Phạm Văn Tuấn
I.
Tiểu Sử của Nhà Triết Học Voltaire
Voltaire
là bút hiệu của François Marie Arouet, là một nhà văn người Pháp thuộc thời
đại Khai Sáng (Enlightenment), nhà triết học danh tiếng vì trí thông
minh, nhà viết luận văn thường đứng ra bảo vệ các quyền tự do dân sự, gồm cả sự
tự do tôn giáo.
Voltaire
cũng là nhà tranh luận châm biếm, một nhân vật nói thẳng để ủng hộ các cải cách
xã hội, ông thường dùng các sáng tác của mình để chỉ trích các giáo điều của
Nhà Thờ Thiên Chúa Giáo và các định chế bất công, mặc dù các luật lệ kiểm duyệt
khắc nghiệt và các hình phạt nặng nề dành cho những người dám chống đối chế độ
đương quyền của nước Pháp.
Voltaire
còn là một trong các nhà văn khai sáng, cùng với John Locke và Thomas Hobbes,
đã có các tư tưởng và tác phẩm ảnh hưởng mạnh mẽ tới các nhà chính trị hoạt động
trong hai cuộc Cách Mạng Pháp và Hoa Kỳ.
François Marie
Arouet chào đời vào ngày 21/11/1694 tại thành phố Paris, là người con thứ năm
và con út của ông Francois Arouet, một chưởng khế (a notary) và cũng là một
nhân viên ngân hàng hạng trung, và bà mẹ tên là Marie Marguerite d’Aumart, thuộc
một gia đình quý tộc trong tỉnh Poitou.
Khi
còn nhỏ, Voltaire là một đứa trẻ ốm yếu, nhiều bệnh tật khiến cho gia đình tin
tưởng rằng sẽ không sống được lâu, thế nhưng ông đã kéo dài cuộc đời một cách đầy
nghị lực tới năm 84 tuổi.
Voltaire
có người cha đỡ đầu là giám mục của miền Chateauneuf, là một nhà thông thái
nhưng bi quan. Ông này ưa thích cậu bé Voltaire thông minh nên đã hướng dẫn cậu
về thần học và đã dạy cho cậu Voltaire đọc các câu thơ châm biếm trong quyển
thơ Moisade.
Vào
năm 1704, Voltaire theo học trường trung học Louis-le-Grand giảng dạy do các
cha Dòng Tên (Jesuites), ngoài các môn học căn bản còn học thêm tiếng La Tinh
và tiếng Hy Lạp (Greek). Trong thời gian theo học tại trường này tới năm 17 tuổi,
Voltaire đã đoạt được nhiều phần thưởng và một người bạn của cha thấy Voltaire
là một thiếu niên sớm phát triển nên đã tặng cho cậu 2,000 quan tiền để mua
sách.
Cũng
tại trường do các cha Dòng Tên giảng dạy, Voltaire được theo học một nền giáo dục
khai phóng (liberal education) nên đã phát triển thành một nhà văn có các cảm
nhận sắc bén về tự do. Do nhà trường thường hay tổ chức các buổi diễn kịch theo
truyền thống phục hưng cổ điển, Voltaire đã học hỏi được các điều căn bản về kịch
nghệ.
Từ
thuở thiếu thời, Voltaire đã tỏ ra có năng khiếu về làm thơ nên dự tính sau này
sẽ trở thành một thi sĩ, nhưng người cha, ông Francois Arouet, đã không tin tưởng
vào văn chương, cho rằng nghề này không thể mang lại một đời sống đầy đủ, nên
ông đã bắt cậu con trai theo học ngành Luật từ năm 1711 tới năm 1713.
Nhờ
người cha đỡ đầu là giám mục miền Chateauneuf, Voltaire được giới thiệu với các
văn nhân, với các nhà quý tộc như Công Tước de Sully, Công Tước de Vendome, ông
Hoàng de Carti… Vì mong muốn nổi tiếng trong giới văn học, Voltaire đã viết ra
các câu thơ châm biếm đồng thời cũng trở thành một con người hào hoa, được các
bà mệnh phụ chú ý và ưa thích.
Vì
nhận thấy Voltaire là một chàng trai sinh sống phóng đãng, ông Francois Arouet
đã bắt con trai phải rời thành phố Paris, đi làm thư ký cho vị Đại Sứ Pháp tại
Hòa Lan, trong thời gian sinh sống tại nơi đây, Voltaire đã yêu thương một thiếu
nữ tị nạn người Pháp theo đạo Tin Lành, tên là Catherine Olympe Dunoyer. Sự bỏ
nhà ra đi của cặp tình nhân này đã bị người cha cản trở và Voltaire bị bắt buộc
phải trở về Paris.
Khi
trở lại Paris, Voltaire đã được nhiều người biết tới vì các lời văn, lời thơ chỉ
trích châm biếm. Khả năng đặc biệt này cũng khiến cho Voltaire gặp phải nhiều rắc
rối trong suốt cuộc đời. Voltaire bị tố cáo là đã viết ra các lời thơ phỉ báng
một số nhân vật trong xã hội, vì vậy lần này bị cha bắt phải đi xa, sinh sống
trong gần một năm và là người khách của Hầu Tước de Saint-Ange. Chính trong thời
gian này, Voltaire bắt đầu viết các bài luận văn (essays) và xây dựng vở bi kịch
đầu tiên (tragedy).
Voltaire
có tài làm quen với rất nhiều bạn mới, nhưng do khả năng nhậy cảm với các điều
sai trái của xã hội, ông lại ưa thích tấn công các người mà mình không đồng ý về
các quan điểm, bằng các lời thơ nhạo báng.
Vào
lúc trở về Paris, Voltaire được giới thiệu với một câu lạc bộ chính trị và văn
học rất danh tiếng có tên là Cung Đình de Seaux (Court de Seaux) với nhân vật
chủ trương là bà Công Tước du Maine. Có lẽ do bà này gợi ý mà Voltaire đã viết
ra các lời thơ châm biếm, công kích kẻ thù của bà Công Tước là Quan Nhiếp Chính
d’Orleans (the Regent). Vì những rắc rối, vì các kẻ thù, Voltaire phải chạy khỏi
thành phố Paris vào tháng 5 năm 1716, đầu tiên tới miền Tulle rồi miền Sully.
Voltaire
bị nghi ngờ đã sáng tác ra 2 tập thơ nhạo báng tên là “Puerto Regnanto” và “Tôi
đã nhìn thấy” (J’ai vu) nên bị bắt vào ngày 16/5/1717, bị nhốt trong ngục
Bastille trong 11 tháng. Khi được thả ra, ông phải đi sống lưu vong tại miền
Chatenay và chính vào thời gian này, Voltaire đã sửa chữa lại vở bi kịch đầu
tiên, có tên là Oedipe, với chủ đề là sự chuyên chế của giới tu sĩ và bắt đầu
viết tập thơ anh hùng ca L’Henriade, qua đó ông ca ngợi các hành động của Vua
Henry IV của nước Pháp, để đề cao sự dung thứ (tolerance). Qua hai tác phẩm ban
đầu này, người ta đã thấy rõ ở Voltaire một con người tận tụy với sự tự do và sự
công bằng, chống đối mọi hình thức đạo đức giả, sự cuồng tín và các tập tục xấu.
Sau
khi được thả ra khỏi nhà ngục Bastille, ông bắt đầu dùng bút hiệu Auret de
Voltaire. Chữ “de” là do ông thuộc gia đình quý tộc của bà mẹ, còn có người cho
rằng tên “Voltaire” là do khi còn đi học, ông được các bạn bè cùng lớp gọi bằng
tên riêng là “le volontaire” (người tự nguyện làm việc).
Đầu
tiên được trình diễn vào tháng 11 năm 1718, vở bị kịch Oedipe đã sớm thành công
và đã được diễn xuất liên tục trong 45 ngày, và khi Voltaire trở về Paris, ông
được mọi người ca ngợi là một nhà thơ thiên tài, chuyên về bi kịch (a gifted
tragic poet). Cũng do nổi tiếng vì viết ra các lời thơ châm biếm, công kích,
Voltaire bị tố cáo là tác giả của tập thơ Philippiques, chế nhạo Công Tước
d’Orleans, nhưng vào thời gian này, Voltaire là khách mời của Công Tước de
Villars, một vị anh hùng trong chiến tranh và cũng là thống chế của nước Pháp
(maréchal de France). Đây là thời kỳ Voltaire thu thập các tài liệu để viết ra
các tác phẩm lịch sử.
Cho
tới cuối năm 1725, Voltaire nhận được sự bảo trợ của Công Tước Richelieu (the
Duke of Richelieu) nên cuộc sống rất dễ chịu nhưng rồi gặp phải sự ganh ghét của
Hiệp Sĩ Rohan (Chevalier du Rohan), ông này đã chế nhạo biệt hiệu “Voltaire”. Kết
quả sau cuộc cãi cọ là Hiệp Sĩ Rohan đã cho các người hầu tấn công nhà thơ. Khi
Voltaire thách đố cuộc đấu gươm thì bị ông Rohan kể trên nhờ thế lực, nhốt
Voltaire vào trong Ngục Bastille trong 2 tuần lễ. Sau khi được trả tự do,
Voltaire phải ra đi sống lưu vong, qua nước Anh.
Trước
kia vào đầu thập niên 1720, Voltaire đã gặp ông Henry St. John, Tử Tước miền Bolingbroke
(Viscount of Bolingbroke) khi chính ông này đang sống lưu vong tại nước Pháp.
Hai người trở nên đôi bạn thân và vẫn thường xuyên trao đổi thư từ với nhau. Có
lẽ do tình bạn này mà Voltaire đã trải qua 3 năm sinh sống trên đất nước Anh và
sự việc này đã ảnh hưởng lớn lao tới cuộc đời của Voltaire.
Trong
các năm từ 1726 tới 1729, hoàn cảnh trí thức và văn hóa tại nước Anh đã làm cho
Voltaire vui sướng. Ông được các nhân vật thuộc hai đảng Whig và Tory đón tiếp
nồng hậu. Trong số các người bạn cũ và mới, Voltaire đã gặp Alexander Pope,
Jonathan Swift, John Gay, Edward Young và James Thomson, và Voltaire đã ghi lại
trong nhật ký về sự kính trọng và thán phục của mình đối với tác giả Jonathan
Swift của cuốn truyện “Các cuộc Du Lịch của Julliver” (Gulliver’s Travels), và
chắc chắn rằng tác phẩm này đã ảnh hưởng rất nhiều tới cuốn truyện Candide.
Voltaire cũng đặc biệt kính trọng Alexander Pope, một nhân vật cùng có các đặc
tính thông thái, châm biếm, làm thơ dễ dàng và hay chỉ trích các điều sai trái
của xã hội Anh.
Trong
khi sinh sống tại nước Anh, Voltaire đã học cách đọc và viết tiếng Anh, nghiền
ngẫm các tác phẩm của Francis Bacon, William Shakespeare, John Milton, Isaac
Newton và John Locke. Do sự yêu thích Shakespeare mà Voltaire bắt đầu viết vở kịch
“Brutus”.
Voltaire
cũng thu lượm các tài liệu để viết nên tác phẩm “Các Bức Thư Triết Học về Người
Anh” (Lettres philosophiques sur les Anglais). Voltaire đã nhận thấy sự
tự do và sự dung thứ (tolerance) trên quê hương này, ông đã ca ngợi nền văn hóa
Anh và so sánh nước Anh với nước Pháp. Đối với tự do ngôn luận, Voltaire đã từng
nói rằng: “tôi có thể không đồng ý với lời nói của một nhân vật nào đó nhưng
tôi quyết bảo vệ cho tới chết cái quyền mà một cá nhân được nói ra”. Nhà văn học
sử danh tiếng người Pháp là ông Gustave Lanson đã nói rằng tác phẩm “Các Bức
Thư ” kể trên là một trái bom ném vào “chế độ cũ” (ancien régime) của nước
Pháp.
Vào
mùa xuân năm 1729, Voltaire tìm cách xin phép trở về nước Pháp rồi qua năm
1733, ông cho xuất bản tác phẩm “Các Bức Thư” và tập thơ châm biếm “Temple du
Gout”. Tác phẩm thứ nhất trong khi ca ngợi người Anh về các tinh thần dân chủ,
tự do, dung thứ, thì lại công kích chính quyền và nhà thờ của nước Pháp. Tập
thơ thứ hai nhạo báng các nhà văn đương thời, đặc biệt là J. J. Rousseau, vì thế,
chính quyền Pháp đã ban ra một lệnh truy nã Voltaire, căn nhà của ông bị lục
soát.
Vào
lúc chính quyền Pháp ra lệnh lùng bắt Voltaire thì ông đang cư ngụ tại Cirey,
trong tỉnh Lorraine, đây là một vùng đất độc lập và ông là khách mời của bà
Emilie de Breteuil, nữ Hầu Tước của vùng Châtelet. Bà Hầu Tước này trẻ hơn
Voltaire 12 tuổi, là một phụ nữ đặc biệt. Bà ta thông minh, đã tìm hiểu các môn
Toán Học, Khoa Học và Triết Học, và rất hâm mộ nền triết học lạc quan của
Leibnitz. Bà ta cũng giống như Voltaire ở sự ưa thích Newton và để trình bày hệ
thống vật lý Newton, bà Emilie đã dịch tác phẩm “Nguyên Lý” (The Principia)
sang tiếng Pháp, đồng thời cũng thêm vào đó các lời bình luận.
Trong
thời gian sinh sống tại Cirey, Voltaire đã thực hiện được khá nhiều công việc.
Ông đã soạn xong phần khảo sát về Siêu Hình (methphysics), viết xong 6 vở kịch,
hoàn thành hai tập thơ trong đó có tác phẩm Le Mondain (Trần Tục),
đây là sáng tác châm biếm các nhà tu Jansenits là những người theo giáo điều giống
như các người theo đạo Calvinism. Voltaire cũng viết xong tác phẩm “Luận Bàn về
Con Người” (Discours sur l’homme), bắt đầu viết tác phẩm “Thế Kỷ của Vua
Louis 14” (Siècle de Louis 14) và cuốn lịch sử thế giới “Khảo Luận về
các Tập Quán” (Essai sur moeurs).
Sau
khi quan Phụ Chính Orléans qua đời, giới quyền thế tại Paris đã đón chào
Voltaire trở lại.
Sau
năm 1743, Voltaire được hưởng các ân sủng của Triều Đình Pháp, phần lớn nhờ Hồng
Y Richelieu và Bà Pompadour, đây là phụ nữ rất hâm mộ nhà soạn kịch Voltaire. Tới
khi tác phẩm mới “Tập Thơ Fontenay” (Poeme de Fontenay, 1745) của Voltaire
thành công và được nhiều người ca ngợi, Voltaire được lãnh một món tiền trợ cấp
khá lớn và được chọn làm nhà nghiên cứu lịch sử của hoàng gia (a royal
historiographer), chức vụ này trước kia đã do Racine và Corneille đảm nhiệm.
Cũng
vào thời gian này, Voltaire quay sang viết loại truyện triết học (philosophical
tales) trong đó tác phẩm “Candide” được coi là danh tiếng nhất. Voltaire cũng
soạn các vở kịch mới, cạnh tranh với nhà soạn kịch Crébillon, sự việc này đã
gây ra mối bất hòa, rồi cuối cùng vào năm 1746, Voltaire được bầu vào Hàn Lâm
Viện Pháp Quốc (the French Academy).
Với
ngòi bút táo bạo, Voltaire không ngừng chỉ trích, lần này trong tác phẩm châm
biếm “Trajan est-il content” (Trajan có bằng lòng không) với người bị ám chỉ
chính là Vua Louis 15.
Vào
năm 1748, Voltaire lại phải đi tìm nơi ẩn náu, lần này tới vùng đất của Bà Công
Tước de Sceaux rồi sau đó, đi theo bà de Châtelet tại Luneville. Vào tháng 9
năm 1749, bà de Châtelet đã qua đời sau khi hạ sinh một đứa con, sự việc này
khiến cho ông phải tìm một nơi cư ngụ khác. Voltaire không thể trở về Paris vì
sự thù nghịch với Crébillon. Trong khi đó, Đại Đế Frederick (Frederick the
Great) của nước Phổ là người đã từng gặp Voltaire và đã trao đổi thư từ với ông
trong thời gian qua, đã ngỏ lời mời nhà triết học Voltaire tới Potsdam. Đây là
nơi mà vị Vua của nước Phổ đã thiết lập nên một Hàn Lâm Viện, và đang chờ đợi
Voltaire để thêm tên ông vào danh sách các nhà thông triết (philosophes), tức
là các nhà trí thức của châu Âu.
Vì
vậy, Voltaire đã tới Potsdam vào năm 1750, nhận được tiền trợ cấp rộng rãi, nhờ
vậy ông hoàn thành hai tác phẩm lịch sử, viết ra với tham vọng lớn lao, đó là
cuốn “Thế Kỷ của Vua Louis 14” (Siècle de Louis 14). Ông cũng viết ra một truyện
triết học mới, cuốn Micromégas, đây là tác phẩm chịu ảnh hưởng của cuốn “Các Cuộc
Du Lịch của Gulliver” (Gulliver’s Travels) của Jonathan Swift, và Voltaire tiếp
tục soạn cuốn lịch sử thế giới (universal history).
Nhưng,
cuộc sống tại Potsdam của Voltaire đã không kéo dài được lâu bởi vì cá tính của
hai nhân vật. Voltaire cảm thấy nhà vua Phổ quá kiêu căng trong khi đó ông lại
chỉ trích Hàn Lâm Viện Khoa Học của Vua Frederick. Đã có một lần Voltaire bị bắt
giữ tại Frankfort với hành lý bị lục soát. Voltaire như vậy không thể sinh sống
tại nước Phổ, cũng như không thể trở về Paris vì đã có thời gian hợp tác với
Vua Frederick, cuối cùng ông đã chọn nơi cự ngụ là Geneva, một địa phương có nền
tự do tương đối khá hơn.
Vào
lúc này, Voltaire là một người giàu có, ông đã thừa hưởng các số tiền từ người
cha, người anh của mình, đã nhận lãnh các trợ cấp rộng rãi từ các Vua nước Pháp
và nước Phổ, đã kiếm được nhiều tiền nhờ các tác phẩm văn chương, đặc biệt là
các vở kịch. Hơn nữa, ngay từ lúc nhỏ, Voltaire đã tỏ ra là người có năng khiếu
về đầu tư và tài sản của ông có thể coi như ngang với tài sản của ông
Rothschild.
Voltaire
đã mua một lâu đài tại Geneva và đặt tên là “Les Délices” (Niềm Vui), đây là
“lâu đài mùa hè” của ông. Voltaire cũng mua một lâu đài khác tại Monrion, thuộc
xứ Lausanne và gọi nơi này là “lâu đài mùa đông”. Cũng tại xứ Thụy Sĩ, Voltaire
đã viết tác phẩm “Candide” và ông vẫn không ngừng tấn công các tôn giáo.
Voltaire
còn mua một lâu đài tại Ferney trên đất Pháp nhưng rất gần biên giới Thụy Sĩ và
ông dọn về nơi này vào năm 1760 và sinh sống với một người cháu gái là bà
Denis. Tại Ferney, cảnh sống của Voltaire thực là sang trọng với 60 người phục
vụ. Ông rất hiếu khách, thường xuyên đón tiếp các nhân vật danh tiếng của khắp
châu Âu. Voltaire đã cư ngụ tại Ferney trong 20 năm trường.
Trong
suốt cuộc đời, Voltaire đã tin tưởng rằng môn văn chương phải giảng dạy “lẽ phải”
cho quần chúng và ông đã dùng các vở kịch và các tập truyện vào mục đích chính
này. Các tác phẩm của Voltaire đã đề cập tới các vấn đề tôn giáo, chính trị, xã
hội, triết học và ông luôn luôn tranh đấu cho sự dung thứ (tolerance) và sự
công bằng (justice). Tác phẩm “Khảo Sát về sự Dung Thứ” (Traité sur la
tolérance, 1763) đã được viết ra để biện hộ cho Jean Calais, một người đã bị
hành hạ và hành hình do kết quả của cuộc tranh luận về tôn giáo (a religious
controversy).
Voltaire
đã tranh đấu cho một số trường hợp các nạn nhân bị xét xử một cách bất công và
các bản án đã được xét lại, vì vậy, ông đã được nhiều người ca ngợi là “tông đồ
của Tự Do” (the apostle of freedom).
Các
việc làm chính thức của Voltaire không chỉ nhắm vào cách tiêu diệt sự bất công
và sự bất dung thứ, mà còn có các mục đích là làm cải thiện xã hội, phổ biến kiến
thức như là một cách để đánh đổ các thành kiến và bất dung thứ dù cho các sai lầm
này ở vào các phạm vi xã hội, tôn giáo hay chủng tộc.
Tại
châu Âu, thế kỷ 18 là thời kỳ của các nhà quân chủ tuyệt đối nhưng đây cũng là
thời đại của sự khai sáng (the age of the Enlightment). Đồng thời với Voltaire,
trên lục địa châu Âu đã xuất hiện các nhà văn và các nhà tư tưởng danh tiếng chẳng
hạn như Denis Diderot (1713 – 1784) và Jean La Rond d’Alembert (1717 – 1783) tại
nước Pháp, Cesare Baccaria (1735 – 1794) tại nước Ý và Gotthold Lessing (1729 –
1781) tại nước Đức, tất cả các nhân vật này đều nói lên sự cần thiết phải giải
quyết một cách hợp lý các vấn đề xã hội, tôn giáo, chính trị… và họ cũng tranh
đấu cho sự tự do tư tưởng và tự do ngôn luận, và Voltairre vẫn đươc coi là “vị
thống trị trí thức của châu Âu” (the intellectual potentate of Europe).
Vào
mùa xuân năm 1778, vở kịch cuối cùng của Voltaire, bi kịch Irène, được giới
chính quyền Pháp chấp nhận và cho trình diễn tại thành phố Paris và tác giả
Voltaire đã có mặt trong buổi trình diễn đầu tiên. Voltaire cũng được Hàn Lâm
Viện Pháp ca ngợi là nhân vật đặc biệt nhất.
Voltaire
đã qua đời vào ngày 30/5/1778, ở tuổi 84. Vào giờ phút cuối đời, ông đã từ chối
nhận lễ xức dầu (unction) và lễ giải tội (absolution), sự việc này đã gây khó
khăn cho việc chôn cất ông. Quan tài của ông được chôn lấp vội vã trong tu viện
Scellières, thuộc miền Champagne, trước khi có sự can thiệp của vị tổng giáo mục
địa phương. 13 năm sau, di hài của nhà triết học lừng danh Voltaire đã được di
chuyển về thành phố Paris, đặt bên trong Điện Panthéon, đây là Ngôi Đền Thờ
danh tiếng nhất của nước Pháp, tương đương với Tu Viện Westminster của nước
Anh.
II.
Tư tưởng của Voltaire khi viết tác phẩm Candide
Vào
năm 1755, thành phố Lisbon thuộc nước Bồ Đào Nha (Portugal) đã bị san bằng do một
trận động đất khủng khiếp. Hơn 30,000 người đã thiệt mạng. Biến cố này đã làm
chấn động châu Âu. Vào thời gian này, nhà văn Francois Marie Arouet de Voltaire
đã là một nhà triết học hàng đầu của nước Pháp và cũng là một trong các nhân vật
có ảnh hưởng nhất của châu Âu.
Trước
thảm họa này, Voltaire đã viết ra “Bài thơ về tai họa tại Lisbon” (Poem on the
Disaster of Lisbon) rồi 4 năm sau, 1759, ông đã viết ra tác phẩm châm biếm
Candide sau khi suy nghĩ về thảm họa kể trên.
Vào
thời đại của Voltaire, rất nhiều người đã quá “lạc quan”, họ tin tưởng rằng thời
kỳ này là “lúc tốt đẹp nhất” và những gì đang xẩy ra cũng là “tốt đẹp nhất”.
Như vậy sự thiệt mạng của hơn 30,000 nạn nhân có phải là “tốt đẹp nhất” không?
Cuộc chiến tranh 7 năm (the Seven Years War) kéo dài từ 1756 tới 1763, đã tàn
phá châu Âu, có phải là một sự “tốt đẹp nhất” không?
Voltaire
đã dùng kỹ thuật châm biếm để tấn công sự lạc quan, các giả dối và tật xấu của
tôn giáo và xã hội. Bằng cách nói quá đáng, sự châm biếm đã làm cho chủ nghĩa
“lạc quan” trở thành “vô lý” đồng thời cách châm chọc này cũng tấn công sự tự
mãn và sự tự cho là đúng. Thứ tâm lý này thường tin tưởng vào định mệnh, đã từ
chối các cải tiến, thay đổi, trong khi nhà triết học Voltaire lại muốn cho xã hội
được công bằng, nhân đạo hơn, và chủ nghĩa lạc quan đối với ông bị coi là kẻ
thù.
Vào
thời đại của Voltaire, đứng sau vương quyền là Nhà Thờ Cơ Đốc La Mã (the Roman
Catholic Church). Voltaire đã coi Nhà Thờ là cơ sở bảo vệ các điều mê tín, cổ
võ cho sự cuồng tín (fanaticism) và sự bất dung thứ (intolerance), là lực lượng
bảo thủ đứng ra cản trở các cải tiến hữu lý.
Voltaire
sinh ra vào thời kỳ trị vì của Vua Louis 14 (1638-1715), nhà vua này được người
dân Pháp gọi là “Vua Mặt Trời” (the Sun King), là nhân vật đã làm cho nước Pháp
trở thành cường quốc hùng mạnh nhất châu Âu và nhà vua đã cho xây dựng Cung Điện
Versailles huy hoàng bậc nhất vào thời kỳ đó.
Voltaire
sinh sống trong thời đại của Vua Louis 15, vị vua này đã không thành công trong
công việc khiến cho nước Pháp không thống trị được châu Âu. Trước vương quyền,
Voltaire không chống đối thể chế quân chủ, nhưng ông thường hay chỉ trích các
tham nhũng và lạm dụng của triều đình. Voltaire đã dùng phương pháp châm biếm để
tấn công sự bất dung thứ (intolerance) và sự bất công (injustice), chống lại
các thành kiến trước các vấn đề xã hội, tôn giáo và chủng tộc.
III.
Tác phẩm Candide
1.
Vài nhân vật chính.
a)
Candide: là một thanh niên đơn giản, đã đi tới nhiều nơi trên thế giới và đã gặp
nhiều hoàn cảnh có khi vui tươi, có khi hãi hùng. Trong suốt cuốn tiểu thuyết,
Candide đã là một thử thách về quan niệm triết lý lạc quan (philosophical
optimism) hay chủ trương “tất cả đều tốt đẹp nhất” (all is for the best… in
this best of all worlds).
b)
Nam Tước Thunder-ten-tronckh: là con người trống rỗng và tự cao, sinh sống
trong lâu đài Westphalia. Ông này cùng với con trai, có thể bị coi là hình ảnh
của Đại Đế Frederick của nước Phổ.
c)
Cunegonde: là con gái rất đẹp của Nam Tước, là người mà Candide say mê.
d)
Tiến Sĩ Pangloss: một nhà triết học uyên bác và là thầy dạy kèm của Nam Tước,
ông triết gia này chấp nhận nền triết học lạc quan.
e)
Paquette: người hầu phòng trong tòa lâu đài của Nam Tước, cô này có liên hệ với
Tiến Sĩ Pangloss và truyền cho ông ta một thứ bệnh làm biến dạng con người.
f)
Tín đồ của đạo Tái Rửa Tội (Anabaptist): là người tử tế, đã cứu sống Candide,
Pangloss và 1 thủy thủ trên tầu.
g)
Bà già: người làm việc cho Cunegonde, đã giúp đỡ Candide thoát khỏi nơi giá
treo cổ tại địa điểm hỏa thiêu các người khác đạo (auto-da-fe), bà già này cũng
đã nuôi dưỡng Candide cho tới khi lành bệnh. Bà ta cũng là con gái của Giáo
Hoàng Urban X và công chúa Palestrina, nhưng trong suốt cuộc đời, bà ta đã chịu
nhiều khổ đau.
2.
Cốt truyện Candide.
Candide
là một thanh niên ra đời tại Westphalia, một thành phố Đức nhưng lại sinh sống
trong lâu đài của Nam Tước Thunder-ten-tronckh. Ông thầy dạy kèm cho Nam Tước
là Tiến Sĩ Pangloss đã giảng dạy cho Nam Tước học thuyết “lạc quan” (philosophical
optimism) theo đó “tất cả sẽ trở nên tốt đẹp nhất”.
Vì
là một người đơn giản, Candide lúc đầu chấp nhận lý thuyết này nhưng anh ta đã
từng trải qua các kinh nghiệm và những nỗi khủng khiếp của chiến tranh, nhìn thấy
rõ các cảnh nghèo đói, các tính xấu của loài người, các đạo đức giả của nhà thờ…,
vì thế Candide bắt đầu nghi ngờ lý thuyết của Tiến Sĩ Pangloss.
Vào
lúc này, Tiến Sĩ Pangloss có liên hệ tình ái mờ ám với Paquette, cô hầu phòng.
Người con gái đẹp của Nam Tước là cô Cunegonde đã chứng kiến cảnh dan díu kể
trên nên cũng muốn làm công việc tương tự với Candide. Khi cả hai người bị Nam
Tước bắt gặp đang tỏ vẻ yêu đương, Candide đã bị đuổi ra khỏi lâu đài.
Vì
bị vừa đói, vừa rét, Candide bèn đi qua một thành phố bên cạnh, tại nơi này anh
ta được hai người lính giúp đỡ rồi bị bắt buộc đầu quân vào lính, vì vậy
Candide bị các cấp chỉ huy đánh đập. Anh ta liền bỏ trốn nên đã đi qua các làng
mạc bị chiến tranh tàn phá và đã chứng kiến các cảnh hoang phế khủng khiếp của
chiến tranh. Candide tìm đường tới xứ Hòa Lan theo Thiên Chúa giáo với hy vọng
có thể tìm được sự giúp đỡ nhưng chỉ gặp những con người nhẫn tâm, trừ một anh
chàng theo giáo phái rửa tội lại (an Anabaptist), anh này đã đối xử tử tế và rộng
lượng với Candide.
Sau
đó Candide gặp một người ăn mày với hình dạng biến đổi rồi về sau mới khám phá
ra rằng người ăn mày này là Tiến Sĩ Pangloss. Pangloss đã kể lại các kinh nghiệm
cũ cùng với tin tức về cái chết do binh lính sát hại của Nam Tước và gia đình
ông ta. Vào lúc này, mặc dù tình cảnh tồi tệ và các nỗi khủng khiếp mà ông ta
đã trải qua, Tiến Sĩ Pangloss vẫn còn tin tưởng vào triết lý “lạc quan”. Anh
chàng theo phái rửa tội lại đã mang Tiến Sĩ Pangloss và Candide lên tầu biển,
đi về Lisbon.
Khi
một trận bão ập tới, anh chàng giáo phái kể trên đã bị chết sau khi tìm cách cứu
vớt một thủy thủ, tầu bị bể vỡ, chỉ còn 3 người sống sót là Candide, Tiến Sĩ
Pangloss và người thủy thủ. Không lâu sau khi ba người này lên bờ tại Lisbon, một
trận động đất kinh khủng đã làm rung động thành phố này rồi các vị lãnh đạo của
nhà thờ đã tin rằng tai họa kể trên là do các người khác đạo mang lại, nên các
lãnh đạo đã quyết định về một cuộc hỏa thiêu các người ngoại đạo. Tiến Sĩ
Pangloss bị treo cổ, Candide tránh khỏi bị thiêu sống nhờ một bà già cứu giúp.
Bà già này đã cho Candide ăn uống và tắm rửa sạch sẽ rồi đưa chàng ta tới gặp
Cunegonde, cô này đã thoát chết khi quân lính tấn công Nam Tước một cách tàn bạo.
Cunegonde
hiện đang sinh sống với hai người tình có quyền lực và chính cô này đã cứu
Candide khỏi bị lên dàn lửa. Sau đó, do cãi lộn, Candide đã đâm chết hai người
đàn ông kể trên. Quá sợ hãi, Candide, Cunegonde và bà già cùng nhau trốn ra một
thành phố cảng, tại nơi này, một con tầu quân đội đang chất hàng để đi đến xứ
Paraguay. Nhờ khả năng về quân sự, Candide được một ông tướng chú ý rồi ông tướng
này đã phong cho Candide làm đại úy chỉ huy bộ binh.
Về
sau, Candide đã cùng Cunegonde và bà già đáp tầu biển đi xuống miền Nam Mỹ
(South America), trong chuyến đi xa này, bà già đã kể lại các câu chuyện khủng
khiếp mà bà ta đã gặp phải, bà ta đã phải chịu đựng rất nhiều đau khổ, nhiều
hơn tất cả các người khác. Tới lúc này, Candide bắt đầu nghi ngờ lý thuyết của
Tiến Sĩ Pangloss về chủ nghĩa “lạc quan”.
Tại
thành phố Buenos Aires, ba người đã gặp Don Fernando là người chú ý tới
Cunegonde và muốn cưới cô này làm vợ. Candide rất đau buồn nhưng phải tìm cách
lẩn trốn bởi vì các nhân viên cảnh sát đang theo dõi dấu vết của Candide. Do được
anh hầu tên là Cacambo giúp đỡ, Candide đã trốn thoát và đã gặp Cha Linh Mục,
chỉ huy trưởng của một đạo quân Dòng Tên (a Jesuit army) tại Paraguay. Vi chỉ
huy trưởng này hóa ra lại là anh trai của Cunegonde, anh ta đã bị bỏ cho chết
khi cha và mẹ của anh ta đã bị giết tại Westphalia. Lúc này, Candide mới cảm thấy
mình yêu thương Cunegonde nên hy vọng rằng một ngày kia, sẽ cưới được nàng làm
vợ. Người con trai của Nam Tước khi biết được ý tưởng này của Candide, đã nổi
giận rồi một trận đấu gươm xẩy ra và Candide đã giết chết anh ta.
Một
lần nữa, Candide và Cacambo phải bỏ chạy rồi không lâu sau đó, họ gặp nhóm dân
Oreillons, nhưng người này suýt nữa giết chết Candide, nhưng rồi đã đối xử tử tế
với Candide. Sau khi rời bỏ xứ sở của các người kể trên, Candide và Cacambo tới
miền đất Eldorado, đây là nơi chứa đầy vàng và ngọc mà người dân địa phương lại
không cần tới, bởi vì các nhu cầu của người dân đã được chính quyền địa phương
cung cấp. Eldorado cũng là nơi không có tòa án, không có nhà tù bởi vì mọi người
dân đã đối xử với nhau công bằng và không bào giờ phạm luật. Các công dân của xứ
Eldorado tin tưởng vào Thượng Đế nhưng họ không bào giờ cầu nguyện, họ chỉ cảm
tạ Thưởng Đế bời vì họ có đầy đủ các thứ cần tới.
Do
muốn tìm kiếm Cunegonde, Candide và Cacambo đã rời khỏi xứ Eldorado cùng với một
toán lừa màu đỏ chất đầy vàng, ngọc và các đồ tiếp tế khác. Khi tới miền
Surinam, họ tách ra đi theo hai hướng khác nhau: Cacambo một cách bí mật hướng
về Buenos Aires để tìm cách mua chuộc, giải cứu Cunegonde, còn Candide đi tới
Venice là nơi anh ta không bị cảnh sát theo dõi. Candide bị hại do thuyền trưởng
tên là Mynheer Vanderdendur và do một viên quan tòa mà Candide đã nhờ bão chữa.
Thất vọng, Candide đã quảng cáo, muốn tìm một người bất hạnh nhất và người được
chọn là một học giả lớn tuổi, tên là Martin. Sau đó, Candide và Martin cùng đi
tới Venice.
Tại
thành phố Paris, Candide đã mắc bệnh và đã được nhiều người chăm sóc, tất cả những
người này đều chỉ muốn lấy tài sản của Candide. Sau đó Candide và Martin đi tới
nước Anh và đã chứng kiến nhiều cảnh bạo hành, rồi cuối cùng họ tới được thành
phố Venice.
Qua
các cuộc thảo luận khác nhau, qua nhiều lần gặp mặt nhiều người khác nhau,
Candide bắt đầu không còn tin tưởng vào triết lý “lạc quan” nữa. Không lâu sau
đó, Candide gặp lại Cacambo, bây giờ là một tên nô lệ, anh này báo tin cho
Candide biết rằng Cunegonde đang ở Constantinople và làm việc như một người hầu.
Candide đã trả tiền chuộc cho Cacambo để rồi cùng đi Constantinople. Tại nơi
này, họ đã gặp lại Tiến Sĩ Pangloss và người con trai của Nam Tước, cả hai người
này đã tưởng bị chết, nhưng còn sống là nhờ sợi dây treo cổ Tiến Sĩ Pangloss đã
tuột nút thắt, còn người con trai của Nam Tước đã lành khỏi vết thương bị
Candide đâm.
Tất
cả các người này cùng đi tìm kiếm Cunegonde, lúc này cô nàng đang sinh sống với
bà già và không còn đẹp đẽ như trước kia, và Candide đã chuộc lại tự do cho hai
người mới này. Nhưng khi người con trai của Nam Tước cản trở cuộc hôn nhân của
Candide với Cunegonde, mặc dù Candide không còn mong muốn thứ đám cưới này, người
con trai của Nam Tước đã bị đám đông giết chết.
Vào
lúc cuối, Candide đã kết hôn với Cunegonde và mua một trang trại nhỏ bằng số
tài sản Eldorado còn sót lại Tất cả nhóm người này: Candide, Cunegonde,
Cacambo, Martin, Pangloss và bà già, đều sống với nhau tại trang trại kể trên rồi
sau đó còn có Paquette và người bạn đồng hành của cô ta là sư huynh Giroflee. Họ
thảo luận về triết lý của cuộc đời cho tới khi gặp một anh Thổ Nhĩ Kỳ (a Turk)
đang ngồi nghỉ xả hơi dưới một gốc cây. Anh này cho biết rằng anh ta chỉ có một
nông trại nhỏ để sinh sống với các con. Nông trại là nhu cầu của anh ta, đã
tránh cho anh ta khỏi cảnh nhàm chán và các ước muốn xấu xa.
Nhờ
lối giải thích kể trên, Candide cũng cho rằng nhóm người của anh sẽ tìm ra hạnh
phúc và họ bắt đầu canh tác nông trại nhỏ bé của họ.
IV.
Nhận xét về tác phẩm Candide
1.
Phê bình các hệ thống triết học
Candide
là tác phẩm chỉ trích một cách khôn ngoan và châm biếm các hệ thống triết học
trừu tượng, đặc biệt là chủ thuyết lạc quan (optimism) của Gottfried W.
Leibnitz (1646 – 1716). Leibnitz là nhà triết học danh tiếng người Đức, được một
số nhà tư tưởng trong thế kỷ 18 kính trọng. Voltaire không phản bác tất cả các
ý tưởng của Leibnitz mà chỉ tấn công chủ thuyết lạc quan, qua hình ảnh của Tiến
Sĩ Pangloss.
Voltaire
bác bỏ quan niệm cho rằng thế giới này có các biến cố do định mệnh (fatalism)
theo đó mỗi nguyên nhân đều sinh ra hậu quả thích hợp và các nguyên nhân này đều
phản ảnh ý muốn của Thượng Đế. Tiến Sĩ Pangloss vì quá lạc quan nên đã chấp nhận
dễ dàng mọi sự việc xẩy ra, trái với ý nghĩ của Voltaire là con người phải có
tinh thần phấn đấu và cải tiến để sửa sai các khuyết điểm. Voltaire cũng bác bỏ
ý niệm cho rằng Thượng Đế đã can thiệp vào mọi công việc hàng ngày trên thế
gian này, bởi vì các ý tưởng của ông được căn cứ trên lý trí (reason).
Vào
cuối tác phẩm, Candide đã bày tỏ quan điểm của Voltaire, đó là Thượng Đế đã bỏ
lại thế gian này sau khi đã tạo dựng nên và con người phải vun trồng khu vườn của
chính mình.
Vào
thế kỷ thứ nhất, một nhà tiên tri người Ba Tư tên là Mani (Persian prophet, 216
– 276?) đã tin tưởng vào hai nguyên lý: tốt và xấu (good and evil) và 2 nguyên
lý này luôn xung đột với nhau: đây là chủ thuyết Manicheanism.
Trong
tác phẩm Candide, Martin là con người bi quan (a pessimist), đã đi theo chủ
thuyết kể trên nên tin tưởng rằng Thượng Đế đã bỏ thế gian này cho bọn ác quỷ
(Satan và bóng tối) và điều ác là một hiện thực, không phải là một ảo giác.
Voltaire
là người không hề tin tưởng vào một chủ thuyết nào, ông không ưa các lý thuyết
trừu tượng và những người theo lý thuyết, dù cho đó là chủ thuyết lạc quan của
Leibnitz hay bi quan của Mani. Voltaire chỉ tin tưởng vào thực nghiệm
(empiricism) theo đó mọi kiến thức hay các điều hiểu biết phải do từ các kinh
nghiệm của giác quan (sensory experiences). Về điều này, Voltaire chịu ảnh hưởng
của nhà triết học người Anh John Locke (1632 – 1704). Theo Voltaire, một ý tưởng
hay một giả thuyết chỉ có giá trị khi liên quan tới thế giới vật lý để cho con
người có thể nhận biết và kiểm tra qua các giác quan. Cũng vì thế mà Cambo rồi
sau này là Candide, đã trắc nghiệm mọi quan niệm và lời nói bằng các kinh nghiệm
của họ, dù cho các sự việc kể trên thuộc về lạc quan hay bi quan.
2.
Chỉ trích xã hội
Voltaire
tấn công mọi hình thức của xã hội: bản chất của con người đã bị thay đổi bởi
các định chế dân sự (civil institutions) chẳng hạn như Candide đã tìm thấy ở
thành phố Paris các kẻ nói dối và các tên vô loại. Giới tu sĩ từ Giáo Hoàng tới
linh mục, thì hư hỏng, cuồng tín, tham lam, đàn áp, ham quyền lực. Giới y sĩ là
loại lang băm, hành nghề gian lận, giới tòa án và cảnh sát có lòng liêm chính
đáng bị nghi ngờ, sự phân biệt giai cấp trong xã hội được căn cứ vào cách giàu
sang dỏm hơn là tài năng, còn sự thịnh vượng của châu Âu đặt căn bản trên sự
nghèo khó của người dân và trên sự buôn bán nô lệ. Sau cùng, vinh quang bề
ngoài của chiến tranh thì tương phản với sự tàn phá cả trên mặt đất lẫn trên mặt
biển.
3.
Giải pháp của Voltaire
Voltaire
đã đề cập tới một nơi toàn hảo (a perfect place), đó là miếng vườn cộng đồng của
Candide (Candide’s garden community) tại nơi này, mọi người cần phải làm việc
chăm chỉ (hard work), thật thà, có tinh thần cởi mở, cầu tiến và cố gắng chung.
Trong cộng đồng lý tưởng này, mỗi người tham gia tùy theo tài năng và sức mạnh
của từng cá nhân, và mọi người phải làm việc thật chăm chỉ để cải thiện các điều
kiện sinh hoạt bởi vì đây là nền văn hóa hướng vào công việc (work-oriented
culture).
V.
Các tác phẩm chính của Voltaire
1.
Các công trình văn chương quan trọng
– Oedipe (1718).
– Zaire (1732).
– Lettres philosophiques sur les Anglais (Các Bức Thư Triết Học
về người Anh, 1733), sửa chữa lại vào năm 1778 thành Letters on the English.
– Le Mondain (Trần Tục, 1736).
– Sept Discours en Vers sur l’Homme (Bẩy bài diễn văn bằng thơ
về con người, 1738).
– Zadig (1747).
– Micromegas (1752).
– L’Orphelin de la Chine (Trẻ mồ côi của nước Trung Hoa,
1755).
– Candide (1759).
– Dictionnaire philosophique (Từ điển Triết Học, 1764).
– L’Ingenu (Người chất phác, 1767).
– La Princesse de Babylone (Công chúa của thành Babylone,
1768).
– Epitre à l’Auteur du Livre des Trois Imposteurs (Bức thư cho
tác giả của cuốn sách của ba kẻ lường gạt, 1770).
2.
Các vở kịch
Voltaire
đã viết ra được từ 50 tới 60 vở kịch, kể cả một số chưa hoàn thành. Trong số
này, đáng kể là các vở kịch: Oedipe (1718), Eriphile (1732),
Irene, Socrates, Mahomet, Mérope, Nanine, Zaire (1732).
3.
Các công trình lịch sử
– History of Charles XII, King of Sweden (Lịch sử của Charles
12, Vua xứ Thụy Điển, 1731).
– The Age of Louis XIV (Thời đại của Vua Louis 14, 1752).
– The Age of Louis XV (Thời đại của Vua Louis 15, 1746 –
1752).
– Annals of the Empire – Charlemagne, A.D. 742 – Henry VII 1313,
Vol. I (Sử Biên Niên của Đế Quốc – từ Hoàng Đế Charlemagne tới Vua Henry 7, Tập
I, 1754).
– Annales of the Empire – Louis of Bavaria, 1315 to Ferdinand
II, 1631, Vol. II (Sử Biên Niên của Đế Quốc – từ Vua Louis xứ Bavaria tới Vua
Ferdinand II, Tập II, 1754).
– History of the Russian Empire Under Peter the Great (Vol. I,
1759; Vol. II, 1763) (Lịch sử của Đế Quôc Nga dưới thời Đại Đế Peter, Tập I,
1759, Tập II, 1763)./.
Nguồn:
http://www.vietthuc.org/nha-triet-hoc-phap-voltaire-1694-1778-va-tac-pham-candide/