Giới thiệu về Montesquieu

Posted on
  • Thứ Tư, 24 tháng 6, 2015
  • by
  • Minh Anh
  • in
  • Nhãn:


  • TIỂU SỬ
    CHARLES-LOUIS DE SECONDAT, BARON DE MONTESQUIEU (1689 - 1755), triết gia chính trị, nhà văn triết học Pháp, sinh tại lâu đài Brède ở Bordeaux, tốt nghiệp luật tại đại học Bordeaux. Năm 1716, ông thừa hưởng của người chú gianh hiệu nam tước Montesquieu. Ông hoạt động chính trị rất tích cực, là chủ tịch hội đồng dân biểu Bordeaux từ 1716 đến 1728.
    Ông di du lịch lên nhiều quốc gia, riêng tại Anh, ông trải qua một thời gian nghiên cứu các thiết chế chính trị, tham gia các cuộc họp nghị viện, gặp gỡ và trao đổi với những gương mặt kiệt xuất như David Hume và Lord Chesterfiled. Ông cũng nổi tiếng vì tài năng văn chương, được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp năm 1728, và Hội Hoàng gia năm 1730, phần lớn là do tiếng vang rộng rãi của cuốn sách Những lá thư Ba Tư (1721), một tác phẩm châm biếm gần như toàn diện đời sống nước Pháp, từ chính trị đến văn hóa, từ văn chương đến tôn giáo.
    Và mặc dù tác phẩm lịch sử Bàn về những nguyên nhân hưng thịnh và suy vong của người Rome (1734) cũng được nhiều người đánh giá cao, nhưng chắc chắn một điều Tinh thần pháp luật (1748) mới thực sự là tuyệt tác triết học của ông. Trong lời nói đầu, Montesquieu. đã nói rõ những mục đích của cuốn sách: a/ trình bày những nguyên nhân quyết định quyết định nền pháp lý cho mỗi quốc gia; b/ Trình bày sự phù hợp cần thiết giữa luật lệ và chế độ cai trị của một nước; c/ trình bày những quan hệ giữa những luật lệ với nhau. Ông đã phải mất gần 20 năm cho tác phẩm này và khi viết xong sách thì ông gần như mù mắt hẳn.
    Tuy nhiên, bất chấp thành công vang dội, Tinh thần pháp luật vẫn vấp phải nhiều chỉ trích, thậm chí còn bị cấm phổ biến ở thành phố Sorbonne. Montesquieu viết bài biện hộ cho tác phẩm của mình vào năm 1750, và tiếp tục viết một số tác phẩm ngắn hơn (không xuất bản lúc ông còn sống), và khai triển thêm cuốn Những lá thư Ba Tư. Ông mất năm 66 tuổi tại Paris vì bệnh sốt.

    NỀN TẢNG CỦA NHÀ NƯỚC
    Tinh thần pháp luật là một trong những tác phẩm vĩ đại trong lịch sử triết học chính trị và trong lịch sử luật học. Trong tác phẩm này, Montesquleu cho thấy ông chịu ảnh hưởng các học thuyết chính trị của John Lock (và Machiavelli), và chịu ảnh hưởng phương pháp luận của Descartes. Mục tiêu của Tinh thần pháp luật là giải thích luật pháp con người và các thiết chế xã hội. Đây dường như là một dự án vô vọng: vì khác với các quy luật vật lý, theo Montesquieu, được Thượng đế xây dựng và duy trì, những luật lệ nhân loại và các thiết chế xã hội được tạo ra bởi những con người có thể sai lầm và thường khi bị lôi cuốn bởi những đam mê mãnh liệt. Tuy nhiên, theo ông, điểm chính yếu để hiểu những luật lệ khác nhau và các hệ thống xã hội là công nhận rằng chúng phải được thích ứng với nhau yếu tố khác nhau, và chúng không thể được hiểu một cách đúng đắn trừ phi người ta xem xét chúng dưới ánh sáng này. Cụ thể, các luật lệ phải được thích ứng với ''những người mà vì họ luật lệ được tạo ra... , với bản chất và nguyên tắc của mỗi chính quyền,... với khí hậu của mỗi quốc gia, với đặc tính đất đai của nó, với tôn giáo của cư dân, với khuynh hướng của họ, của cải, việc buôn bán, phong tục tập quán. Khi chúng ta xem xét các hệ thống luật pháp và xã hội trong tương quan với những yếu tố khác biệt này, chúng ta sẽ thấy rằng nhiều luật lệ và thiết chế có vẻ như khó hiểu hay thậm chí ngược đời thực ra là hoàn toàn có thể hiểu được.
    Montesquieu cho rằng có ba loại chính quyền: cộng hòa, dưới hình thức dân chủ hay quý tộc; quân chủ và độc tài. Khác với Aristole Montesquieu không phân biệt các hình thái chính quyền dựa trên đức hạnh của người cầm quyền. Chẳng hạn, sự khác biệt giữa chế độ quân chủ và chế độ chuyên chế không tùy thuộc vào đức hạnh của quốc chủ, nhưng tùy thuộc vào việc ông ta có cai trị ''bằng những luật lệ cố định và đã được chính thức hóa'' hay không. Mỗi hình thái chính quyền có một nguyên tắc cấu thành: đối với nhà nước cộng hòa dân chủ, nó là đức hạnh; đối với nhà nước cộng hòa quý tộc, đó là sự điều độ: đối với nhà nước quân chủ, đó là danh dự, và đối với nhà nước độc tài, đó là sự sợ hãi. Và mỗi chính quyền có thể bị sụp đổ nếu nguyên tắc của nó bị xói mòn hay bị hủy hoại.
    Các chế độ dân chủ, có thể bị sụp đổ theo hai cách: ''tinh thần bất bình đẳng'' và “tinh thần bình đẳng cực đoan''. Tinh thần bất bình đẳng nổi lên khi các công dân không còn đồng nhất quyền lợi của họ với quyền lợi của quốc gia, và do đó cả hai bên tìm cách gia tăng quyền lợi của riêng mình bằng cái giá quyền lợi của đồng bào mình, và nhờ đó có được quyền lực chính trị. Tinh thần bình đẳng, cực đoan nổi lên khi dân chúng không còn bằng lòng được bình đẳng như những công dân, mà muốn được bình đẳng trên mọi phương diện.
    Trong chế độ quý tộc, một nhóm người nắm quyền cai trị tất cả dân chúng còn lại. Nguyên tắc điều độ buộc những người cầm quyền trong chế độ quý tộc tự hạn chế việc áp bức dân chúng và tự hạn chế việc sở hữu quyền lực quá độ. Trong chế độ quý tộc, luật pháp nhằm làm thấm nhuần và bảo vệ tinh thần điều độ này. Để làm được điều đó, họ phải thực hành ba nhiệm vụ. Thứ nhất, luật dân chúng. Thứ hai, luật pháp phải được che đậy càng nhiều càng tốt sự khác biệt giữa giới quý tộc và dân chúng, sao cho dân chúng cảm thấy họ không thiếu quyền lực. Cuối cùng, pháp luật phải tìm cách bảo đảm sự bình đẳng ngay trong tầng lớp quí tộc. Không làm được như vậy, giới quý tộc sẽ mất tinh thần điều độ của mình, và chính quyền sẽ sụp đổ.
    Trong chế độ quân chủ, một người cai trị ''bằng những luật lệ cố định và đã được chính thức hóa”. Nhiệm vụ chính của luật pháp trong chế độ quân chủ là bảo vệ các thiết chế phụ thuộc vốn phân biệt chế độ quân chủ với chế độ chuyên chế. Để đạt được mục đích này, họ phải bảo đảm gìn giữ nguyên vẹn những điền trang rộng lớn, bảo vệ những quyền hạn và đặc ân của tầng lớp quý tộc, và thúc đẩy nền pháp trị. Một chế độ quân chủ sẽ sụp đổ khi người cầm quyền phá hủy các thiết chế phụ thuộc vốn chế ngự ý chí của mình, hoặc quyết định cai trị một cách độc đoán, bất chấp luật pháp cơ bản của quốc gia mình.
    Trong các chế độ độc tài, chỉ một người điều hành mọi việc bằng ý chí riêng của mình. Không có luật pháp kiểm soát và không cần quan tâm đến sự bất đồng, chính kiến, nhà độc tài có thể làm bất cứ điều gì mình thích. Thần dân của ông ta không khác gì những tên nô lệ và ông ta có thể loại bỏ họ khi cần. Nguyên tắc của chế độ độc tài là sợ hãi. Và thần dân của nhà độc tài luôn bị đe dọa. Giáo dục không cần thiết; nếu nó có tồn tại cũng chỉ nhằm vào việc hạ thấp tâm hồn và phá nát trí tụệ. Những ý tưởng như danh dự và đức hạnh không hiện hữu đối với thần dân của nhà độc tài, bởi vì những người có khả năng thiết lập giá trị cho chính mình chắc chắn sẽ gây ra sự nhiễu loạn. Sự sợ hãi, do đó, phải đè nén tinh thần của họ, và dập tắt thậm chí một tham vọng tối thiểu''. Vì những lý do này, chế độ độc tài liên quan với sự sụp đổ khác với các hình thái chính quyền kia: trong khi các chế độ kia có nguy cơ sụp đổ thì chế độ độc tài là hiện thân của sự sụp đổ.

    SỰ PHÂN QUYỀN
    Đây là học thuyết bàn về ba chức năng của quyền lực nhà nước: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ba chức năng này phải tách rời nhau hoàn toàn, mỗi chức năng kiểm soát hai chức năng kia. Chúng phải được tách rời, không chỉ vì về mặt pháp lý và trong các tổ chức của chúng mà còn trong xã hội; tức là, mỗi quyền lực liên kết với một tầng lớp xã hội khác nhau: hành pháp là quân chủ; lập pháp, ở hai viện, đại diện cho tầng lớp quý tộc và tư sản; và tư pháp đại diện cho mọi tầng lớp và không cho ai cả. Theo đó, các quyền lực được cân bằng một cách tự nhiên, mỗi quyền lực được kiểm soát bằng một đối quyền. Phân chia quyền hành chính trị thành quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, Montesquieu khẳng định rằng, trong nhà nước xúc tiến một cách hiệu quả nhất sự tự do, ba quyền lực này phải được giao cho các cá nhân và tổ chức khác nhau, hành động một cách độc lập.
    Mô hình của ông được thực hiện phần nào trong cấu trúc lập hiến của nước Anh thế kỷ XIX, tuy nhiều người cho rằng nhận thức của ông về cấu trúc đó có hơi bị lý tưởng hóa.
    Học thuyết của ông ảnh hưởng đến những người soạn thảo Hiến Pháp Mỹ và các triết gia chính trị như Burke và Rousseau. . .

    HỌC THUYẾT KHÍ HẬU
    Dựa trên những học thuyết mà ông nghiên cứu qua sách vở, dựa vào kinh nghiệm của những chuyến đi, và dựa vào thực nghiệm - phải thừa nhận rằng có phần nào chất phác - được tiến hành ở Boldeaux, ông nhấn mạnh tác động của khí hậu đối với thể chất của cá nhân và như một hệ quả đối với quan điểm xã hội của họ. Bổn phận của nhà lập pháp là trung hòa ảnh hưởng đó. Montesquieu cho rằng khí hậu chỉ là một trong nhiều yếu tố trong tập hợp những nguyên nhân thứ yếu mà ông gọi là tinh thần tổng quát''. Những yếu tố khác (luật pháp, tôn giáo, và những châm ngôn chính quyền là quan trọng nhất) có bản chất phi vật chất, và ảnh hưởng của của chúng, so với ảnh hưởng của khí hậu, tăng lên khi có sự tiến bộ của văn minh.
    Theo Montesquieu, những người sống trong khí hậu lạnh đầy sinh lực và dũng cảm, thản nhiên, thẳng thắn, thường đáng ngờ và gian xảo. Họ khá vô tình với niềm vui thú và nỗi khổ đau. Những người sống trong khí hậu ấm áp có những cảm giác mạnh mẽ hơn nhưng ít bền bỉ hơn. Họ sợ hãi hơn, say đắm hơn, và dễ bị ảnh hưởng bởi những cám dỗ khoái lạc và sự đau đớn có thực hay tưởng tượng nhưng họ ít kiên quyết hơn, và ít có khả năng hành động liên tục hay dứt khoát.
    Montesquieu cho rằng khí hậu và địa lý của châu Á giải thích tại sao chế độ độc tài phát triển ở đó. Ông nghĩ rằng, châu Á có hai đặc điểm phân biệt nó với châu Âu. Thứ nhất, châu Á gần như không có vùng ôn đới. Trong khi núi non vùng Scandinavia che chở châu Âu khỏi những đợt gió rét, thì châu Á không có những tầng đệm như thế; vì lẽ đó, khác với châu Âu, vùng giá lạnh phương bắc của châu Á trải dài về phương nam nhiều hơn, và có sự chuyển tiếp khá nhanh từ đó đến phương nam nhiệt đới. Do vậy, ''những con người hiếu chiến, dũng cảm và năng động tiếp xúc ngay lập tức với những người lười biếng, ẻo lả, nhút nhát; cho nên, người này phải chinh phục, và người kia chịu khuất phục''. Ở châu Âu, trái lại, khí hậu thay đổi dần dần từ lạnh sang nóng; do đó những quốc gia hùng mạnh chống lại những người mạnh mẽ; và những người tập hợp lại với nhau gần như có chung sự can đảm''. Thứ hai, châu Á có những bình nguyên rộng lớn hơn châu Âu. Các dãy núi ở châu Á nằm rời xa nhau, và các con sông của nó không phải là những chướng ngại vật gì ghê gớm trước các cuộc xâm lăng. Trong khi đó châu Âu, về mặt tự nhiên, được chia thành những vùng nhỏ, nên rất khó cho một thế lực nào muốn chinh phục nó toàn bộ; nghĩa là châu Âu có xu hướng có thêm nhiều quốc gia nhỏ. Châu Á, trái lại, có xu hướng có nhiều Đế quốc rộng lớn hơn, điều đó dẫn đến sự ra đời các nhà nước độc tài.

    NHỮNG TÁC PHẨM CHÍNH
    Lettes Persanes (1721; những lá thư Ba Tư)
    Causes de la grandeur et de la décadence des Romains (1734; Bàn về những nguyên nhân hưng thịnh và suy vong của người Rome).
    L’Esprit des Lois (1748; Tinh thần pháp luật)

    (Trích từ tác phẩm 101 Triết gia, Mai Sơn biên soạn)
     
    Xem trang web chính thức tại Tinhthankhaiminh.org