấy lập luận chính của lý thuyết hiện đại
hóa là đúng: phát triển kinh tế có xu hướng mang lại những thay đổi quan trọng
và có thể báo trước về xã hội, văn hóa và chính trị. Nhưng nhiều khía cạnh của
các phiên bản về lý thuyết hiện đại hóa trước đây cần phải được chỉnh sửa.
Thứ
nhất, hiện đại hóa không phải là tuyến tính. Nó không di chuyển vô thời hạn
trong cùng một hướng, thay vào đó, quá trình này đạt đến những điểm uốn. Bằng
chứng thực nghiệm cho thấy rằng mỗi giai đoạn hiện đại hóa gắn liền với những
thay đổi đặc biệt trong thế giới quan của con người. Công nghiệp hóa dẫn đến một
quá trình thay đổi lớn, tạo ra nạn quan liêu, hệ thống phân cấp, tập trung quyền
lực, thế tục hóa, và sự chuyển đổi các giá trị từ truyền thống sang cởi mở. Xã
hội phát triển đến thời kỳ hậu công nghiệp hóa mang lại các thay đổi văn hóa
theo một hướng khác: thay vì quan liêu và tập trung quyền lực, xu hướng mới là
ngày càng chú trọng hơn vào quyền tự chủ và các giá trị tự biểu hiện cá nhân, dẫn
đến nhu cầu giải thoát khỏi sự kiểm soát của chính quyền ngày càng tăng.
Do
đó, nếu các yếu tố khác không đổi, phát triển kinh tế ở mức độ cao có xu hướng
làm cho con người khoan dung và tin tưởng nhau hơn, chú trọng hơn nữa vào sự tự
thể hiện và tham gia nhiều hơn vào việc ra quyết định. Quá trình này không phải
là tiền định, và mọi dự đoán chỉ có thể mang tính xác suất, vì yếu tố kinh tế
không phải là yếu tố ảnh hưởng duy nhất, các nhà lãnh đạo hay các sự kiện của một
quốc gia nhất định cũng ảnh hưởng đến những gì sẽ xảy ra. Hơn nữa, hiện đại hóa
không phải là không thể đảo ngược. Sụp đổ kinh tế nghiêm trọng có thể đảo ngược
nó, như đã xảy ra trong cuộc Đại suy thoái ở Đức, Ý, Nhật Bản và Tây Ban Nha và
trong những năm 1990 ở hầu hết các quốc gia thừa kế Liên Xô. Tương tự như vậy,
nếu cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay trở thành Đại suy thoái thế kỷ 21, thế giới
có thể phải đối mặt với một cuộc đấu tranh mới chống lại sự bài ngoại và chủ
nghĩa độc tài tái sinh.
Thứ
hai, lịch sử có vai trò quan trọng vì thay đổi xã hội và văn hóa phụ thuộc vào
lề thói truyền thống (path dependent). Mặc dù phát triển kinh tế có xu hướng
mang lại thay đổi có thể dự đoán trong thế giới quan của người dân, di sản của
xã hội - cho dù hình thành bởi đạo Tin lành, Công giáo, Hồi giáo, Khổng giáo,
hoặc chủ nghĩa cộng sản - vẫn để lại một dấu ấn lâu dài trong thế giới quan xã
hội. Hệ thống giá trị của một xã hội phản ánh sự tương tác giữa các yếu tố thúc
đẩy công cuộc hiện đại hóa và sức ảnh hưởng dài lâu của truyền thống. Mặc dù
các nhà lý thuyết hiện đại hóa cổ điển ở cả phương Đông và Tây nghĩ rằng tôn
giáo và truyền thống dân tộc sẽ chết đi nhưng chúng đã được chứng minh là rất bền
bỉ. Mặc dù dân chúng của các xã hội công nghiệp hóa đang ngày càng trở nên giàu
có và có học thức hơn nhưng hầu như không tạo ra một nền văn hóa toàn cầu thống
nhất. Rõ ràng di sản văn hóa vẫn tồn tại lâu dài.
Thứ
ba, hiện đại hóa không phải là phương Tây hóa, trái ngược với phiên bản trước
đây, phiên bản vị chủng của lý thuyết này. Quá trình công nghiệp hóa bắt đầu ở
phương Tây, nhưng trong vài thập kỷ qua, Đông Á đã có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế
cao nhất thế giới, và Nhật Bản dẫn đầu thế giới về tuổi thọ và một số khía cạnh
khác của hiện đại hóa. Hoa Kỳ không phải là mô hình cho sự thay đổi văn hóa
toàn cầu, và các xã hội công nghiệp hóa nói chung không trở nên giống như Hoa Kỳ,
như một phiên bản phổ biến của lý thuyết hiện đại hóa vẫn giả định. Trong thực
tế, xã hội Hoa Kỳ vẫn giữ được nhiều giá trị truyền thống hơn so với hầu hết
các nước có thu nhập cao khác.
Thứ
tư, hiện đại hóa không tự động dẫn đến dân chủ. Thay vào đó, về lâu dài, nó mang
lại những thay đổi xã hội và văn hóa mà làm cho dân chủ ngày càng có thể xảy
ra. Việc chỉ cần đạt được một mức độ cao về GDP bình quân đầu người không
tự động tạo ra dân chủ, nếu không Kuwait và Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất
hẳn đã trở thành các nền dân chủ kiểu mẫu. (Các nước này đã không trải qua quá
trình hiện đại hóa được mô tả ở trên.) Nhưng sự xuất hiện của xã hội hậu công
nghiệp mang lại những thay đổi xã hội và văn hóa đặc biệt khả thi cho dân chủ
hóa. Xã hội tri thức không thể hoạt động hiệu quả mà không cần người dân có
trình độ cao và đã quen với việc suy nghĩ cho bản thân. Hơn nữa, mức tăng cao về
an ninh kinh tế ngày càng dẫn tới sự chú trọng vào hội chứng của các giá trị tự
thể hiện - một hội chứng ưu tiên cao cho tự do lựa chọn và thúc đẩy các hành động
chính trị. Theo đó, vượt quá một điểm nhất định, việc né tránh dân chủ trở nên
khó khăn, vì việc đè nén nhu cầu của quần chúng về một xã hội cởi mở hơn trở
nên tốn kém và gây bất lợi đến hiệu quả kinh tế. Như vậy, trong các giai đoạn tiên
tiến, hiện đại hóa mang lại những thay đổi xã hội và văn hóa làm cho sự xuất hiện
và phát triển của thể chế dân chủ ngày càng khả dĩ.
Ý
tưởng cốt lõi của lý thuyết hiện đại hóa là phát triển kinh tế và công nghệ
mang lại một tập hợp chặt chẽ những thay đổi xã hội, văn hóa và chính trị. Một
số lượng lớn các bằng chứng thực nghiệm ủng hộ ý tưởng này. Thực sự, phát triển
kinh tế liên quan mạnh mẽ tới các dịch chuyển lan rộng về niềm tin và động lực
của người dân, và những dịch chuyển này tới lượt chúng lại làm thay đổi vai trò
của tôn giáo, động cơ việc làm, tỷ lệ sinh sản của con người, vai trò giới
tính, quy chuẩn tình dục. Và chúng cũng mang lại những đòi hỏi ngày càng cao đối
với thể chế dân chủ và hành động đáp ứng tốt hơn của giới chức lãnh đạo. Những
thay đổi này cùng nhau làm cho dân chủ ngày càng có khả năng xuất hiện, trong
khi cũng làm cho chiến tranh ít được công chúng chấp nhận hơn.
Đánh
giá các giá trị
Các
nguồn bằng chứng thực nghiệm mới cung cấp những hiểu biết sâu sắc có giá trị về
cách hiện đại hóa làm thay đổi thế giới quan và động cơ. Một nguồn quan trọng
là các cuộc khảo sát toàn cầu về các giá trị và thái độ quần chúng. Từ năm 1981
đến năm 2007, Khảo sát Giá trị Thế giới và Nghiên cứu Giá trị Châu Âu đã tiến
hành năm đợt khảo sát quốc gia mang tính đại diện ở nhiều nước, bao gồm gần 90%
dân số thế giới. (Để xem dữ liệu từ các cuộc khảo sát, tham khảo website
www.worldvaluessurvey.org.) Kết quả cho thấy sự khác biệt lớn giữa các quốc gia
về những gì người dân tin tưởng và quý trọng. Ở một số quốc gia, 95% số người
được khảo sát nói rằng Thiên Chúa rất quan trọng trong cuộc sống của họ; ở những
quốc gia khác, chỉ có 3% có niềm tin như vậy. Trong một số xã hội, 90% số người
được khảo sát cho biết họ tin rằng đàn ông có nhiều quyền có việc làm hơn phụ nữ,
trong những xã hội khác, chỉ có 8% nói rằng họ nghĩ như vậy. Những khác biệt
này rất mạnh mẽ và tồn tại lâu dài, và chúng có mối tương quan chặt chẽ với mức
độ phát triển kinh tế của xã hội: người dân trong xã hội có thu nhập thấp có
chiều hướng chú trọng vấn đề tôn giáo và vai trò giới tính truyền thống nhiều
hơn người dân ở các quốc gia giàu có.
Các
cuộc khảo sát giá trị này chứng minh rằng thế giới quan của những người sống
trong xã hội giàu có khác biệt một cách có hệ thống so với những người trong xã
hội có thu nhập thấp về một loạt các quy chuẩn rộng lớn liên quan đến chính trị,
xã hội và tôn giáo. Sự khác biệt diễn ra ở hai chiều kích căn bản: truyền thống
đối lập với các giá trị cởi mở; và sự tồn tại đối lập với giá trị tự thể hiện.
(Mỗi chiều kích phản ánh kết quả của các câu hỏi khảo sát về giá trị.)
Sự
chuyển đổi từ truyền thống sang các giá trị cởi mở có liên quan đến sự chuyển đổi
từ xã hội nông nghiệp sang công nghiệp. Xã hội truyền thống chú trọng tôn giáo,
tôn trọng và tuân phục nhà cầm quyền cũng như niềm tự hào dân tộc. Những đặc điểm
này thay đổi khi xã hội trở nên cởi mở hơn. Sự chuyển đổi từ sự tồn tại sang
các giá trị tự thể hiện có liên quan tới sự phát triển của xã hội hậu công nghiệp.
Điều này phản ánh sự thay đổi văn hóa xảy ra khi thế hệ trẻ lớn lên cho rằng sự
tồn tại là lẽ đương nhiên. Giá trị tồn tại ưu tiên hàng đầu sự đảm bảo an sinh
về đời sống kinh tế và các quy chuẩn xã hội mang tính tuân thủ. Giá trị tự thể
hiện ưu tiên cao tự do ngôn luận, tham gia vào việc ra quyết định, tích cực hoạt
động chính trị, bảo vệ môi trường, bình đẳng giới, khoan dung đối với dân tộc
thiểu số, người nước ngoài, người đồng tính nam và đồng tính nữ. Việc chú trọng
đến các giá trị này ngày càng sinh ra một nền văn hóa đầy ấp sự tin tưởng và
khoan dung, qua đó mọi người yêu mến tự do cá nhân, tự thể hiện mình và những định
hướng hoạt động chính trị. Những thuộc tính này có tính quyết định đối với nền
dân chủ - và như vậy có thể giải thích bằng cách nào mà tăng trưởng kinh tế, vốn
giúp dịch chuyển xã hội từ nông nghiệp sang công nghiệp và sau đó từ công nghiệp
đến hậu công nghiệp, lại dẫn đến dân chủ hóa. Tăng trưởng kinh tế chưa từng có
trong vòng 50 năm qua có nghĩa là một phần dân số thế giới ngày càng tăng cho rằng
sự tồn tại là lẽ đương nhiên. Dữ liệu chuỗi thời gian từ các cuộc khảo sát giá
trị cho thấy các ưu tiên lớn đã dịch chuyển từ sự chú trọng quá mức về an sinh
và đời sống kinh tế sang sự chú trọng về đời sống tinh thần, tự thể hiện mình,
tham gia vào việc ra quyết định, và một quan điểm tương đối tin tưởng và khoan
dung.
Cả
hai chiều kích đều có liên quan chặt chẽ đến sự phát triển kinh tế: các hệ thống
giá trị của các quốc gia thu nhập cao khác biệt đáng kể so với các quốc gia có
thu nhập thấp. Mỗi quốc gia mà Ngân hàng Thế giới xác định là có thu nhập cao xếp
hạng tương đối cao trên cả hai khía cạnh - với cả hai giá trị cởi mở và tự thể
hiện đều được chú trọng mạnh mẽ. Tất cả các quốc gia có thu nhập thấp và trung
bình thấp được xếp hạng tương đối thấp ở cả hai phương diện. Các quốc gia có
thu nhập trung bình cao nằm đâu đó ở giữa. Ở một mức độ đáng kể, các giá trị và
niềm tin của một xã hội nhất định phản ánh mức độ phát triển kinh tế của nó -
đúng như lý thuyết hiện đại hóa dự đoán.
Sự
liên quan mạnh mẽ giữa hệ thống giá trị của xã hội và GDP bình quân đầu người
cho thấy rằng sự phát triển kinh tế có xu hướng làm xuất hiện các thay đổi có
thể dự đoán về niềm tin và giá trị của một xã hội, và các bằng chứng từ dữ liệu
chuỗi thời gian hỗ trợ cho giả thuyết này. Khi so sánh vị trí của các quốc gia
nhất định trong các đợt khảo sát giá trị liên tiếp, ta thấy rằng hầu như tất cả
các quốc gia đã từng trải qua việc tăng trưởng GDP bình quân đầu người thì cũng
trải qua các dịch chuyển có thể dự đoán được về giá trị của họ.
Tuy
nhiên, các bằng chứng khảo sát giá trị cũng cho thấy thay đổi văn hóa lại phụ
thuộc vào các lề thói cũ; di sản văn hóa của mỗi nước xác định vị trí của nước
đó trên bản đồ văn hóa toàn cầu. Bản đồ này cho thấy các cụm văn hóa nổi bật của
các quốc gia: Tin Lành châu Âu, Công giáo châu Âu, cựu cộng sản châu Âu, các quốc
gia nói tiếng Anh, Châu Mỹ Latinh, Nam Á, thế giới Hồi giáo, và Châu Phi. Các
giá trị được nhấn mạnh bởi các xã hội khác nhau rơi vào một mẫu hình hết sức mạch
lạc phản ánh cả sự phát triển kinh tế cũng như các di sản tôn giáo và thực dân
của họ. Tuy nhiên, ngay cả khi di sản văn hóa của một xã hội tiếp tục định hình
các giá trị hiện hành của nó, phát triển kinh tế mang lại những thay đổi trọng
đại. Theo thời gian, các loại giá trị và niềm tin sẽ tự định hình lại - điều
này dẫn đến nhu cầu lớn ngày càng tăng đối với các thể chế dân chủ và cách hành
xử tốt hơn từ cấp lãnh đạo. Các cuộc khảo sát giá trị đã trải dài qua hơn một
phần tư thế kỷ, người dân ở hầu hết các quốc gia đều ngày càng chú trọng đến việc
tăng giá trị tự thể hiện. Sự thay đổi văn hóa này làm cho dân chủ ngày càng có
thể xuất hiện ở những nơi mà nó chưa từng xuất hiện và trở nên hiệu quả và trực
tiếp hơn.
Nguồn:http://www.doimoi.org/detailsnews/1737/343/phat-trien-dan-den-dan-chu-nhu-the-nao.html