Ai
có thể bỏ phiếu?
Các
cuộc bầu cử Nghị viện Đức năm 2009 và 2013 chứng kiến sự giảm mạnh tỷ lệ cử tri
Đức đi bỏ phiếu xuống khoảng 70%. Tuy nhiên, với sự trỗi dậy của phong trào dân
túy thu hút sự chú ý của cả những người không phải cử tri tại tất cả các bang,
do đó số cử tri đi bỏ phiếu trong năm nay được dự đoán sẽ tăng đáng kể.
Theo
số liệu từ Văn phòng Thống kê liên bang của Đức, năm nay, 61,5 triệu công dân Đức
có tuổi từ 18 trở lên có quyền bỏ phiếu trong cuộc bầu cử quốc gia. Trong số
đó, 31,7 triệu là nữ giới và 29,8 triệu là nam giới, với khoảng ba triệu người
lần đầu tiên đi bỏ phiếu. Hơn một phần ba cử tri Đức – 22 triệu – hơn 60 tuổi,
điều này đồng nghĩa với việc tầng lớp người cao tuổi có ảnh hưởng đặc biệt lớn
tới kết quả bầu cử.
Số
cử tri nhiều nhất sống tại bang miền tây, Bắc Rhine-Westphalia (13,2 triệu),
sau đó là các bang miền nam Bavaria (9,5 triệu) và Baden-Württemberg (7,8 triệu).
Lá
phiếu chia đôi
Khi
cử tri Đức đi bỏ phiếu vào ngày 24-9, họ sẽ nhận được một lá phiếu dễ gây nhầm
lẫn được chia làm hai phần với hai nội dung cần bầu chọn – một phần bầu cho đại
diện khu vực (bên trái lá phiếu) và một phần bầu cho một đảng chính trị (bên phải
lá phiếu).
Phần
bỏ phiếu đầu tiên hay còn gọi là "Erststimme" là dành cho các đại diện
khu vực, theo hệ thống đầu phiếu đa số tương đối (tức người chiến thắng là người
có nhiều phiếu nhất) như bầu cử ở Mỹ. Đức có 299 đơn vị bầu cử được phân chia
theo mỗi đơn vị/250 nghìn cư dân. Cử tri lựa chọn ứng cử viên mình ủng hộ để đại
diện cho khu vực của họ tại Nghị viện. Mọi ứng cử viên giành chiến thắng tại một
trong số 299 đơn vị bầu cử sẽ được cầm chắc một ghế tại Nghị viện. Phần bỏ phiếu
này sẽ giúp xác định chủ nhân một nửa số ghế tại Nghị viện Đức.
Để
lấp đầy số ghế còn lại trong số 598 ghế của Nghị viện Đức, các cử tri bỏ phiếu
trong phần thứ hai hay còn gọi là "Zweitstimme". Phần bỏ phiếu này
dành cho một đảng chính trị thay vì một cá nhân ứng cử viên.
Kết
quả của phần bỏ phiếu thứ hai cũng sẽ quyết định tỷ lệ phần trăm tổng số ghế mà
một đảng có thể giành tại Nghị viện Đức. Chẳng hạn một đảng giành được 25% số
phiếu bầu trong phần bỏ phiếu thứ hai, đảng này sẽ phải được phân bổ 25% số ghế
trong Nghị viện.
Điều
khiến cuộc bầu cử trở nên đặc biệt thú vị là lá phiếu cho phép các cử tri chia
sẻ sự ủng hộ của họ giữa các đảng. Chẳng hạn như một cử tri có thể bỏ phiếu cho
ứng cử viên đảng Liên minh Dân chủ cơ đốc giáo (CDU) của địa phương họ trong phần
bỏ phiếu thứ nhất và bầu cho đảng Dân chủ tự do (FDP) trong phần bỏ phiếu thứ
hai, để giúp đối tác liên minh nhỏ hơn của đảng CDU có mặt trong Nghị viện.
Mỗi
lá phiếu bao gồm hai nội dung bầu chọn: Một phần dành cho một ứng cử viên và một
phần dành cho một đảng. (Ảnh: DW)
Số
ghế dôi ra
Theo
quy định, số ghế Nghị viện tại mỗi bang sẽ được phân bổ theo số dân của bang
đó. Số ghế được phân bổ cho các đảng tại mỗi bang sẽ dựa theo tỷ lệ số phiếu
các đảng giành được tại bang đó trong phần bỏ phiếu thứ hai.
Trong
một số trường hợp, một đảng sẽ nhận được số ghế trực tiếp ở một bang thông qua
phần bầu chọn đầu tiên nhiều hơn số phiếu đảng này được phân bổ tại bang này dựa
theo kết quả phần bầu chọn cho các đảng (phần bỏ phiếu thứ hai). Do mỗi ứng cử
viên giành chiến thắng tại một khu vực được bảo đảm một ghế tại Nghị viện, đảng
đó sẽ được giữ nguyên số ghế dôi ra này. Theo đó, số ghế Nghị viện mà đảng này
nhận được tại bang sẽ bao gồm số ghế được phân bổ theo kết quả phần bỏ phiếu thứ
hai cộng với số ghế dôi ra từ phần bỏ phiếu thứ nhất.
Trong
trường hợp này, để bảo đảm số ghế được phân bổ cho các đảng tại Nghị viện tương
ứng với tỷ lệ số phiếu mà các đảng giành được trong phần bỏ phiếu thứ hai, các
đảng còn lại sẽ được nhận thêm ghế để cân bằng với số ghế dôi ra mà kia nắm giữ.
Việc
này dẫn đến tình trạng Nghị viện sẽ có số ghế lớn hơn so với số ghế cơ sở là
598 ghế. Cụ thể như Nghị viện của Đức hiện đang có 630 ghế do số ghế dôi ra của
các đảng.
“Chướng
ngại vật 5%”
Để
một đảng có thể vào được Nghị viện Đức, đảng này này phải giành được ít nhất 5%
số phiếu bầu của phần bỏ phiếu thứ hai dành cho các đảng. Quy định này nhằm
ngăn những đảng nhỏ hơn tách ra từ những đảng chính có thể vào Nghị viện.
Hiện
tại, có năm đảng đại diện trong Nghị viện Đức gồm: đảng trung hữu CDU của Thủ
tướng Angela Merkel và đảng chị em của đảng này là đảng Liên minh Xã hội cơ đốc
giáo (CSU), đảng trung tả Dân chủ xã hội (SPD), đảng Cảnh tả (Left party) và đảng
Xanh (Green party).
Cuộc
bầu cử năm nay có hai đảng chạy đua để vượt qua “cửa ải 5%”. Trong năm 2013, đảng
thân doanh nghiệp Dân chủ tự do (FDP) đã không giành được 5% số phiếu bầu nhưng
có thể vào lại được Nghị viện năm nay dựa trên cơ sở những thắng lợi trong cuộc
bầu cử cấp bang gần đây.
Một
đảng khác ủng hộ chủ nghĩa dân túy, phản đối nhập cư là đảng Sự lựa chọn vì nước
Đức (AfD) thất bại trong gang tấc trong năm 2013, khi đảng này vận động tranh cử
theo cương lĩnh hoài nghi châu Âu. Tuy nhiên, kể từ đó đảng này đã giành được đủ
sự ủng hộ để có mặt không chỉ trong Nghị viện châu Âu mà còn có mặt ở 13 trong
số 16 nghị viện bang của Đức.
Ai
bầu Thủ tướng?
Không
như hệ thống bầu cử tại Mỹ, các cử tri tại Đức không trực tiếp bầu Thủ tướng,
người lãnh đạo Chính phủ. Nghị viện mới phải triệu tập họp phiên đầu tiên trong
vòng không quá một tháng sau ngày bầu cử.
Phiên
họp đầu tiên có thể diễn ra sớm hơn nếu các cuộc đàm phán thành lập liên minh
diễn ra nhanh chóng. Ứng cử viên đứng đầu của đảng giành được nhiều phiếu nhất thường
sẽ đứng ra thành lập một liên minh đa số. Tổng thống, người đứng đầu nhà nước
và đóng vai trò nghi thức là chủ yếu, khi đó giới thiệu người này là ứng cử
viên cho chức Thủ tướng. Ứng cử viên Thủ tướng do Tổng thống giới thiệu sẽ được
các thành viên mới được bầu của Nghị viện thông qua sau đó trong một cuộc bỏ
phiếu kín.
Nếu
giống như trong ba cuộc bầu cử trước, đảng CDU giành chiến thắng đa số phiếu, ứng
cử viên của họ cho chức Thủ tướng, Angela Merkel, sẽ nắm giữ vị trí này trong bốn
năm nữa. Tại Đức, không có hạn chế về số nhiệm kỳ của một Thủ tướng. Tuy nhiên,
cho đến nay, không có thủ tướng nào tại vị tổng cộng hơn 16 năm kể từ đời Thủ
tướng Helmut Kohl.