Nguyễn
Ước
I. Sự việc, giá
trị và lựa chọn
II. Tự do và
thuyết tất định
III. Các loại
ngôn ngữ đạo đức học
IV. Ba nền móng
của đạo đức học
V. Tuyệt đối chống
tương đối
VI. Các giá trị
và xã hội
VII. Ðạo đức học
ứng dụng
I.
Sự việc, giá trị và lựa chọn
Các
câu hỏi dẫn nhập. Cho tới đây, chúng ta đã thăm dò
các câu hỏi về tri thức: Liệu chúng ta có thể biết chút nào về bản tính của thực
tại như một toàn bộ? Tư tưởng và ngôn ngữ của chúng ta liên quan ra sao tới các
kinh nghiệm đến với chúng ta qua giác quan? Hai câu hỏi ấy đưa dẫn đến ba chủ đề
lớn của triết học. Ðó là: phương pháp khoa học, tương quan của tâm trí và thể
xác, và sự hiện hữu của Thượng đế.
Thế
nhưng triết học còn quan tâm tới các câu hỏi thuộc một loại rất khác. Ðó là:
Chúng ta nên làm gì? Chúng ta nên tổ chức xã hội như thế nào? "Phải"
hoặc "trái" là gì? "Ðúng" hoặc "sai" là gì?
"Tốt" hoặc "xấu" là gì? Chúng ta nên hiểu như thế nào ý tưởng
về công bình? Chúng ta dựa vào cơ sở nào để chọn lựa giữa các hành động khác
nhau? Các câu hỏi như thế dẫn tới nỗ lực nghiên cứu đạo đức học, triết học
chính trị và triết học luật pháp.
Quá
trình lịch sử.
1.
Khởi đi từ Plato. Các
khía cạnh rất thực tiễn và quá đổi cấp bách này của triết học đã có một quá
trình lịch sử rất lâu dài. Dù các triết gia tiền-Socrates thời Hi Lạp cổ đại đã
thăm dò nhiều vấn đề liên quan tới bản tính của thực tại, và dù giải đáp cho
các vấn nạn của họ vẫn rất đáng quan tâm về mặt tri thức luận và các ngành khoa
học tự nhiên, nhưng tới thời Socrates, Plato và Aristotle, triết học lại chuyển
đổi từ sự đặt trọng tâm vào thế giới chung quanh qua sự nhấn mạnh vào các chủ đề
đạo đức của con người. Thí dụ trong cuốn Republic (Cộng hòa),
Plato không đặt cơ sở trên vấn nạn "Xã hội là gì?" mà trên vấn nạn
"Công bình là gì?". Và qua vấn nạn ấy, vị triết gia Hi Lạp đã cùng độc
giả thăm dò nhiều chủ đề khác của xã hội và vấn đề quốc gia nên được cai trị
như thế nào.
2.
Sang tới Aristotle. Trong
cuốn Nicomachean Ethics (Ðạo đức học viết tặng Nicomachea),
Aristotle đặt vấn đề về "thiện hảo" mà ông xem là mục tiêu của mọi
hành động, và về vấn đề có thể thiết lập "cái thiện tối thượng" – một
cái gì đó phải được tìm kiếm vì lợi ích của tự thân nó chứ không vì lợi ích của
cái gì khác cao hơn nó.
Aristotle
đi tới quan điểm rằng đối với con người, cái thiện tối thượng, chính là "eudaimonia",
theo nghĩa đen là "có một tâm linh tốt", nhưng có lẽ có thể dịch sang
tiếng Việt là "hạnh phúc". Ông thấy nó là một trạng thái trong đó con
người thành toàn chức năng tự nhiên vốn tiềm tàng trong bản thân nó. Nó phô diễn
một "dạng thức hoàn hảo của con người" hoặc "đức hạnh : arete".
Ðiều
ấy phù hợp quan điểm tổng quát của Aristotle khi ông thấy sự vật nào cũng có
"nguyên nhân tối hậu" của nó: một cùng đích và một cứu cánh mà nó
chuyển động hướng tới đó. Thí dụ hạt bắp sẽ chuyển động thành cây bắp và trái bắp,
chứ không thành cây lúa hoặc cây cam. Nếu am hiểu nguyên nhân tối hậu của một
cái gì đó, ta sẽ tìm thấy và hiểu yếu tính nền tảng của nó, cái được sự phô bày
ngay trong mục đích của chính nó. Nếu con dao có một linh hồn, Aristotle lập luận,
linh hồn của nó hẳn là "sự cắt" – đó là cái làm cho nó thành
con dao, và đó là cái nó hiện hữu ở đó để thực hiện.
Vậy
yếu tính của loài người là gì? Loài người hiện hữu ở đời để làm gì? Mục đích của
loài người là gì?
Aristotle
nối kết đạo đức học với toàn bộ tri thức của ông về đời sống con người. Ông
không chịu chấp nhận bất cứ nguyên tắc đơn giản nào không bao gồm mọi hoàn cảnh,
đồng thời ông xem xét loài người trong tương quan với xã hội nó sống và ông thừa
nhận ảnh hưởng của xã hội lên trên động thái của con người.
Aristotle
thấy con người vừa là "sinh vật tư duy" vừa là "sinh vật chính
trị". Do đó, thật không đáng ngạc nhiên khi thấy rằng đạo đức học trở
thành bộ môn nghiên cứu sự chọn lựa hành động dựa trên lý trí và rằng nó cần phải
bao gồm cả khía cạnh xã hội lẫn khía cạnh cá nhân.
Trình
tự khảo sát. Trong chương này chúng ta sẽ nhìn, một
cách ngắn gọn, một số lối tiếp cận chính của triết học vào các chủ đề đạo đức học.
Trong chương kế tiếp, chúng ta sẽ xem xét các chủ đề liên quan tới bản tính của
xã hội và chính trị. Tuy thế, để tiện thăm dò, chúng ta sẽ tách riêng đạo đức học
và chính trị học ra làm hai.
Và
trước hết, có lẽ điều quan trọng bạn cần ghi nhớ, rằng đạo đức học không chỉ là
việc thiết lập một chuỗi các giá trị của cá nhân con người. Người ta còn có thể
khảo sát tính chất đạo đức trong liên quan tới các đòi hỏi đối với nhà nước và
vị trí của cá nhân trong xã hội. Trong đạo đức học, không thể tách biệt tính cá
nhân và tính xã hội.
"Ðang"
và "nên". Khi bạn bắt đầu nói tới đạo đức, hoặc
về cứu cánh của các vật, tức là lúc bạn tự mình thâm nhập vào các vấn đề về giá
trị cùng các vấn đề về sự việc. Ðối với triết học, câu hỏi quan trọng là:
1.
Ta có khả năng rút tỉa giá trị từ các sự việc không?
2.
Hay là, có phải các sự việc luôn luôn "trung tính"?
Ta
có thể chiết vấn nạn triết học ấy thành ba lời diễn tả như sau:
a.
Các sự việc diễn đạt cái "đang";
b.
Các giá trị diễn đạt cái "nên";
c.
Liệu chúng ta có thể rút cái "nên" ra từ cái "đang" không?
Nếu
câu trả lời cho câu hỏi mang tính triết học ấy chỉ gồm vỏn vẹn một tiếng
"không", thế thì làm thế nào chúng ta đi tới việc quyết định các chủ
đề thuộc đạo đức?
Nếu
không thể dùng các sự việc để thiết lập đạo đức thì liệu có thể có các qui tắc
đạo đức tuyệt đối không, hoặc hết thảy các quyết định đạo đức đều chỉ là tương
tối và chúng hoàn toàn tùy thuộc vào hoàn cảnh, cảm xúc và khát vọng đặc thù?
Hai
chiều khảo cứu. Về sau, cũng trong chương này, chúng ta
sẽ khảo sát cả hai chiều, trong đó các triết gia trình bày sự việc được họ xem
là thích đáng cho cái mà con người "nên" làm.
Hai
chiều ấy gồm:
1.
Một luận cứ dựa trên dự kiến và cứu cánh, theo các ý kiến của Aristotle đã được
đưa ra ở trên;
2.
Một luận cứ dựa trên các kết quả được kỳ vọng nơi hành động.
Chúng
ta cũng sẽ khảo sát các đặc điểm khác của ngôn ngữ đạo đức học: trình bày sự
tán thành hoặc ngược lại, khuyến cáo phương hướng hành động hoặc phô diễn cảm
xúc. Nhưng trước hết, nếu đạo đức học tạo được ý nghĩa nhất định, chúng ta cần
phải hỏi rằng không biết con người, trong thực tế, có được tự do quyết định điều
nó sẽ làm hay không.
Nếu
con người không có tự do và nếu con người không có chọn lựa, thế thì mọi ca ngợi
hay qui trách, tán thành hay không tán thành, đều không thích đáng. Chúng ta chỉ
có thể nói với ai đó điều gì họ nên làm nếu ít nhất bản thân họ có khả năng làm
điều đó.
II.
Tự do và thuyết tất định
Kant
lập luận rằng không gian (space), thời gian (time) và quan hệ nhân quả
(causality) đều là những hạng mục (hoặc phạm trù) được tâm trí con người dùng để
thông giải kinh nghiệm. Nếu quả đúng như thế, điều không thể tránh là chúng ta
thấy mọi sự trên thế giới này được điều kiện hóa một cách nhân quả, nghĩa là chẳng
có sự việc nào xảy ra tình cờ; mỗi cái đều đương nhiên có lý do của nó!
Mọi
sự đều bị điều kiện hóa? Vốn nằm ngay tâm điểm của
cuộc truy tầm có tính khoa học, tiến trình tìm kiếm các nguyên nhân, với mục
đích có tính luận lý của nó, bao gồm sự am hiểu thế giới một cách toàn bộ trong
đó có thể giải thích mỗi sự việc và mỗi hành động trong liên quan tới tất cả những
gì đã diễn ra trước nó. Về mặt lý thuyết, nếu được cung cấp toàn bộ sự am hiểu ấy,
thì mọi chuyện đều có thể dự báo được. Quan điểm đó phản ánh cái chúng ta có thể
gọi là thế giới quan mang bản sắc Newton, rằng vũ trụ giống như một cỗ
máy.
Chúng
ta đã thấy quan điểm đó tạo ra những vấn đề về tương quan giữa tâm trí và thể
xác. Tâm trí con người là gì? Nếu mọi sự đều bị điều kiện hóa một cách nhân quả
thì ngay cả các xung động điện năng trong não của tôi cũng là thành phần của hệ
thống máy móc đóng kín ấy. Tự do của tôi chỉ là ảo tưởng. Có thể tôi cảm thấy
chắc chắn rằng mình đã chọn lựa một cách tự do, nhưng trong thực tế, mọi sự xảy
ra cho tôi một cách tình cờ từ ngày tôi chào đời. Cũng thế, mọi sự đã và đang
làm cho thế giới hiện hữu theo cách ấy kể từ lúc bắt đầu có thời gian, nói theo
kiểu đại chúng là từ thuở "tạo thiên lập địa"; tất cả những sự ấy
cùng nhau góp phần làm thành quyết định đó.
"Tôi
biết chắc chắn rằng trước sau gì bạn cũng sẽ nói như thế". Những người
tuyên bố câu ấy rõ ràng có ngụ ý rằng các chọn lựa của chúng ta không nằm ngoài
dự báo của họ. Và họ hẳn cảm thấy cực kỳ khó chịu về việc chúng ta cứ thích
nghĩ là, một cách cơ bản, mình có tự do nhưng chẳng qua buộc lòng phải công nhận
rằng không phải lúc nào mình cũng có thể là kẻ phán quyết tốt nhất của chính
mình.
Tự
do, tất định và giản lược. Một trong những chủ đề
nền tảng của triết học là tự do (freedom) và chủ nghĩa tất định (determinism),
một thuyết cho rằng mọi biến cố, kể cả hành động của con người, đều bị quyết định
bởi các nguyên nhân được xem là nằm ngoài ý muốn hoặc ý chí. Chủ đề đó cũng
liên quan tới chủ nghĩa giảm thiểu (reductionism) nghĩa là giản lược các thực
thể phức tạp, thí dụ như con người, thành những thành phần đơn giản hơn đã và
đang hợp thành nó.
Nếu
chúng ta không hơn không kém các tế bào riêng biệt cấu thành thể xác của mỗi
người, và nếu các tế bào đó vừa bị quyết định một cách tất yếu bởi các lực vật
lý vừa có thể dự báo được, thì dường như trong toàn bộ con người chẳng có chỗ
nào để cho sự tự do của nó thao diễn!
Tạm
thời lúc này, trong khi ứng xử với đạo đức học, ta cần phân biệt rõ rệt:
1.
Nếu có tự do chọn lựa thì lúc đó chúng ta mới có thể chịu tránh nhiệm về việc
mình làm. Trong trường hợp này, mọi ca ngợi hay qui trách đều thích đáng, vì
chúng ta có thể hành động dựa trên các giá trị luôn luôn được chúng ta ấp ủ.
2.
Nếu hoàn toàn bị điều kiện hóa thì lúc đó chúng ta không thể có sự chọn lựa nào
trong những việc mình làm. Và như thế, thật vô nghĩa khi đề cập tới hành động đạo
đức phát sinh từ các chọn lựa và các giá trị, hoặc tới hành động đáng để ca ngợi
hay qui trách.
Các
mặt tất định. Bởi thế cho nên, chủ nghĩa tất định có mặt
mạnh của nó. Có những phương diện ai cũng thấy rõ ràng trước mắt rằng con người
không thể nào làm theo ý mình.
a.
Về mặt thể lý, chúng ta có những giới hạn. Nếu không có trợ cụ, tôi không thể tự
mình nhảy vọt một cái cao cả chục mét trong không khí dù tôi cảm thấy mình có
thiên hướng làm điều đó. Chuyện một đại lão sư phụ võ thuật tuổi càng già công
lực càng thâm hậu chỉ xảy ra trong loại tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung. Người
tới tuổi trung niên càng ngày càng nặng nề thì không thể tiếp tục làm vũ công
ba-lê điêu luyện nhất. Các cầu thủ bóng đá trên 35 tuổi rất ít có cơ hội được gọi
vào đội tuyển quốc gia. Ðó không phải là vấn đề chọn lựa của bạn, mà đơn giản
chỉ là thực tế thể lý.
b.
Về mặt tâm lý, chúng ta có thể bị dẫn dắt để hành động theo những cách thức nhất
định thay vì những cách thức nào khác. Nếu bạn thường rụt rè hoặc u uất, không
chắc bạn có thể có cuộc sống và linh hồn của người tham gia hoạt động đoàn
nhóm. Nhưng đó không phải là vấn đề chọn lựa mà đơn giản chỉ là vì tính khí hiện
thời của bạn.
c.
Về mặt xã hội, chúng ta có thể bị ngăn trở. Tôi có thể chọn lựa một hành động
thật sự tàn nhẫn và vô nhân đạo, nhưng đồng thời tôi cũng biết rằng tôi sẽ
không thoát khỏi hậu quả bị trừng trị theo pháp luật.
d.
Cuộc sống của chúng ta cũng bị giới hạn vì sự chế ngự của các định chế chính trị
và tài chánh. Có nhiều việc tôi không thể làm vì không có tiền. Hoặc tôi chỉ có
thể công khai bày tỏ lập trường và thái độ chính trị của mình bằng những cách
thức đang được luật pháp qui định.
Trong
khi cân nhắc các hàm ý của hành động, chúng ta cần phải thẩm định mức độ tự do
mà đương sự sở hữu đối với tác nhân trung gian.
Hai
thí dụ cụ thể. Với quân nhân, bổn phận số một là triệt
để chấp hành mệnh lệnh của cấp chỉ huy trực tiếp, đặc biệt khi ở ngoài mặt trận.
Hầu hết các đơn vị cấp tiểu tổ, tiểu đội hay trung đội khi tham gia những cuộc
hành quân di động và dài ngày đều gặp vấn đề nan giải trong việc xử lý vài ba
hàng binh lẻ tẻ của đối phương hoặc thường dân nào đó bất chợt bắt gặp họ và vì
thế, có khả năng làm lộ các vị trí bố phòng.
Nếu
một người lính tuân lệnh trên mà bắn bỏ hàng binh hoặc thường dân không vũ
trang ấy, anh ta có được xá miễn trách nhiệm đạo đức không? Ðối với việc thực
thi hành động ấy, anh ta có được tự do chọn lựa không? Có phải chính sự sợ hãi
rằng mình có thể bị cấp chỉ huy bắn bỏ tại chỗ hoặc bị xử tử khi ra tòa án binh
vì bất tuân thượng lệnh trên chiến trường, đã quyết định anh ta phải nhắm mắt
tuân hành mệnh lệnh?
Nếu
một can phạm bị mắc bệnh tâm thần trong khi phạm một tội ác nhất định, hoặc nếu
có bằng chứng y khoa, một phúc trình tâm bệnh chẳng hạn, cho thấy rằng vào lúc
phạm pháp, thần kinh của anh ta bị rối loạn, thì sự kiện ấy sẽ được lưu tâm tới
khi phân tích các yếu tố qui thành mức độ trách nhiệm của anh ta.
Nhưng
làm thế nào có thể mô tả trí óc của nhiều can phạm là minh mẫn và tương đối
quân bình khi họ phạm pháp? Có những can phạm trí óc không quân bình nhưng tại
sao lại phạm pháp một cách quỉ quyệt, theo đúng các kế hoạch tinh vi do y nghĩ
ra? Có bao nhiêu can phạm không được xem là ở trong một loại tình huống giảm
khinh nào đó khi cứu xét bối cảnh gia đình, trình độ học vấn và sự mất mát những
cái khác trong đoạn đời trước đó của đương sự?
Ðiều
kiện hóa và tất định. Qua những luận giải ở các đoạn trên
và các thí dụ vừa kể, chúng ta thấy mình bị điều kiện hóa bởi nhiều thành tố.
Ðiều đó rõ ràng nhưng có sự khác nhau giữa chủ nghĩa tất định và trạng thái điều
kiện hóa (the prevailing condition).
Vì
chủ nghĩa tất định không chừa chỗ nào hoặc cơ hội nào cho tự do và sự chọn lựa
của con người, nên cũng chẳng còn chỗ cho ta bàn cãi. Trái lại, đối với trạng
thái điều kiện hóa, nhiều người lập luận rằng tuy trong đó các điều kiện đang
chiếm ưu thế nhưng nó vẫn còn có một mức độ tự do nào đó dành cho hành động của
con người.
Các
bối cảnh xem xét. Khi nghiên cứu các chủ đề trong triết
học, chúng ta để ý thấy có nhiều chủ đề liên quan nhau. Riêng hai chủ đề tự do
và chủ nghĩa tất định, ta có thể xem xét chúng trong bốn bối cảnh dưới đây:
1.
Cách chúng ta dùng để am hiểu thế giới. Có thể chúng ta đã chọn sẵn theo cách của
Kant với ý tưởng rằng chúng ta áp đặt quan hệ nhân quả lên trên những gì chúng
ta trải nghiệm, theo đó hết thảy các hiện tượng đều bị điều kiện hóa.
2.
Trong sự hiện hữu của Thượng đế. Bối cảnh ấy có thể được hình thành từ lời đáp
cho hai câu hỏi. Một là có thể có số lượng vô tận các nguyên nhân không? Hai là
nếu Thượng đế biết trước mọi điều tôi làm, lúc đó tôi vẫn được tự do và chịu
trách nhiệm, hay phải chăng kẻ chịu trách nhiệm chính là ngài?
3.
Cách hình thành các định luật khoa học. Chúng được đề ra dựa trên quan sát và
kiểm chứng, thế thì chúng có thể tuyên bố chân lý tuyệt đối không? Và như thế,
chúng ta có thể chắc chắn, một cách cố định, rằng có cái gì đó đã và đang gây
ra hoặc tác động lên cái khác?
4.
Vấn đề có hay không có một bản ngã – cái tôi, cái ngã (the self) – ở bên trên
các nguyên tử và các tế bào làm thành thể xác. Nếu có cái đó, bản ngã ấy có sự
sống độc lập với sự sống được quyết định bởi các tế bào riêng biệt nhau không?
Vai
trò của chọn lựa đạo đức. Có một điều quan trọng
bạn cần ghi nhớ là sự chọn lựa đạo đức tự nó có thể chịu ảnh hưởng bởi thế giới
quan của bạn, bởi ý tưởng của bạn về Thượng đế. Ðồng thời còn bởi nhân sinh
quan của bạn, trong đó có vấn đề cho rằng con người hoàn toàn bị các định luật
khoa học quyết định, hay ngoài những cái đó ra, con người còn có "bản
ngã".
Mọi
sự bạn đang là, mọi cái bạn đang tin, mọi điều bạn đang hiểu về thế giới, hết
thảy đều ở đó, ngay trong giây phút bạn đưa ra sự chọn lựa này nọ về mặt đạo đức
– dẫu cho bản thân bạn không nhất thiết phải tỉnh táo hoặc đầy đủ ý thức, mọi
thứ ấy vẫn có mặt ở đó, và chúng đang ra sức gây ảnh hưởng lên sự chọn lựa của
bạn.
Tuy
thế, không phải các triết gia đều trình bày chủ đề tự do, thuyết tất định và
quan hệ nhân quả cùng sự chọn lựa đạo đức theo cách vừa được đề cập. Có những
người chọn cách khác. Và trong số đó nổi tiếng nhất trong tư tưởng Tây phương
là Spinoza.
Spinoza
lập luận rằng trong thực tế, tự do là ảo tưởng. Sở dĩ nó là ảo tưởng vì chúng
ta không thể nào biết hết mọi nguyên nhân gây nên hành động của mình. Các sự vật
xảy ra cho chúng ta sản sinh trong ta những cảm xúc tiêu cực hoặc tích cực. Cảm
xúc tiêu cực – thí dụ oán hận, giận dữ hoặc sợ hãi – đưa con người vào vòng
ràng buộc; ngược lại cảm xúc tích cực – phát sinh từ sự am hiểu các hoàn cảnh
thật sự của mỗi người – dẫn tới một nhân sinh quan tích cực và khả năng được là
chính mình.
Spinoza
cho rằng chúng ta càng am hiểu thế giới thì các cảm xúc tiêu cực càng giảm bớt
và được thay vào đó bằng cảm xúc tích cực. Có lẽ ta có thể phát biểu về vấn đề ấy
như thế này, rằng tự do là khả năng nhìn cuộc đời đúng như nó là nó và nói
"vâng" với nó. Và đó hẳn là cái tự do duy nhất được triết gia ấy chấp
nhận.
III.
Các loại ngôn ngữ đạo đức học
Bạn
có ý nói gì khi bảo một điều nào đó là "thiện" (good), một việc nào
đó là "tốt" hoặc một hành động nào đó là "phải" (right)? Phải
chăng các tiếng ấy được dùng để mô tả phẩm tính tiềm ẩn trong một hành động, một
sự việc; nó vượt quá và ở bên trên những gì có thể quan sát? Vậy lời mô tả phẩm
tính ấy đúng hoặc sai? Có loại bằng cớ nào dùng để chứng minh rằng nó đúng hoặc
nó sai?
Thế
nhưng, đối với sự vật, các từ ngữ dùng để chỉ phẩm tính của chúng thì lại khác.
Tôi có thể làm cho bạn hiểu tôi có ý nói gì khi dùng tiếng "đỏ" bằng
cách đưa tay chỉ tới một loạt các vật có màu đỏ, hoặc tôi tin vào khả năng phân
biệt màu sắc của bạn khi nhìn thấy chúng. Liệu tôi có thể làm y như thế bằng
cách đưa tay chỉ tới một loạt các hành động được tôi đánh giá là "thiện",
là "phải" hoặc "tốt" hoặc "đúng" về mặt đạo đức.
Tôi
có thể đan cử vài thí dụ như sau:
1.
Hành động giao hợp của đôi vợ chồng;
2.
Hành động giúp người già cả băng qua đường của một thanh niên;
3.
Hành động trả tiền hàng hóa vừa lựa chọn trong cửa hàng, thay vì ăn cắp.
Nếu
chỉ xem xét lời mô tả dựa trên sự việc hoặc có tính sự kiện của từng hành động,
chúng ta thấy chúng có điểm chung nào không? Phẩm tính nào của các hành động ấy
biến chúng thành có tính "đạo đức"? Và nếu ngôn ngữ mang tính đạo đức
học không giống với sự mô tả có tính vật lý, thế thì nó là gì, và làm thế nào
chứng minh nó đúng hoặc sai?
Ở
đây, từ ngữ đạo đức được dùng để nói đến tính cách hơn là có chủ ý thẩm định;
nó nhấn mạnh tới khía cạnh mang tính đạo đức học của một hành động, một sự việc
hay một biến cố. Khác với ngôn ngữ bình thường của người Việt vốn dùng hai tiếng
đạo đức với hàm ý đức hạnh và có ngụ ý khen chê: thí dụ, "gã trọc phú ấy
là người không có đạo đức", và "lối sống đạo đức" hay
"gương mẫu đạo đức" hoặc "như thế là vô đạo đức".
Ðạo
đức học mô tả. Ðạo đức học mô tả (descriptive ethics)
là hình thức rành mạch nhất của ngôn ngữ đạo đức học. Nó chỉ vỏn vẹn mô tả cái
xảy ra: những chọn lựa đạo đức nào được quyết định, và trong những hoàn cảnh đặc
thù nào.
Có
thể nêu thí dụ về vấn đề phá thai. Thay vì đưa lời phát biểu về cái "phải"
và cái "trái" của phá thai, đạo đức học mô tả chỉ cung cấp các sự kiện,
các con số có bao nhiêu vụ phá thai đã xảy ra trong một khoảng thời gian nhất định,
chúng đã được tiến hành như thế nào và luật pháp đã đặt ra những qui định nào
nhằm ràng buộc việc phá thai trên thực tiễn, v.v.
Như
thế, đạo đức học mô tả liên quan tới "đang" chứ không liên
quan tới "nên".
Ðạo
đức học định chuẩn. Ðạo đức học có tính định chuẩn
(normative ethics), hoặc chuẩn mực hóa hay tiêu chí hóa, ứng xử với các định
chuẩn của một hành động. Nó liên quan tới một hành động được đánh giá là
"tốt" hoặc "xấu", "phải" hoặc "trái".
Nó trình bày các giá trị và lập thành lời phán quyết đạo đức dựa trên chứng cớ.
Nó có thể liên quan tới các sự việc nhưng nó không bị chúng xác định một cách
toàn bộ.
Như
thế, đạo đức học định chuẩn liên quan tới cái "nên"; nó lập thành lời
phán quyết.
Siêu
đạo đức học. Khi triết học khảo sát những lời tuyên bố
được đưa ra theo đạo đức học định chuẩn, lập tức dậy lên một số câu hỏi như
sau;
1.
Có ngụ ý gì khi nói điều gì đó là "phải" hoặc "trái"?
2.
Có thể bảo những tuyên bố đạo đức là "đúng" hoặc "sai"
không?
3.
Có phải những tuyên bố đạo đức không chỉ là phô diễn sở thích của người đưa ra
chúng?
4.
Những thuật ngữ dùng trong đàm luận đạo đức học có ý nghĩa gì?
Tự
thân những câu hỏi vừa nêu ấy không là những phát biểu đạo đức; chúng không cho
biết một điều cá biệt nào là phải hoặc trái.
Siêu
đạo đức học (meta-ethics) là một ngành của triết học. Cái được nó ứng xử với lời
phát biểu có tính đạo đức học định chuẩn thì y hệt cái được triết học ứng xử với
ngôn ngữ nói chung. Nó khảo sát ngôn ngữ đạo đức học để tìm cho ra ngôn ngữ ấy
có ngụ ý gì và được sử dụng như thế nào.
Siêu
đạo đức học tạo ra các lý thuyết về bản tính của ngôn ngữ đạo đức học.
Thuyết
duy trực giác. Thuyết duy trực giác (intuitionism) cho
rằng có những cái con người chỉ có thể biết được nhờ trực giác.
Trong
cuốn sách của mình có nhan đề Principia Ethica (Nguyên lý đạo
đức học, 1903), triết gia George E. Moore (1873-1958), giáo sư Ðại học
Cambridge, Anh, lập luận rằng không thể định nghĩa từ ngữ "thiện" hoặc
"tốt" và rằng các nỗ lực làm điều đó đều kết liễu trong sự giảm thiểu
"thiện" thành một phẩm tính nào đó khác, không cùng chung với mọi cái
"thiện".
Nói
cách khác, thiện có thể liên quan tới tử tế, vị tha, quảng đại, cảm giác về
công bình xã hội – nhưng nó không thật sự được định nghĩa bởi bất cứ cái nào
trong những cái đó. Vì thế, Moore cho rằng:
"Trong
thực tế, mọi người đều hiểu câu hỏi ‘Thiện là gì?’ Khi một người nghĩ tới nó,
trạng thái tâm trí của y khác với cái hẳn đang là, nếu y hỏi rằng ‘Ðiều này có
thú vị, đáng mong muốn, đáng tán thành không?’ Ðối với y, nó có ý nghĩa riêng
biệt, dù y chẳng thể nào nhận biết nó riêng biệt ở khía cạnh nào."
Principia
Ethica, chương 1
Moore nối
kết nhận xét ấy của ông với việc diễn tả màu vàng. Theo ông, cuối cùng bạn chỉ
còn một cách duy nhất là đưa ngón tay trỏ lên, chỉ tới các vật ấy và nói rằng
chúng nó có màu vàng đấy, vì bạn không có khả năng định nghĩa màu vàng là gì.
Do bởi trực giác mà bạn biết màu vàng là gì; cũng một cách như thế mà bạn biết
được thiện là gì dù bạn không thể định nghĩa nó.
Thuyết
duy xúc động. Thuyết duy xúc động (emotivism) nhấn mạnh
vào sự biểu lộ hoặc gây nên cảm xúc. Theo thuyết này, khi ta nói điều gì đó là
tốt hay xấu, thật ra đó chỉ là cách phát biểu cho thấy ta tán thành hay không
tán thành nó.
Trong
chương 2, như chúng ta đã biết, vào đầu thế kỷ 20 vừa qua, có phát triển một lối
tiếp cận ngôn ngữ được gọi là thuyết duy thực chứng luận lý (logical
positivism). Theo thuyết ấy, một phát biểu chỉ được xem là có ý nghĩa nếu hoặc
nó tương ứng với các dữ liệu có thể xét nghiệm hoặc nó đúng do bởi định nghĩa.
Trên căn bản ấy, những phát biểu đạo đức được đánh giá là vô nghĩa.
Phản
ứng lại lập trường ấy là lời tuyên bố rằng những phát biểu đạo đức không là những
phát biểu về sự kiện mà là đang thể hiện một chức năng nào đó khác. Thuyết duy
xúc động cung cấp chức năng ấy. Thuyết ấy cho rằng phát biểu đạo đức không đúng
hay sai do bởi ngụ ý tới cái được nó diễn tả nhưng liên quan tới khả năng phô
diễn các cảm xúc của người phát biểu.
Thuyết
duy qui định. Thuyết duy qui định (prescriptivism) là
một phản ứng khác đối với thách đố của thuyết duy thực chứng luận lý.
Thuyết
này tuyên bố rằng ngôn ngữ đạo đức thật ra khuyên bảo một đường hướng hành động.
Nếu tôi nói rằng điều gì đó là tốt, nghĩa là tôi thật sự có ý nói rằng tôi cảm
thấy nên thực hiện nó – nói cách khác, tôi có ý khuyên bảo bạn nên làm như thế.
Thuyết
duy tự nhiên và đạo đức học siêu hình. Thuyết duy tự
nhiên (naturialism) nhấn mạnh bản tính tự nhiên như một định hướng cho mọi hành
động; đôi khi hành động ấy có tính bản năng.
Như
ta đã thấy các lập luận của George Moore, rằng bạn không thể nào rút cái
"nên" ra từ cái "đang", và rằng bạn không thể nào rút đạo đức
ra từ các sự việc thuộc về động thái của con người. Như vậy, ông đưa ra sự phân
biệt tuyệt đối giữa sự kiện và giá trị.
Tuy
thế, kể từ Plato và Aristotle trở đi, có nhiều triết gia lập luận rằng nên rút
tỉa các nguyên tắc đạo đức và giá trị đạo đức từ sự khảo sát loài người, xã hội
của nó và vị trí của nó trong thế giới như một toàn bộ. Công tác này được gọi
là "thuyết duy tự nhiên" (naturalism), hoặc đạo đức học mang tính
siêu hình học (metaphysical ethics). Nó hàm ý rằng cái bạn "nên" thì
quan hệ mật thiết với cái bạn "đang", nếu không muốn nói là nó không
thể không phát xuất từ cái "đang"; còn cái "đang" là cái
trong thực tế chính là trường hợp liên quan tới "cái tôi đặc thù" của
bạn và "thế giới phổ quát" chung quanh bạn.
Nói
cách khác, đạo đức không chỉ để phô bày sự chọn lựa của cá nhân mỗi người mà
còn nên bắt rễ trong sự am hiểu tổng thể về thế giới như một toàn bộ.
Tạm
thời đúc kết. Ta có thể tóm tắt những lý thuyết đạo đức
học vừa được trình bày ở phần trên bằng các điểm như sau:
a.
Nếu bạn mô tả một hành động hay một quyết định của người nào đó, mức độ trung
thực trong lời bạn phát biểu sẽ được đánh giá bằng cách kiểm tra các sự việc;
b.
Nếu bạn cho rằng điều gì đó là "phải" hoặc "trái", thì
không có sự việc đành rành hoặc đơn giản nào để có thể kiểm tra, xác minh lời
tuyên bố của bạn;
c.
Vì thế, siêu đạo đức học nhìn vào các lời tuyên bố đạo đức và đặt câu hỏi về ý
nghĩa của chúng, xem chúng có khả năng đúng hay sai, và tùy vào kết quả để khảo
sát cách có thể thiết lập chân lý tương ứng. Nếu đạo đức học không liên quan tới
các sự kiện ngoại tại, nó có thể liên quan tới trực giác hoặc các phản ứng xúc
động, hoặc các lời khuyên bảo, hoặc các cơ chế tổng quát của cuộc sống và những
hàm ý của chúng đối với hành động của cá nhân.
Tóm
lại, các lý thuyết đề cập ở đây đều được triển khai trong tranh luận triết học
về bản tính của ngôn ngữ nói chung và vai trò của ngôn ngữ đạo đức nói riêng.
Nhưng dù ngôn ngữ được nó sử dụng có vai trò nào đi nữa, trong thực tế, người
ta vẫn tiếp tục lập thành những lời tuyên bố đạo đức. Vì thế, điều quan trọng
là phải khảo sát những nền móng trên đó các lời tuyên bố ấy được lập thành.
IV.
Ba cơ sở của đạo đức học
Nếu
ngôn ngữ đạo đức dùng để phô diễn cảm xúc hoặc sở thích mà thôi, thì dường như
nó chẳng cần phải chứng minh điều gì vì nó chỉ đơn thuần hàm chứa những xúc động
tại chỗ và nhất thời. Tuy thế, nếu muốn dùng lập luận để biện minh cho một lập
trường đạo đức, bạn phải tìm cho ra một nền tảng hợp lý cho đạo đức học.
Trong
lịch sử triết học, người ta đã đưa ra ba cơ sở chính: luật tự nhiên (natural
law); chủ nghĩa duy thực lợi (utilitarianism) và mệnh lệnh vô điều kiện
(categorical imperative).
1.
Luật tự nhiên: Luật tự nhiên
(natural law) có nghĩa là có những nguyên tắc đạo đức bất biến, chung cho hết
thảy loài người, vì đức hạnh là cái thuộc về bản tính tự nhiên của con người.
Nói cách khác, nó là qui tắc hạnh kiểm được xem là đặt cơ sở trên sự hợp lý vốn
cố hữu trong mọi sự. Nó khác với định luật của thiên nhiên (laws of nature), vốn
được lập thành do bởi quan sát và xét nghiệm mối tương quan của các hiện tượng
tự nhiên.
Trong
quyển 1 của Nicomachean Ethics, Aristotle viết rằng:
"Mọi
nghệ thuật và mọi thẩm tra, và cũng thế, mọi hành động và mọi truy tầm, đều được
quan niệm là cùng nhắm tới một cái thiện nào đó; và vì lý do ấy, cái thiện đã
và đang được tuyên bố một cách đúng đắn chính là cái mà hết thảy mọi cái nhắm tới."
trang
1094a
Aristotle
triển khai quan điểm ấy thành ý tưởng về cái thiện tuyệt đối cho loài người: đó
là hạnh phúc (eudaimona). Nếu bạn đồng ý với Aristotle rằng vạn vật có nguyên
nhân tối hậu hoặc cứu cánh, nghĩa là "cái thiện", mà vì đó vạn vật hiện
hữu, hoặc nếu bạn chấp nhận ý kiến của Aristotle rằng các "dạng thức",
đặc biệt dạng thức của cái thiện, có một thực tại thường trực và bất biến, độc
lập với tâm trí và nhận thức của chúng ta, thế thì chắc chắn con người, bằng
phương cách khách quan và độc lập, có khả năng xác định cái nào là "tốt"
và điều nào là "xấu", hành động nào là "phải" và cử chỉ nào
là "trái".
Luật
tự nhiên là một lối tiếp cận vào đạo đức học với lời tuyên bố rằng cái gì đó được
cho là "phải" nếu nó thành toàn cứu cánh chân chính của nó trong cuộc
đời, và bị cho là "trái" nếu nó đi ngược lại cứu cánh ấy.
Thí
dụ về quan hệ tính dục. Dựa trên ý tưởng về cứu
cánh tự nhiên vốn cố hữu trong mọi sự, luật tự nhiên dường như thích đáng một
cách đặc thù trong việc ứng xử với các chủ đề tính dục. Vì rõ ràng rằng sinh hoạt
tính dục có cứu cánh tự nhiên và thiết yếu cho sự sống. Nói theo ngôn ngữ của
luật tự nhiên thì:
a.
Chức năng "có tính tự nhiên" của tính dục là tái sản xuất nòi giống;
b.
Sinh hoạt tính dục phi tái sản xuất là "trái với tự nhiên", do đó, nó
"trái" về mặt đạo đức, hoặc ít nhất là sử dụng sai chức năng tự nhiên
của tính dục. Như thế, phát xuất từ quan điểm này, các hành động như thủ dâm,
ngừa thai và đồng tính luyến ái đều đáng bị chỉ trích. Vợ chồng "ăn nằm"
với nhau là để sinh con đẻ cái chứ không phải vì thú vui nhục cảm.
Thí
dụ về phá thai và trợ tử. Mọi sinh vật đều tìm
cách bảo tồn sự sống của chính nó, đó là điều rất tự nhiên tới độ không ai dám
tranh cãi. Nếu mỗi vật đều có một cứu cánh tự nhiên để nó hoàn thành, thì hành
động phá thai và trợ tử đều có thể bị xem là "trái", vì nó đi ngược lại
cuộc thao diễn cam go và tự nhiên của sự sống.
a.
Trừ phi xảy ra điều gì đó trục trặc không thể tránh khiến cho bị sẩy thai, một
phôi thai vừa thụ tinh sẽ, một cách tự nhiên, tăng trưởng thành một con người mới
mẻ và độc lập. "Nguyên nhân tối hậu"’ của phôi thai, theo chữ dùng của
Aristotle, là một người lớn mà tới ngày nào đó nó sẽ trở thành. Do đó, thật là
"trái" khi có người nào đó cố tình làm hỏng diễn tiến tự nhiên ấy bằng
cách phá thai. Trên cơ sở của luật tự nhiên, cho dù người ta không muốn có đứa
bé ấy hoặc cuộc đời của nó không có khả năng hưởng hạnh phúc, thì cũng thật
"trái" khi tìm cách phá thai.
b.
Khi một thể xác không còn chịu đựng nổi gánh nặng bệnh hoạn thì nó chết. Thúc đẩy
cho cái chết xảy tới sớm hơn tức là làm hỏng xu hướng tự nhiên đối với sự tự bảo
tồn. Kết quả của hành vi trợ tử có thể làm gánh nặng khổ đau trở nên nhẹ nhàng
hơn nhưng nó vẫn phải bị xem là "trái" trong tự thân nó, cho dù người
đưa ra quyết định mang tính đạo đức ấy có tình cảm rất thắm thiết với đương sự.
Luật
tự nhiên và tôn giáo. Lối tiếp cận của luật tự nhiên vào
đạo đức học có đặc điểm đáng chú ý là nó liên quan tới triết học tôn giáo. Nó dựa
trên cơ sở rằng thế giới có cứu cánh tính và rằng lý trí con người có khả năng
am hiểu cứu cánh của bất cứ thành phần nào trong thế giới. Có thể xem nó như
khía cạnh đạo đức học của luận cứ truyền thống rút ra từ sự thiết kế hay dự kiến
(xem chương 6, phần luận cứ mang tính cứu cánh luận).
Luật
tự nhiên không giống với việc xem cái gì đó xuất hiện là phản ứng tự nhiên trước
một tình huống nhất định; nó tự nhiên theo ý nghĩa rằng nó phản ánh bản tính được
loài người chung chia với phần còn lại của chúng sinh trong vương quốc của mọi
sinh linh. Nói rõ hơn, nó là bản tính tự nhiên được con người thấy bằng con mắt
lý trí. Và quả thật, đối với hầu hết những kẻ muốn sử dụng luận cứ mang tính luật
tự nhiên, nó cũng nhuốm màu sắc tôn giáo trong đó thế giới được nhìn như một
sáng tạo phẩm của Thượng đế và có cứu cánh tính của nó.
Ngoại
tình là chuyện tự nhiên? Trong một bài báo bàn về
vấn đề ngoại tình có nhan đề là "We have descended from apes but
we don’t have behave like them" (Chúng ta từ lũ vượn mà ra nhưng
chúng ta không cư xử giống như chúng), Anne Applebaum chống lại một lý thuyết
thời thượng vốn cho rằng ngoại tình là điều tự nhiên.
Bà
lập luận rằng dù con người "xấu" về mặt bản năng, nó vẫn có khả năng
kiềm chế các hành động của nó. Cách riêng, bà chống lại ý tưởng cho rằng ngoại
tình đơn giản chỉ là phô diễn tự nhiên sự thôi thúc có tính di truyền nhằm tái
sản xuất theo phương cách ưa thích nhất có thể được, và rằng vì thế, một cách tự
nhiên, đàn ông bị cuốn hút vào một số phụ nữ khác.
Applebaum
trình bày một phần luận cứ của bà như sau: "Tình trạng
gần như chấp nhận ‘lý thuyết Freud giảm thiểu’ đã cho phép bồi thẩm đoàn chấp
nhận rằng những tên giết người bị ‘mất trí nhất thời’; rồi chẳng bao lâu nữa
‘lý thuyết Darwin giảm thiểu’ cũng có thể cho phép họ chấp nhận rằng những tên
cưỡng dâm bị ‘ám ảnh nhất thời bởi nhu cầu di truyền để tái sản xuất’. Nhưng nằm
nagy ở tâm điểm của mọi lời giải thích mới mẻ ấy về động thái của con người là
một vấn đề có tính nền tảng rằng trong khi đọc các giải thích ấy, ta không thể
nào không cảm thấy cái vòng bánh xe xưa cũ đang được tái khám phá.
"Nói
rằng ‘Chúng ta đều là kẻ ngoại tình di truyền’ tức là tái hiện một cách sâu sắc
và đầy ấn tượng một quan điểm nghiêm ngặt tương tự như thế của Kitô giáo về bản
tính con người, được phản ánh trong câu ‘Chúng ta đều là kẻ tội lỗi’... Nhưng
giữa hai thế giới, một do các nhà tân Darwin mô tả và một do các tôn
giáo lớn mô tả có sự khác biệt. Ðó là cái sau tin rằng sự hiện hữu của giáo luật
và những thực hành tôn giáo được hướng dẫn bởi danh xưng của đạo đức đang kiểm
soát các ‘bản năng tự nhiên’ của chúng ta".
Anne
Applebaum, The Daily Telegraph, 29 tháng Tám, 1994 – trang 17
Suy
tưởng về luật tự nhiên. Từ những quan điểm thuần
lý thuyết và các luận cứ dựa vào thực tế kể trên, ta có thể suy ngẫm về một số
câu hỏi:
1.
Có cái gì đó có khả năng hợp tự nhiên nhưng nó lại là "trái" không?
2.
Có phải động thái tự kiềm chế luôn luôn là trái với tự nhiên?
3.
Có phải hành động có tính di truyền trong việc củng cố giống nòi, mà giả dụ là
đúng, có thể được hỗ trợ bằng việc cho phép sinh vật dũng mãnh nhất được gây giống
một cách tự nhiên với sinh vật xinh đẹp nhất, và tự nó là cái "thiện"
tối hậu đang được chúng ta tìm kiếm không?
Tới
đây, ta có thể nhắc lại những điều đã trình bày bằng một cách khác, rằng:
a.
Luật tự nhiên không giống với định luật của thiên nhiên;
b.
"Luật tự nhiên" là sự cân nhắc có lý tính cứu cánh tối hậu của mọi sự
trong tự nhiên, và sự hình thành hành động có ý thức nhằm làm cho nó phù hợp với
cứu cánh ấy.
Luật
tự nhiên trong y học. Trong đạo đức học y khoa có nhiều vấn
đề liên quan tới "luật tự nhiên".
Hai
vợ chồng nọ kết hôn đã rất nhiều năm nhưng không có con. Xét nghiệm y khoa cho
thấy một trong hai người cằn cỗi "một cách tự nhiên". Y khoa cũng có
thể cung cấp cho họ dịch vụ "trái tự nhiên" bằng phương pháp thụ tinh
trong ống nghiệm hoặc một phương pháp trị liệu nào khác để họ có con. Và thật
"rất tự nhiên" khi họ muốn sự việc tiến hành theo một trong hai cách
đó.
Thế
nhưng, bản tính tự nhiên và cứu cánh của các phương pháp trị liệu ấy liên quan
tới cái gì? Theo luật tự nhiên, có nên chấp nhận quyết định của hai vợ chồng ấy
không, với ý nghĩa rằng họ chỉ muốn thực hiện dễ dàng "cứu cánh tối hậu"
của việc kết hôn là để sinh con đẻ cái?
Còn
nữa, việc đó có đi ngược lại chủ nghĩa tự nhiên máy móc (natural mechanism) vốn
cho rằng một số cặp vợ chồng cằn cỗi là chuyện tự nhiên của đất trời nhằm giới
hạn dân số? Thêm nữa, trạng thái cằn cỗi của họ là "tự nhiên", còn việc
cung cấp cho họ một quá trình nhân tạo cho dù thụ thai hay trị liệu phải chăng
cũng là đi ngược lại cứu cánh tự nhiên tiềm ẩn trong sự cằn cỗi của họ?
Nếu
cứ thế mà đặt vấn đề rồi lập luận và nếu những biện pháp kể trên bị cáo giác là
"chống lại tự nhiên" thì nói chung, chúng ta còn gì để nói nữa về y
khoa? Khi bị nhiễm trùng, điều tự nhiên là người ta lăn ra chết, còn việc cứu sống
họ bằng thuốc kháng sinh là phản tự nhiên!
Nhưng
nếu luật tự nhiên tìm kiếm sự thành toàn cứu cánh của mỗi người, thì việc người
ta ngăn không để cho chết yểu hoặc tìm cách hạ tử suất của trẻ em lại không phải
là một quyết định dựa trên sự thừa nhận rằng cá nhân có thể thành tựu tốt tiềm
năng của nó bằng cách giúp cho nó có cơ hội tiếp tục sống sao?
2.
Chủ nghĩa duy thực lợi: Chủ
nghĩ duy thực lợi (utilitarianism) là một lý thuyết đạo đức được liên kết đặc
biệt với tên tuổi của Jeremy Bentham (1748-1832), triết gia, luật sư và nhà cải
cách xã hội người Anh. Ông là người có mối liên hệ đặc thù với các chủ đề thực
tiễn như cải cách chế độ lao tù, giáo dục và tính liêm chính của các định chế
công quyền.
Các
chủ trương của Bentham được triển khai sâu xa thêm bởi John Stuart Mill
(1806-1873), nhà vận động cho sự tự do cá nhân và các quyền của phụ nữ. Tuy thế,
có thể tìm thấy những gốc rễ sớm sủa của thuyết ấy trong các ý tưởng căn bản của
chủ nghĩa khoái lạc vốn có từ thời cổ đại.
Sống
đời khoan khoái. Chủ nghĩa khoái lạc (hedonism) là
thuật ngữ dùng để gọi một triết thuyết xem việc thành tựu hạnh phúc là mục tiêu
ưu tiên trong cuộc sống. Nhà hiền triết Epicurus (k.341-270) giảng dạy tại
thành quốc Athens (Hi Lạp) vào cuối thế kỷ thứ tư trước C.N. Ông theo quan điểm
thuyết nguyên tử (atomism) về thế giới, chủ trương rằng vạn vật được hợp thành
bởi các nguyên tử không thể phân chia. Trong khi cho rằng thần linh chỉ ảnh hưởng
nhỏ nhoi lên cuộc sống, ông xem, một cách tổng quát, cứu cánh chính của cuộc sống
là sở đắc khoái lạc.
Epicurus
quả quyết rằng so với khoái lạc vốn dài lâu thì đau đớn chỉ tồn tại trong một
lúc ngắn ngủi, cái chết chẳng là gì cả mà chỉ là sự phân tán các nguyên tử đã hợp
thành con người chúng ta, và chẳng có kiếp sau nào cho ta phải vừa sống vừa sợ
hãi. Do đó, ông cho rằng người khôn ngoan nên sống một cuộc đời sảng khoái, chẳng
chút băn khoăn lo lắng. Và nếu đạo đức có một cứu cánh thì đó là tối đa hóa số
lượng khoái lạc mà cuộc đời có thể cống hiến.
Phác
thảo sơ sài như trên chưa phản ánh trung thực lý thuyết của Epicurus và không đối
xử công bằng với sự kiện vị triết gia ấy vì ông rất phân biệt khoái lạc tinh thần
với khoái lạc vật dục. Và chắc chắn Epicurus không phải là kẻ tôn thờ
"khoái lạc chủ nghĩa" hiểu theo kiểu nói có hàm ý nhục cảm của đại
chúng. Tuy thế, ông đã thiết lập sự tối đa hóa hạnh phúc như cứu cánh số một của
đạo đức.
Thiện
nhất là có lợi cho nhiều người nhất. Lập trường của
Epicurus trở thành cơ sở cho các lý thuyết duy thực lợi trong đạo đức học: rằng
điều "phải" cần được thực hiện trong bất cứ cơ hội nào là nhắm tới việc
cung cấp hạnh phúc tối đa cho hết thảy những ai can dự. Có thể tóm gọn các ý tưởng
ấy trong công thức: "Cái thiện cao cả nhất là cái phục vụ số lượng lớn lao
nhất", nghĩa là làm cho nhiều người trong xã hội hưởng lợi nhất.
Bentham
cũng đưa ra quan điểm rằng khi thẩm định một công cuộc "tốt" hay
"xấu", ta phải tính tới hết thảy mọi người một cách bình đẳng, và đó
là quan điểm cấp tiến nhất so với thời đại dành ưu tiên cho giới "thượng
lưu quí tộc" thuở đó. Vì thế, chủ nghĩa duy thực lợi là lý thuyết đặt cơ sở
trên các kết quả kỳ vọng vào một hành động nhất định, thay vì trên bất cứ ý nghĩa
"phải" hoặc "trái" nào cố hữu trong hành động ấy.
Ðây
là quan điểm đạo đức học triệt để đi theo lẽ thường hoặc cảm quan chung
(commonsense); việc làm điều "phải" thường được liên kết với việc làm
điều tạo phúc lợi cho đa số quần chúng. Tuy thế, xét từ quan điểm triết học, tự
thân quan điểm ấy vướng mắc một số vấn đề nhất định.
1.
Bạn không bao giờ có thể biết một cách chắc chắn hết thảy các hiệu ứng do hành
động của mình gây ra. Ðan cử một thí dụ thô thiển. Bạn có thể cứu mạng một đứa
trẻ đang chết đuối mà về sau, khi lớn lên nó sẽ trở thành một gã sát nhân tập
thể. Trong thực hành, luôn luôn phải có điểm dừng mà ở quá bên kia điểm đó, ta
không thể nào tính toán hết các hậu quả về mặt thực tiễn.
Cộng
thêm vào đó có sự kiện rằng thường khi chúng ta nhận ra hậu quả hành động của
mình thì đã muộn màng; trước hoặc trong khi hành động, chúng ta đã kỳ vọng điều
gì đó hoàn toàn khác! Như thế, dù thuyết duy thực lợi có vẻ cống hiến một
phương cách đơn giản và cụ thể để thẩm định các chủ đề đạo đức, ta vẫn phải luôn
luôn xem sự thẩm định của nó chỉ là tạm thời.
2.
Ðịnh nghĩa về cái lập thành hạnh phúc có thể không khách quan. Những người khác
có thể không muốn cái mà bạn cho rằng đối với họ đó là hạnh phúc và ích lợi nhất.
Bạn ham mê luyện tập võ thuật và bạn sung sướng khi thảo luận các vấn đề tâm
linh tới độ bỏ ăn quên ngủ, nhưng không phải ai cũng muốn tới võ đường hoặc vào
thiền viện như bạn.
Luận
cứ mang tính duy thực lợi chủ nghĩa có vẻ biến việc cân nhắc kết quả thành cơ sở
cho sự chọn lựa đạo đức. Nhưng trong thực tiễn, trong khi tuyển chọn cấp độ hoặc
kiểu cách hạnh phúc để cân nhắc, con người thường biến giá trị thành các phán
quyết, và có lẽ kể cả phán quyết đạo đức.
3.
Làm thế nào bạn phán quyết giữa sự đau đớn gây ra cho một cá nhân đơn lẻ và kết
quả hạnh phúc cho những người khác? Phúc lợi cho toàn thể địa cầu này có thật sự
biện minh nổi cho hành động gây ra đau thương cho một con người vô tội và đơn lẻ
không? Và bạn hiểu thế nào khi có người chủ trương rằng tội các nằm ở bản chất
của hành động chứ không nằm ở số lượng nạn nhân của nó?
Tình
thế tiến thoái lưỡng nan. Trong thực tiễn, không
phải lúc nào con người cũng quân bình và khách quan. Cũng như không phải lúc
nào con người cũng dễ dàng chọn lựa giải pháp, đặc biệt khi lâm vào tình thế tới
lui đều khó xử (dilemma).
Một
thanh niên cường tráng, sức khỏe hoàn hảo, hồn nhiên tới thăm viếng một nhà
thương ở đó có nhiều người đang nôn nóng và khắc khoải chờ được thay thế nhiều
bộ phận lục phủ ngũ tạng khác nhau. Liệu rằng vị bác sĩ giải phẫu theo chủ
nghĩa duy thực lợi có tránh khỏi bị cám dỗ khi nhìn người trẻ tuổi hồng hào
tươi tắn ấy không?
Ðó
là một thí dụ có vẻ ngớ ngẩn, nhưng rồi có một thí dụ khác nghiêm chỉnh hơn.
Trong
khi phân phối các ngân khoản eo hẹp của nhà thương, bạn phải đưa ra các chọn lựa.
Liệu bạn có thể chi ra số tiền lớn cho một cuộc giải phẫu mà bạn không biết chắc
chắn nó có thể hay không thể cứu mạng một đứa bé đang bị bệnh rất nặng, nếu hậu
quả sự chọn lựa đó làm nhiều bệnh nhân khác đang quá suy nhược, thậm chí có lẽ
tính mạng đang lâm nguy, không còn có thể nhận được sự trợ giúp rất cần kíp cho
họ. Làm thế nào bạn thẩm định hạnh phúc tương đối của những người can dự đó?
Thêm
một thí dụ khác nữa, khó xử hơn. Một phụ nữ quanh năm đẩy
xe đạp bán rong trái cây đi với chồng là công nhân phụ hồ tới phòng mạch của bạn
để khám thai. Bạn phát hiện và nói với cả hai vợ chồng nghèo ấy rằng thai nhi
chẳng may bị lâm vào tình trạng dị dạng hoặc bị tàn tật rất nặng nhưng có khả
năng sống sót. Có phải sự đau khổ tiềm tàng của cả đứa bé lẫn cha mẹ nó, là kết
quả của sự tàn phế nghiêm trọng và bẩm sinh ấy, khiến cho sự sống sót của đứa
bé không cộng thêm được gì vào tổng số hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ trung,
tha phương cầu thực và chạy ăn từng ngày ấy? Và trong trường hợp này, ai là kẻ
có khả năng đưa ra một thẩm định khách quan?
Trong
ba thí dụ vừa kể, cái thứ hai làm phát sinh những khó khăn sâu xa hơn khi cân
nhắc. Vì việc tiến hành cuộc giải phẩu ấy ngoài chuyện cứu hay không cứu nổi đứa
bé, về mặt thực nghiệm, còn có thể mang lại phúc lợi cho các bệnh nhân khác
trong tương lai. Ðây là một luận cứ thường được dùng làm cơ sở biện minh cho
công cuộc nghiên cứu khoa học, rằng nếu không tiến hành thì sự phát triển về
lâu về dài của công nghệ mới sẽ bị chửng lại.
Các
hình thức của thuyết duy thực lợi. Ngang đây, chúng ta chỉ
mới xem xét chủ nghĩa duy thực lợi hành động (act utilitarianism) vốn lập những
phán xét đạo đức dựa trên những hậu quả khả hữu của các hành động đặc thù. Bên
cạnh đó, còn có chủ nghĩa duy thực lợi qui tắc (rule utilitarianism)
Thuyết
thứ hai này cân nhắc phúc lợi tổng thể mà xã hội sẽ đạt được nếu chấp nhận một
qui tắc đặc thù. Nói cách khác, việc vi phạm một qui tắc có thể đưa lại lợi ích
cho cá nhân đương sự, nhưng sự kiện để cho một qui tắc bị vi phạm tự nó có thể
gây nên những hậu quả tai hại cho xã hội như một toàn bộ. Ðây là một hình thức
của chủ nghĩa duy thực lợi do John Stuart Mill đề ra.
Chủ
nghĩa duy thực lợi qui tắc có hai hình thức: mạnh và yếu.
1.
Người theo thuyết duy thực lợi qui tắc mạnh lập luận rằng một điều gì đó không
bao giờ được xem là "phải" nếu nó vi phạm một qui tắc vốn có mục đích
mang lại phúc lợi cho toàn bộ xã hội.
2.
Người theo thuyết duy thực lợi qui tắc yếu lập luận rằng có thể có những trường
hợp đặc biệt cho phép vi phạm một qui tắc, thế nhưng cũng cần phải để ý và cân
nhắc tới phúc lợi tổng thể của xã hội nếu không xảy ra sự vi phạm ấy.
Chủ
nghĩa duy thực lợi sở thích (preference utilitarialism) đặt cơ sở trên việc lấy
sở thích của hết thảy những ai can dự làm định chuẩn. Nói cách khác, nền móng của
việc thẩm định cái "thiện" trong tình huống đặc thù không có tính
cách cá nhân riêng tư nhưng lưu tâm tới các quan điểm và nguyện vọng của các
đương sự can dự.
Khi
đạo và đời xung khắc. Vào tháng Mười năm 1994, chính phủ
Anh phát động phong trào chích ngừa bệnh sởi cho hết thảy trẻ em trên khắp nước.
Sự kiện ấy gây thành vấn đề đối với người Công giáo vì thuốc chủng ngừa bệnh sởi
được bào chế nguyên gốc từ các thai nhi đã chết. Các luận cứ đạo đức xoay quanh
vấn đề cho thấy rõ một tình thế xung khắc giữa "luật tự nhiên" và những
mối quan tâm có tính duy thực lợi chủ nghĩa.
Ðầu
tiên, hai trường học Công giáo quyết định không tham gia chích ngừa, dựa trên
cơ sở rằng:
1.
Lòng tôn trọng tuyệt đối sinh mạng con người đòi hỏi phải kết án hành động phá
thai trực tiếp và phải từ khước những phúc lợi có được từ sản phẩm do hành động
độc dữ mang lại.
Nói
cách khác, nếu căn nguyên của việc phá thai tự nó là "trái" thì từ nó
không thể phát sinh cái "phải" nào. Nếu người ta cố ý hưởng cái lợi
phát sinh từ một hành động "trái", thì có vẻ như đã bỏ qua cho sự sai
trái ấy.
2.
Tới đây, Hội đồng Giám mục Anh quốc can thiệp. Các giám mục để cho bậc phu
huynh có quyền tự do chọn lựa. Họ cho phép, trong trường hợp này, được tùy ý giữ
hay không giữ lập trường chính thức về việc phá thai, nhưng họ thêm rằng:
"Phụ huynh Công giáo nào muốn tán thành việc sử dụng sự chích ngừa bệnh sởi
theo cách ấy có thể được bảo đảm rằng không có sự ràng buộc tổng quát nào về việc
từ chối cho phép... Hành động tán thành ấy không phải có ý nghĩa bỏ qua cho việc
phá thai, cũng không phải rốt cuộc sẽ có thêm những vụ phá thai để bào chế loại
thuốc chủng ngừa ấy".
Nói
cách khác, nếu bạn thụ hưởng phúc lợi từ một hành động, như thế không có nghĩa
tự nó có hàm ý rằng bạn chấp thuận hành động ấy.
3.
Người phát ngôn của một trong hai trường học cho biết tuy họ từ chối việc chủng
ngừa cho nam sinh bằng thuốc ấy nhưng họ chấp nhận việc chủng ngừa bệnh sởi,
cũng bằng thuốc ấy, có thể bắt đầu với nữ sinh, vì nguy cơ nhiễm bệnh sởi trong
thời kỳ thai nghén có thể khiến đứa con bị mù hoặc tổn thương não bộ.
Ðạo
đức là lập quân bình? Như thế, ở đây, hình thức của luận
cứ dùng để từ khước có vẻ đã chuyển sang một dạng duy thực lợi chủ nghĩa. Trong
thực tế, người ta vẫn có khả năng lập luận rằng việc không chịu chấp nhận ấy
cũng có thể được biện minh dựa trên cơ sở duy thực lợi chủ nghĩa nếu người ta
tin, như một qui tắc, rằng sự chống đối việc phá thai sẽ tạo ra những phúc lợi
lớn lao hơn việc phòng ngừa bệnh sởi.
Thí
dụ vừa kể minh họa cho một thực tế rằng, dù vì cứu cánh đạo đức học chúng ta có
khuynh hướng tách biệt rạch ròi các hình thức khác nhau của các luận cứ, nhưng
khi ứng xử với các chủ đề đạo đức thật sự, chúng ta đều có thể dùng cả hai luận
cứ ấy. Và phán quyết đạo đức là vấn đề lập quân bình giữa các tuyên bố đang
tranh đua nhau. Hiếm khi có được sự lựa chọn rạch ròi, và việc phòng ngừa bệnh
sởi không giống với việc chấp thuận phá thai.
Dường
như cả luật tự nhiên lẫn chủ nghĩa duy thực lợi đều cung cấp những cơ sở hợp lý
và khách quan cho việc quyết định giữa "phải" và "trái".
Tuy thế cả hai có những tiền giả định không thể giải thích phù hợp với tự thân
mỗi lý thuyết. Cái đầu tùy thuộc vào ý tưởng "nguyên nhân tối hậu",
còn cái sau thì chấp nhận "hạnh phúc như là cái thiện tối thượng".
3.
Mệnh lệnh vô điều kiện: Từ đầu sách đến nay,
trong khi nhìn vào công trình của Immanuel Kant, triết gia Ðức thế kỷ 18, chúng
ta đã thấy sự phân biệt triệt để của ông về các sự kiện như chúng ta nhận thức
chúng và các sự vật như chúng hiện hữu tự thân cùng các phạm trù không gian thời
gian và quan hệ nhân quả mà qua đó chúng ta thông giải kinh nghiệm của mình.
Nhưng Kant cũng có những đóng góp quan trọng vào lãnh vực đạo đức học.
Ðạo
đức tiềm ẩn trong ta. Ðối với Kant thì "Bầu trời đầy
sao ở trên đầu, luật đạo đức ở trong hồn". Ông xem "Ðạo đức học
"không phải là chủ thuyết làm thế nào để cho ta hạnh phúc, mà là làm thế
nào để sống xứng đáng với hạnh phúc". Như thế, hẳn Kant tin rằng luật đạo
đức cùng hạnh phúc tự chúng hiện hữu sẵn ở trong ta và đi sóng đôi nhau, ta
không cần phải tìm kiếm chúng, ta chỉ có nghĩa vụ sống thích đáng với chúng.
Xuất
phát từ đó, Kant tìm cách đề ra một nguyên lý tổng quát có thể áp dụng một cách
phổ quát, qua đó lý trí thực tiễn có khả năng phân biệt giữa "phải"
và "trái".
Kant
bắt đầu với thực tế rằng con người có cảm giác nghĩa vụ đạo đức. Chúng ta biết
nó là cái gì khi cảm giác có điều gì đó chúng ta nên làm, bất chấp hậu quả.
Tự
do, Thượng đế và Bất tử. Ông lập luận rằng nghĩa
vụ ấy tiền giả dụ ba điều:
1. Tự
do. Thí dụ một người, cả nam lẫn nữ, cần sự tự do trong tự thân nó,
cho dẫu người ấy có vẻ bị điều kiện hóa nếu nhìn từ điểm nhìn của người quan
sát;
2. Thượng
đế. Vì ngược lại, hẳn không có gì bảo đảm rằng việc thực hiện điều phải,
tức là đức hạnh, tối hậu dẫn tới hạnh phúc, tức là đức hạnh và hạnh phúc hiệp
cùng nhau trong "cái thiện tối cao";
3. Bất
tử. Cho dẫu làm điều phải sẽ dẫn tới cái thiện tối cao, điều đó cũng
có thể bất khả thi trong khoảng thời gian ngắn ngủi của một kiếp người đơn lẻ,
thí dụ nếu có ai hi sinh tính mạng để cứu sống người khác.
Qua
những phát biểu của Kant, chúng ta để ý thấy ông không nghĩ rằng con người trước
hết đi tới việc chấp nhận một cách có lý tính Thượng đế, tự do và sự bất tử, rồi
kế đó mới đi tới việc quyết định sẽ sống một cuộc đời đạo đức. Ðúng hơn, theo
Kant, bằng hành động một cách đạo đức, thậm chí bằng việc cảm thấy có cảm giác
nghĩa vụ đạo đức, con người phô bày một cách ý thức hoặc vô thức niềm tin của
mình vào cả ba điều ấy.
Cảm
giác nghĩa vụ đạo đức tuyệt đối ấy được Kant đặt tên là mệnh lệnh vô điều
kiện\ (categorical imperative), với dụng ý đối lập với "mệnh lệnh
giả thuyết" (hypothetical imperative), tức là mệnh lệnh có điều kiện với
công thức phát biểu rằng "muốn sở đắc cái này bạn phải làm cái kia"
hoặc "muốn đạt kết quả đã chọn, bạn phải thực hiện một hay một số việc thiết
yếu". Mục đích của Kant là trình bày mệnh lệnh tuyệt đối dưới dạng các
nguyên tắc đạo đức phổ quát.
Các
nguyên tắc đạo đức của Kant. Kant diễn tả mệnh lệnh
tuyệt đối ấy bằng nhiều cách khác nhau, nhưng tựu trung có thể rút gọn như thế
này.
"Hãy
chỉ hành động theo nguyên tắc (hoặc châm ngôn) mà bạn có thể, để ngay lúc ấy nó
trở thành một luật phổ quát".
Ông
cộng thêm vào đó nguyên tắc thứ hai:
"Hãy
hành động bằng cách đối xử với con người như là cứu cánh chứ không bao giờ như
là phương tiện".
Nguyên
tắc đầu rốt cuộc là nguyên tắc có ý nói rằng điều gì ta muốn mình làm thì nên
chuẩn bị sao cho cho mọi người trong cộng đồng – đoàn nhóm hay xã hội – cùng
làm điều đó. Nếu bạn không thể mong muốn hành động của bạn trở thành một qui tắc
phổ quát, thế thì bạn không nên làm điều đó trong các tình huống cá thể của
mình. Chúng ta hãy sống theo nguyên tắc ấy và sẽ tạo ngay được một tập thể lý
tưởng gồm những con người có lý trí.
Nguyên
tắc thứ hai xác nhận con người là đối tượng để phục vụ và bằng hỗ tương hành động,
giúp nhau thành toàn nhân cách, chứ không xem con người như đối tượng chỉ có
giá trị lợi dụng rồi thôi. Trong cuốn Foundations of the Metaphysics of
Morals (Các cơ sở của siêu hình học đạo đức, 1785) Kant viết rằng:
"Hãy hành động thế nào để xem nhân tính, dù trong chính bản thân hay nơi
người nào khác, trong mọi trường hợp, phải như một cứu cánh chứ không bao giờ
như một phương tiện".
Ở
đây, bạn có tính tổng quát nhất của mọi nguyên tắc, và nguyên tắc ấy, về mặt nổi,
đã có một phả hệ lâu dài. Nó cùng một tuyến với châm ngôn của Ðức Khổng Tử:
"Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân: Chớ làm cho người khác điều mình không muốn
người khác làm cho mình", và nó đi theo qui tắc vàng của Ðức Kitô trong Bài
giảng trên núi: "Anh em muốn người ta đối xử với mình như thế nào thì
anh em hãy đối xử với người ta như thế đó".
Khoảng
cách giữa lý thuyết và thực hành. Ðối với nguyên tắc ấy,
có một vấn đề khiến ta phải nghĩ ngợi. Có thể có những tình huống đặc thù trong
đó người ta có thể muốn giết người hoặc có thể muốn nói dối nhưng lại tuyệt đối
không muốn rằng sát nhân hay dối trá phải trở thành một định luật phổ quát. Vì
với Kant, "Một định luật như thế sẽ chẳng có một hứa hẹn nào cả".
Nghĩa là ta phân biệt rành mạch giữa cái đặc thù với cái phổ quát và không muốn
dùng cái trước để bao che cho hoặc xâm phạm cái sau.
Giả
dụ rằng mạng sống của một người vô tội đang bị đe dọa và cách duy nhất để cứu
người ấy là phải nói dối vì người ấy hẳn đang kỳ vọng như thế. Gặp trường hợp
đó, theo luận cứ của Kant, cần phải lập luận là bạn có thể mong muốn rằng bất cứ
người nào trong tình huống giống hệt cũng nên được tự do nói dối, tuy thế bạn
không mong muốn rằng bất cứ ai trong bất cứ tình huống nào cũng được tự do thực
thi hành động nói dối.
Một
trường hợp tiêu biểu. Trong một bài báo nhan đề "Kant
on Welfare" (Kant về vấn đề trợ cấp xã hội) trên tạp
chí chuyên đề Canadian Journal of Philosophy, tháng Sáu năm 1999 của
Mark LeBar, giáo sư thuộc Ðại học Ohio, tác giả minh họa vấn đề đó bằng cách áp
dụng nguyên tắc phổ quát của Kant rằng nên đối xử với con người như cứu cánh chứ
không như phương tiện. Bài báo mở đầu:
"Cuộc
tranh luận đương đại về chính sách trợ cấp xã hội cho công chúng thường bị phủ
bóng bởi các thuật ngữ mang bản sắc Kant. Thí dụ, người ta lập luận rằng sự tôn
trọng phẩm giá của người nghèo đòi phải có chương trình cứu trợ dành cho công
chúng, hoặc rằng sự tôn trọng tính tự trị của con người cấm người ta làm như thế".
Ðây
là một thí dụ điển hình về trường hợp nguyên tắc tổng quát không đủ để thiết lập
lối tiếp cận này hay lối tiếp cận nọ là "phải" về mặt đạo đức. Trên
lý thuyết, chúng ta biết mình có thể muốn điều gì, nhưng trong thực hành, chúng
ta không biết nên theo những bước nào để đạt được điều đó. Tuy thế, trong khi đối
mặt với những bước thực hành thì cũng là lúc ta đương đầu với một tình thế tới
lui đều khó, nghĩa là đòi hỏi mình phải tìm đáp án cho một nan đề đạo đức.
4.
Tóm tắt: Luật tự nhiên, sự thẩm định kết quả và cảm
giác nghĩa vụ đạo đức: cả ba cái ấy, đôi khi đứng riêng, đôi khi trộn lẫn vào
nhau, hình thành nền móng của luận cứ đạo đức. Thông thường, luật tự nhiên và cảm
giác nghĩa vụ đạo đức dẫn tới sự hình thành các nguyên tắc đạo đức tổng quát
giúp phán quyết loại hành động này hay loại hành động nọ là phải hoặc trái. Còn
việc có hợp lý và chính đáng không khi áp dụng bất cứ nguyên tắc nào như thế
vào từng hoàn cảnh hay vào mọi hoàn cảnh lại là vấn đề hoàn toàn khác.
Bởi
thế cho nên, lối thẩm định mang tính duy thực lợi chủ nghĩa về kết quả, dù rõ
ràng là thực tiễn và cấp thời hơn các lối khác, nó vẫn luôn luôn để ngỏ cho sự
mông lung của số phận, do bởi thực tế chúng ta không bao giờ biết hết tất cả
các hậu quả lâu dài của hành động của mình.
V.
Tuyệt đối chống tương đối
Nếu
đạo đức có tính tuyệt đối, thì một hành động dù được thực hiện trong bất cứ
hoàn cảnh nào đi nữa vẫn có thể bị đánh giá là "trái" một khi nó vi
phạm qui tắc đạo đức. Như thế, hành động trộm có thể bị xem là trái. Nhưng trộm
là gì? Theo một ý nghĩa nào đó, định nghĩa của nó rất rõ rệt: trộm là hành động
lấy cái thuộc về người khác mà không có sự đồng ý của người ấy.
Vấn
đề là "trộm" là một từ ngữ có thể dùng để thông giải các tình huống
cá biệt. Liệu chúng ta có thể bảo đảm rằng nó là một từ ngữ lúc nào cũng đúng?
Nếu không, thế thì người ta đúng hay không khi, về mặt đạo đức, đánh giá mọi
hành động "trộm" đều ngang nhau kể cả trong trường hợp một người hay
nhiều người can dự có cách nhìn khác nhau về vấn đề ấy. Thí dụ hành động trộm
tài liệu của điệp viên tình báo hoặc người sắp chết đói trộm thức ăn của nhà
giàu.
Từ
nguyên tắc tuyệt đối tới đặc thù. Minh họa cho nan đề đó
có thể là hành động "giết vì thương xót" hay cái gọi là "hóa kiếp".
Trong trường hợp một bệnh nhân bị bệnh cực kỳ trầm trọng, phải chịu đựng những
tháng ngày quá đổi đau đớn hoặc sống dở chết dở, không còn phương cách chữa trị.
Người ấy được thân nhân hoặc bạn thiết giúp cho chết ngay.
Hoặc
một hành động nói theo ngôn từ văn học của truyện kiếm hiệp là giết một tên
cung hung cực ác, như để tránh cho y không còn cơ hội tàn sát kẻ khác và
"hóa kiếp" cho y thoát kiếp xấu để tái sinh, 20 năm sau thành một hảo
nam tử! Nếu là kẻ theo quan điểm cho rằng đạo đức có tính tuyệt đối, bạn có thể
nói: "Giết người luôn luôn là trái". Thế thì, câu hỏi kế tiếp sẽ là:
"Việc giết vì thương xót hoặc hóa kiếp có giống với sát nhân không?"
Nói
cách khác, bạn bắt đầu với những nguyên tắc đạo đức tuyệt đối và rồi bạn thẩm
xét từng hoàn cảnh đặc thù có liên quan tới nguyên tắc đạo đức ấy. Ðó là một tiến
trình được gọi một cách khái quát là phán quyết đúng sai dựa trên khôn ngoan,
thế nhưng lập luận của nó lại có vẻ yếu ớt về mặt đạo đức, thậm chí nhiều người
còn cho đó là một lối biện luận lập lờ.
Nếu
bạn nghĩ rằng đạo đức không có tính tuyệt đối, bạn có nhiều khả năng bắt đầu với
các hoàn cảnh đặc thù, thẩm xét và đánh giá các dự tính cùng các hậu quả liên hệ.
Trong khi tiến hành thẩm định, bạn gắn ghép nhân sinh quan tổng quát của mình
vào các hàm ý mà các hành động đa dạng ấy có đối với xã hội như một toàn bộ.
Ðạo
đức học tình thế. Có một lối tiếp cận đạo đức mang bản
sắc Kitô giáo, nhấn mạnh tính chất độc đáo, có một không hai của mỗi biến cố,
được gọi là đạo đức học tình thế (situational ethics). Joseph Fletcher
(1905-1991), giáo sư nhiều đại học, trong đó có Ðại học Virginia, xuất bản
cuốn sách của ông có nhan đề Situation Ethics: The New Morality(Ðạo
đức học tình thế: Một nền đạo đức mới, 1966). Sách ấy nhanh chóng trở thành một
bộ phận của phong trào phản ứng lại nhận thức chật hẹp của nền đạo đức Kitô
giáo truyền thống trong thời đại có những biến đổi nhanh chóng về mặt xã hội.
Fletcher
lập luận rằng quan điểm của ông tiêu biểu cho đặc tính nền tảng của lối tiếp cận
mang bản sắc Kitô giáo vào cuộc sống. Nó nhấn mạnh trên:
(1)
Tình yêu được Tông đồ Phao-lô nói tới trong Thư gởi tín hữu Corinthô 2;
(2)
Sự từ khước chủ nghĩa tuân giữ nghiêm ngặt luật lệ (legalism) của người Do
Thái; và
(3)
Quan điểm của Augustine khi vị thánh giáo phụ ấy bảo rằng "cứ yêu thương
đi rồi mọi điều ngươi muốn làm đều đúng".
Ðạo
đức học tình thế lập luận rằng vì không sự việc nào giống với sự việc nào nên
trong mỗi hoàn cảnh, ta phải ưu tiên làm điều mà mình cảm thấy là nhân ái nhất,
và rằng để làm điều đó có thể phải đặt sang một bên qui tắc đạo đức có tính qui
ước hoặc đi ngược lại những trông mong của xã hội.
Các
nhà phê bình thuộc lập trường truyền thống có khuynh hướng lên án lối tiếp cận
đó. Họ cho rằng nếu như vậy, nó sẽ dẫn tới tình trạng hỗn loạn đạo đức. Thế
nhưng nó là nỗ lực chân thành nhằm kết hợp nguyên tắc đạo đức tổng thể, tức là
tình yêu, với sự công nhận tính chất độc đáo của mỗi hoàn cảnh.
Hò
hẹn rồi cưỡng dâm. Ðể minh họa tính chất phức tạp trong
việc áp dụng các qui tắc tổng quát vào một hoàn cảnh cá biệt, chúng ta hãy lấy
thí dụ từ một chuyện có thật về một tội danh thường được biết tới là một cách
khái quát là "hò hẹn rồi cưỡng dâm" (date rape).
Ðây
là một thuật ngữ được dùng trong hệ thống luật pháp phương Tây để cáo buộc một
hình thức can tội cưỡng hiếp. Về mặt thủ tục tố tụng, nó có ý chỉ một bị cáo có
quen biết trước với nạn nhân, đôi bên hò hẹn nhau vì tình yêu hay tình bạn, và
rồi nhân khi hò hẹn, thực hiện hay dự mưu thực hiện hành động giao hợp mà không
có sự đồng ý của đối tượng.
"Hò
hẹn rồi cưỡng dâm" là thí dụ điển hình cho một tình thế nhập nhằng, phát
sinh từ các cuộc tranh luận về luật pháp và đạo đức. Bất cứ sự mô tả có vẻ rành
mạch nào về bối cảnh vi phạm, thí dụ làm tình trái với ý muốn của người đối tác
hoặc toan tính làm tình trong trường hợp cá biệt mà chúng ta sẽ xem xét dưới
đây, đều làm cho phức tạp thêm do bởi các tình tiết liên quan tới hành động đó.
Nhất là trong trường hợp đôi bên đương sự, về mặt xã hội, đã tự nguyện ở bên
nhau trong một thời gian dài hoặc ngắn nào đó.
Một
vụ án điển hình. Một nam luật sư mời một nữ luật sư
cùng đi khiêu vũ tại một khách sạn ở Luân Ðôn. Hai bên quen biết nhau đã lâu,
cùng làm việc trong một tổ hợp luật sư. Tuy mỗi bên đều có giả dụ riêng của
mình về mối quan hệ giữa hai người nhưng việc chàng mời nàng đi khiêu vũ và
nàng nhận lời chứng tỏ quan hệ của hai người đã lên tới một mức nào đó. Thế rồi
hôm sau nàng đâm đơn kiện chàng với tội danh cưỡng hiếp có dự mưu.
Theo
tường trình của một tờ báo, chàng can tội ấy sau buổi tối khiêu vũ quay cuồng,
uống whisky và sâm-banh với nạn nhân, kẻ được tờ báo ấy gọi "ẩn danh"
là cô X, theo cách gọi của tòa án. Rời vũ trường, X. mời chàng về căn hộ của
mình, nơi nàng thuê chung tầng lầu với một người bạn. Trước mặt người nam luật
sư ấy, X. cởi hết áo quần của mình ra, kể cả quần lót, chỉ còn mang vớ dài, rồi
ngủ thiếp trên sô-fa. Khi chợt thức giấc, X. thấy chàng đang nằm phủ lên mình,
trên người cũng không còn quần áo, và chỉ mặc bao cao su (condom) màu lục.
Bài
phóng sự của tờ báo ấy trình bày luận cứ rằng cô X. đã cư xử một cách rồ dại
qua việc cởi hết quần áo của mình, chỉ còn lại đôi vớ dài, trước hai con mắt của
người đàn ông vừa cùng cô trải qua một buổi tối vui vẻ. Và vì thế, cô nên chấp
nhận rằng mình cũng có phần trách nhiệm về những gì xảy ra ngay sau đó.
Tại
phiên tòa, nam luật sư bị cáo ấy bị xét là phạm tội cưỡng hiếp có dự mưu, thuộc
loại hò hẹn rồi cưỡng dâm. Anh bị kết án ba năm tù ở. Sau đó, anh chống án.
Phiên tòa phúc thẩm xử anh còn hai năm. Sau một nửa thời gian thụ án, anh được
phóng thích nhờ có hạnh kiểm tốt trong nhà tù. Thế nhưng, ngay lúc anh vừa được
phóng thích, người ta thấy rõ anh sắp phải đương đầu với một cuộc điều trần trước
Luật sư đoàn để xin hành nghề luật trở lại. Và chắc chắn thỉnh nguyện của anh sẽ
bị bác.
Thử
phân tích vụ án. Trong vụ án vừa kể, phía biện hộ
cho đương sự bị cáo giác can tội cưỡng hiếp có dự mưu ấy có thể cân nhắc lý lẽ
về những vấn đề đa dạng như:
1.
Nếu một người mời người khác vào phòng mình, phải chăng lời mời ấy được xem ít
nhất là có bao hàm ý tưởng rằng sẽ không đặt thành vấn đề nếu xảy tới một loại
quan hệ tính dục nào đó giữa hai người, nghĩa là lời mời ở chung phòng có thể
không là lời mời trực tiếp rằng đôi bên sẽ làm tình với nhau, nhưng nó có thể gợi
ý cho thấy rằng chuyện đó nếu có xảy ra cũng chẳng thành vấn đề.
2.
Phải chăng hành động ân ái tính dục giữa hai người từng chia sẻ với nhau một thời
gian nào đó, nghĩa là đang ở bên nhau trong một cuộc hẹn hò, đòi hỏi phải có sự
đồng ý cụ thể, được trình bày bằng lời nói hay chữ viết?
3.
Nếu không có sự đồng ý cụ thể bằng lời nói hay chữ viết, nghĩa là không có sự
trao đổi các thỏa thuận trước khi cởi quần áo cho dù giữa hai luật sư với nhau,
có phải vì sự diễn giải sai lầm của một bên đương sự nên bị gọi là cưỡng hiếp
hoặc cưỡng dâm có dự mưu.
4.
Cũng nên cứu xét một tình huống khả thi khác. Nếu một người nữ mời một người
nam vào phòng của mình sau khi đã có cùng nhau một buổi khiêu vũ như thế và kỳ
vọng hai người sẽ làm tình, với ấn tượng rằng người nam ấy cũng muốn như mình.
Nhưng có thể vì uống quá nhiều whisky nên anh ta ngủ thiếp trên sô-fa. Trong
trường hợp này, liệu người nữ có thể kiện người nam ra tòa vì tội vi phạm một lời
hứa đã được đôi bên cùng hiểu ngầm?
5.
Trong tình huống của vụ án ấy, có phải đó là hành động cưỡng hiếp hoặc đơn giản
chỉ là kết quả của một sự hiểu lầm?
6.
Phải chăng hành động cởi hết quần áo trước mặt người khác có thể bị xét là
"bất cẩn khiến cho xảy ra tai nạn" nếu ngay sau đó xảy ra cưỡng hiếp
hoặc cưỡng hiếp có dự mưu?
Ngược
lại, phía người nữ luật sư đứng ra cáo giác mình bị bạn trai "hẹn hò rồi
cưỡng dâm" cũng có thể lập luận:
1.
Cưỡng hiếp, bạo hành và các hình thức lạm dụng tính dục khác thường diễn ra giữa
những người quen biết nhau. Sự kiện mối quan hệ trước đây của đôi bên không thể
được nêu lên để làm giảm nhẹ tính chất nghiêm trọng của hành động đã diễn ra hoặc
có nguy cơ sẽ diễn ra.
2.
Không thể nào có bằng cớ khách quan để chứng minh cho sự hiểu lầm. Việc tuyên bố
rằng mình hiểu lầm một điều gì đó có thể là cơ sở để luận lý hoặc lý do căn bản
về sau của tình huống đó, hoặc chỉ là tìm cách bào chữa mà thôi.
Luôn
luôn uyển chuyển. Ðối với đạo đức học, vấn đề là người
ta có thể hiểu bằng nhiều cách khác nhau về một tình huống được cho là độc đáo.
Những từ ngữ được chọn để đưa ra, thí dụ cưỡng dâm có dự mưu, chỉ được dùng để
thông giải sự việc chứ không phải để mô tả sự việc. Cho dù mọi người đồng ý rằng
cưỡng hiếp là luôn luôn trái đạo đức, nhưng vẫn còn có vấn đề là phải quyết định
một cách chính xác rằng khi nào nên áp dụng từ ngữ ấy.
Vấn
đề lại càng tế nhị hơn khi có những người vợ cáo giác rằng chồng đã cưỡng hiếp
mình vì bị giao cấu mà không có sự đồng ý của mình. Bởi thế, có lẽ chúng ta cần
phải uyển chuyển lúc cứu xét một vụ việc và cách áp dụng những từ ngữ thuộc loại
ấy, kể cả bên trong khung khổ của các giá trị đạo đức tuyệt đối.
Ðiều
đó có nghĩa rằng việc hoàn toàn cho phép mỗi sự việc quyết định qui tắc riêng của
nó có khả năng đưa tới sự hỗn loạn cho cả xã hội lẫn đạo đức. Cũng như các chủ
đề khác trong triết học, vấn đề ở đây là sự am hiểu cái đặc thù có liên hệ thế
nào tới cái phổ quát.
VI.
Các giá trị và xã hội
Tới
ngang đây, trong chương này, chúng ta đã ưu tiên xem xét cặn kẽ các tình huống
liên quan tới sự chọn lựa đạo đức cá nhân, các giá trị cùng các nguyên tắc qua
đó có thể thông giải các chọn lựa ấy. Thế nhưng đối với chủ đề đó còn có một lối
tiếp cận khác. Ta có thể nhìn vào phẩm tính và đức hạnh cá nhân của một người,
là những cái đưa dẫn người đó tới hành động được gọi là "thiện"; kế
đó, ta sẽ xét xem từ sự trau dồi những phẩm chất ấy có thể phát sinh các hành động
và các chọn lựa nào.
Ðể
thuận tiện khảo sát, chúng ta sẽ chọn cách bắt đầu từ xã hội như một toàn bộ, từ
đó, xem xét các loại phát biểu cần được lập thành giữa con người với nhau, những
quyền mà con người phải có, cùng những trách nhiệm mà con người phải thực thi
khi sống trong xã hội. Chúng ta sẽ thấy rằng những cái được dùng làm trụ cốt
cho các lối tiếp cận ấy có thể là luật tự nhiên, tính duy thực lợi chủ nghĩa hoặc
các quan điểm đạo đức tuyệt đối chủ nghĩa, và đó là lý do tại sao chúng đi theo
một cách tự nhiên các lối tiếp cận căn bản đã được phác thảo ở các phần trên.
Ðạo
đức học đức hạnh. Thay vì nhìn vào hành động và đặt vấn
đề nó "tốt" hay "xấu", đạo đức học đức hạnh (virtue ethics)
bắt đầu bằng cách nêu các câu hỏi cơ bản. Thí dụ, "Ý nghĩa của cụm từ ‘con
người tốt’ là gì?" hoặc hỏi theo cách khác nhưng cùng một nghĩa, "Khi
cho rằng kẻ ấy là ‘con người tốt’, ta có ý nói gì?". Kế đó, triển khai từ
câu hỏi ấy để thăm dò các phẩm tính và các đức hạnh làm nên "cuộc sống tốt".
Và như đã có lần đề cập, người đầu tiên dùng lối tiếp cận ấy là Aristotle. Ông
nối kết việc phô diễn các phẩm tính tối hậu với chủ đích tối hậu hay cứu cánh của
cuộc sống.
Vào
thập niên 1950 của thế kỷ 20 vừa qua, khi lối tiếp cận này triển khai, nó được
các nhà tư tưởng của phong trào nữ quyền, đấu tranh cho bình đẳng giới, nhìn bằng
ánh mắt ưu ái. Họ xem xét các luận cứ đạo đức học truyền thống, bị ảnh hưởng bởi
những lối tiếp cận cuộc sống có "tính nam nhi" một cách đặc thù vốn đặt
cơ sở trên các quyền và các bổn phận, trong khi đó họ tìm kiếm lối tiếp cận có
"tính nữ nhi" hơn và sự thừa nhận giá trị của các mối quan hệ và của
sự chung chăn gối.
Ðạo
đức học đức hạnh cũng được xem là có tính tự nhiên chủ nghĩa (naturalism); nó
chuyển dịch từ ý tưởng chỉ đơn giản tuân giữ các qui tắc tới việc tán thưởng những
cách thức ta có thể dùng để phô diễn bản tính của chính ta, và như thế, thành
toàn tiềm năng làm người của ta.
Những
câu hỏi phải trả lời. Ðạo đức học đức hạnh nêu lên những
câu hỏi căn bản như sau:
1.
Chúng ta có yếu tính cố định nào không? Có phải phẩm tính cá biệt của nam giới
và của nữ giới tạo nên những đức hạnh thích hợp với mỗi phái tính? Hoặc có phải
bản tính của mỗi người là sản phẩm của môi trường chung quanh và bối cảnh giáo
dục của nó?
2.
Nếu bản tính của mỗi người bị hình thành và uốn nắn bởi những thành tố chúng ta
chẳng thể nào kiểm soát, thí dụ nền văn hóa trong đó chúng ta chào đời và những
trải nghiệm chấn thương thời thơ ấu, thì liệu rằng chúng ta có chịu trách nhiệm
về các hành vi của mình không?
3.
Chúng ta nên liên hệ như thế nào giữa sự phô bày các đức hạnh của cá nhân với
các nhu cầu đích thực của xã hội?
4.
Làm thế nào bạn có thể quyết định giữa các cách thức phô bày khác nhau của cùng
một đức hạnh? Thí dụ cảm giác yêu thương hay lòng trắc ẩn khiến cho người này
có thể giúp bệnh nhân nan y và ngặt nghèo được trợ tử, ngược lại người khác lại
thấy rằng yêu thương và lòng trắc ẩn khiến cho họ có thể phấn đấu để giữ cho bệnh
nhân ấy tiếp tục sống. Tới một mức độ nào đó, bạn phải nhờ đến các lý thuyết đạo
đức học khác nếu muốn thẩm định các hành động nảy sinh từ các đức hạnh đặc thù.
Tóm
lại, điều chúng ta cần ghi nhớ là, trong các lối tiếp cận của đạo đức học đức hạnh
có một số lối tiềm ẩn những câu hỏi căn bản về cùng đích hoặc cứu cánh của cuộc
sống con người, từng được Aristotle nêu lên từ hai mươi bốn thế kỷ trước. Trong
khi "luật tự nhiên" khảo sát tổng quát một hành động trong liên quan
tới "nguyên nhân tối hậu", còn đạo đức học đức hạnh khảo sát các phẩm
tính con người trong liên quan tới vị trí tổng thể của chúng trong cuộc sống
con người và những phương cách thích hợp mà chúng có thể phô bày.
Khế
ước xã hội. Các lý thuyết đạo đức đặt cơ sở trên khế
ước xã hội (social contract) xem xét các luận cứ được lập nên giữa người dân với
nhau để cùng nhau tôn trọng các qui tắc nhất định và hạn chế những gì mỗi người
có thể làm, nhằm tạo phúc lợi cho chính mình cũng như cho xã hội như một toàn bộ.
Hầu hết dân chúng đều chấp nhận một thỏa hiệp nào đó giữa tự do của cá nhân và
cái thiện tổng thể của xã hội cùng nhu cầu an ninh trật tự.
Các
lý thuyết có tính khế ước xã hội phân chia trách nhiệm cho cá nhân và cho guồng
máy công quyền mà qua đó xã hội được tổ chức. Nói cách khác, chúng đề ra những
gì có thể kỳ vọng một cách hợp lý vào người dân trong quan hệ của họ với những
người khác. Chúng cũng đề ra các quyền mà cá nhân được hưởng. Nhiều phạm vi của
đạo đức học ứng dụng (applied ethics) đặt trọng tâm vào các quyền và các trách
nhiệm, đặc biệt trong phạm vi hạnh kiểm nghề nghiệp, hoặc có khi được gọi là
luân lý chức nghiệp.
Thí
dụ chúng ta có thể đặt vấn đề bác sĩ có trách nhiệm nào đối với bệnh nhân, đối
với xã hội trong đó người ấy hành nghề, và đối với sự phát triển của y khoa. Kết
quả các giải đáp cho vấn đề ấy có thể đưa tới việc soạn thảo một bộ luật về đạo
đức nghề nghiệp.
Cũng
thế, người ta có thể đặt vấn đề con người, cả nam lẫn nữ, nên có những kỳ vọng
căn bản nào liên quan tới cung cách những người khác hoặc nhà nước đối xử với
cá nhân mình. Những trả lời cho vấn đề ấy dẫn đưa tới các bản tuyên ngôn đa dạng
về các quyền con người, cung cấp những định chuẩn xét nghiệm xem xã hội có ứng
xử công bình và chính đáng hay không.
Dù
các quyền và các trách nhiệm là đặc điểm chủ yếu của tranh luận đạo đức học,
chúng cũng là đặc điểm trong triết học chính trị vì chúng đi liền với các vấn nạn
về công bằng và trật tự chính đáng của xã hội (xem chương 8).
Như
thế, cuộc thảo luận về các quyền và các trách nhiệm có khuynh hướng phản ánh
hai quan điểm. Một là của những người tuyệt đối chủ nghĩa, được cô đọng, thí dụ,
trong lời tuyên bố rằng mọi người phải được hưởng triệt để các nhân quyền căn bản,
bất kể cá nhân ấy là ai. Một là của những người duy thực lợi chủ nghĩa, theo đó
các phúc lợi chỉ phát sinh từ sự đồng thuận về trách nhiệm của mọi người dân trong
xã hội, vì thế, phải đặt sự thẩm định chúng trong tương quan với hạnh phúc tổng
thể của xã hội.
VII.
Ðạo đức học ứng dụng
Suốt
chiều dài lịch sử triết học, các triết gia đã và đang tìm cách áp dụng ý tưởng
của họ, và ta thấy điều đó rõ ràng nhất trong đạo đức học. Ba thập niên cuối của
thế kỷ 20 vừa qua là khoảng thời gian thăng hoa của đạo đức học ứng dụng, sau rất
nhiều năm nó có vẻ tương đối chìm khuất dưới chiếc bóng của các vấn nạn triết
lý mang tính ngôn ngữ học về ý nghĩa và bản tính của những phát biểu đạo đức học.
Cuốn
sách này thuộc tủ sách có đề mục Ðại cương triết học nên chỉ
có tính cách giới thiệu và không thể dành không gian rộng rãi để trình bày rất
chi tiết và thảo luận nhiều hơn về các triết gia và triết phái. Chúng tôi giới
hạn vào việc chỉ đề cập một số phạm vi chủ yếu liên quan tới vấn đề ứng dụng đạo
đức học hôm nay. Tuy thế, những ai quan tâm theo dõi tiếp khía cạnh này của đạo
đức học có thể tìm thấy rất nhiều tài liệu giáo khoa liên quan tới các nghề
nghiệp và các chủ đề cá biệt. Nếu có cơ hội, chúng tôi cũng sẽ dành riêng một
cuốn có nhan đề Ðại cương triết học đạo đức để bàn rộng hơn về
chủ đề này.
Luân
lý chức nghiệp. Ðạo đức học chức nghiệp, hoặc luân lý chức
nghiệp, liên quan chủ yếu tới các định chuẩn hoặc tiêu chí hạnh kiểm mà xã hội
kỳ vọng vào các thành viên của một nghề nghiệp chuyên môn nhất định, đồng thời
tới những phương cách dẫn đạo cho các tình huống mà đương sự cảm thấy không dễ
tự mình lập các quyết định đạo đức cho mình.
Các
nghề nghiệp có liên quan tới y học như bác sĩ y tá, luật pháp như thẩm phán luật
sư, giáo dục như nhà giáo các cấp, an ninh xã hội như viên chức công lực, và đặc
biệt các công chức phục vụ trong guồng máy công quyền, v.v. là đối tượng và là
nguồn cung cấp một loạt các nan đề đạo đức cần được khảo sát.
Nhưng
các lãnh vực khác của cuộc sống, thí dụ đạo đức học về truyền thông đại chúng, ảnh
hưởng của công nghệ thông tin hoặc các hàm ý của cuộc vận động về di truyền học,
đã làm nổi lên trên bề mặt những vấn đề khơi dậy sự ưu tư của người bên trong
và quan tâm của người bên ngoài, bởi vì xã hội như một toàn bộ nên không ai là
kẻ ngoại cuộc.
Ðạo
đức học ứng dụng trong chức nghiệp thích đáng cho những ai hoạt động trong các
lãnh vực cá biệt và đồng thời cho đại chúng trên một qui mô lớn, thí dụ như ảnh
hưởng của truyền thanh truyền hình và báo chí hoặc sự giới thiệu các loại thực
phẩm bị sửa đổi di truyền, hoặc quá trình sản xuất gây ô nhiễm môi sinh, làm địa
cầu nóng dần lên gây họa cho con người hôm nay và di họa cho con cháu mai sau.
Hoặc
cung cách kinh doanh của các tập đoàn đa quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa
đang gây tổn thương nghiêm trọng cho các quyền của công nhân, tài nguyên thiên
nhiên, bản sắc văn hóa bản địa và công cuộc phát triển xã hội đồng bộ và cân bằng
tại các nước đang phát triển. Thậm chí những sự việc mới được phát hiện vào đầu
thiên niên kỷ này như sử dụng qua liều lượng hóa chất trong việc sản xuất thực
phẩm như sữa, hoặc đồ chơi trẻ em, đồ nhựa, v.v.
Thí
dụ minh họa. Hai lãnh vực quan trọng trong đạo đức học
ứng dụng là đạo đức học môi sinh và đạo đức học chức nghiệp hoặc luân lý chức
nghiệp. Ðôi khi cả hai hiệp cùng nhau, thí dụ trong chủ đề thực phẩm bị sửa đổi
mà thường được gọi một cách bóng bẩy là cải thiện di truyền.
Ở
đây, chúng ta đối mặt với các chủ đề về hiệu ứng của các vụ mùa thu hoạch từ
các hạt giống bị sửa đổi di truyền (SÐDT) trên các loài khác và trong môi trường
như một toàn bộ, phối hợp với lời phê bình sề sự tự do của các tập đoàn doanh
nghiệp đa quốc gia đang mưu tìm lợi nhuận trong sự lơ là các hiệu quả rộng lớn
hơn của các hoạt động của họ lên các thế hệ con người.
Trong
năm 1999, việc sử dụng các phần hợp thành SÐDT trong thực phẩm đã làm công
chúng nhiều nơi trên địa cầu bức xúc, đưa tới tình trạng bất thình lình sụt giảm
số lượng thực phẩm SÐDT bán ra thị trường. Hậu quả là các công ty sản xuất ấy bị
giảm sút lợi nhuận. Liệu có nên để cho các chủ đề lớn lao như thế bị quyết định
chỉ bởi "sức mạnh thị trường"? Trách nhiệm của các công ti quốc gia
và đa quốc gia ra sao?
Có
phải giải pháp tốt nhất là dành rất nhiều nỗ lực nghiên cứu để có những phát
minh tiên tiến và thích đáng. Xưa nay, loài người luôn luôn tìm cách cải tiến
môi sinh nhằm mục đích phát triển, từ những chuyển đổi to lớn do việc phát triển
canh nông đưa tới các xã hội định cư và văn hóa văn minh tăng tiến, so với thời
kỳ du cư du mục của những nhóm người săn bắn hoặc chăn nuôi quần tụ nhau.
Ðối
với các vấn đề này, các giới hạn thuần lý thuyết nào, nếu có, cần được đặt ra
không? Nếu con người tìm cách gia tăng khả năng tiêu thụ về thực phẩm, hoặc nhà
ở, hoặc đi lại, thì có phải các công ty nên tìm cách đáp ứng những nhu cầu ấy bằng
cách chế tạo thêm thực phẩm cơ hữu, xây dựng các ngôi nhà mới hoặc sản xuất
ngày càng nhiều xe cộ thích đáng. Ðồng thời họ nên có trách nhiệm về đạo đức và
về bất cứ hậu quả nào lên môi sinh và người lao động, lên văn hóa bản địa, hoặc
chịu trách nhiệm về những gì lừa dối quần chúng nói chung và những gì đi ngược
lại các kỳ vọng của cá nhân con người trong lối sống cá biệt của nó.
Sức
đẩy của triết học. Ðạo đức học là một chủ đề lớn lao,
liên quan tới cả phạm vi lý thuyết lẫn cách thức ứng dụng các chủ đề đạo đức
vào xã hội. Nó đã và đang cung cấp sức đẩy cho phần lớn công trình triết học
như một toàn bộ, và là lãnh vực nghiên cứu riêng rẽ nhưng rộng rãi nhất trong
các khoa triết của các trường đại học hoặc các viện nghiên cứu, được chứng minh
qua số lượng đông đảo các tạp chí chuyên đề và các tập san triết học hằng năm
trên khắp thế giới.
Là
một phạm vi nghiên cứu của triết học và tự thân nó cũng là triết học nên đạo đức
học có giá trị rất đặc biệt. Những phúc lợi của tư duy sáng sủa, phân tích cụ
thể và xác minh cặn kẽ các khái niệm và các tiền giả định, có thể được xem là rất
thích đáng và đáp ứng kịp thời cho các lãnh vực thực tiễn của cuộc sống.
Khi
đối mặt với nan đề nên hay không nên tắt chiếc máy trợ sinh của ai đó đang lịm
sâu trong cõi hôn mê và không còn khả năng hồi tỉnh với đời, ta bắt đầu tự hỏi
không chỉ về qui chế đạo đức của việc trợ tử mà còn về những gì được ngụ ý khi ta
dùng từ ngữ "con người", những gì làm nên sự sống con người và do đó,
một hữu thể mà thân xác của nó đang được duy trì bởi một chiếc máy, có thể được
nói là đang sống, theo bất cứ phương cách đầy đủ ý nghĩa nào không.
Ðể
ứng xử thêm nữa với các chủ đề ấy, chúng tôi hi vọng sẽ có cuốn Ðại
cương triết học đạo đức trong tủ sách này. Ngoài ra, độc giả nào muốn
xem xét rộng rãi và sâu xa thêm nữa các chủ đề đạo đức học trong phạm vi luân
lý chức nghiệp cá biệt có thể tìm hiểu những tác phẩm liên hệ, được phổ biến rộng
rãi trong các trường chuyên nghiệp, thị trường nói chung, các thư viện và và hệ
thống internet toàn cầu.
Nguồn: http://phusaonline.free.fr/