Nga
áp dụng mô hình bán tổng thống từ khi tách ra khỏi Liên Xô vào năm 1991. Tình
trạng hiện tại của Nga giải thích cho nỗi sợ hãi của những người phê phán quyết
liệt nhất mô hình này: đó là trong một quốc gia với các thiết chế (còn) yếu, một
tổng thống quyền lực bao trùm có thể đe dọa nền dân chủ.
Hiến
pháp Nga 1993 tạo ra hệ thống bán tổng thống với một tổng thống có quyền lực rộng
lớn.
-
Tổng thống được bầu trực tiếp với nhiệm
kì bốn năm và giới hạn hai nhiệm kì. Tổng thống phải giành được đa số tuyệt đối
(>50%); vì vậy nếu không ứng viên nào giành được đa số trong vòng bầu cử đầu
tiên, thì hai ứng viên có số phiếu cao nhất sẽ chạy đua trong vòng hai.
-
Tổng thống bổ nhiệp thủ tướng với sự chấp
thuận của quốc hội, tức Duma, nhưng nếu Duma chống lại ứng viên thủ tướng của tổng
thống ba lần, thì nó tự động bị giải tán và một cuộc bầu cử mới được tổ chức.
Điều này có nghĩa rằng trừ khi đối thủ của tổng thống trong Duma nghĩ rằng họ sẽ
thắng trong cuộc bầu cử, còn không rất khó để họ phản đối sự chỉ định của tổng
thống.
-
Tổng thống cũng bổ nhiệm tất cả các
thành viên nội các, mà không cần chấp thuận của Duma. Cả thủ tướng lẫn nội các
không cần là thành viên của Duma, và phần lớn họ là như vậy.
-
Hệ thống Nga không kết nối tổng thống với
quốc hội thông qua thủ tướng và nội các như mô hình Pháp. Cấu trúc này cho phép
tổng thống thoải mái bổ nhiệm bất cứ ai vào nội các mà ông thích, không quan
tâm đến việc đảng nào kiểm soát quốc hội.
-
Ngoài ra, tổng thống còn kiểm soát trực
tiếp các bộ trưởng quan trọng (ngoại giao, quốc phòng, nội vụ) và Cơ quan An
ninh Liên bang; trong những lĩnh vực này, ông không cần quan tâm đến ý kiến của
thủ tướng và nội các.
-
Có lẽ quan trọng nhất đó là tổng thống
có thể đề ra các sắc lệnh có hiệu lực của luật mà Duma không thể phủ quyết, hay
tòa án không thể vô hiệu, điều này khiến cho tổng thống có thể cai trị mà không
cần sự ủng hộ của quốc hội.
-
Một sửa đổi hiến pháp vào năm 2000 cũng
trao cho tổng thống quyền bổ nhiệm và sa thải mọi thống đốc của 89 khu vực của
Nga, những người có quyền bổ nhiệm một nửa thượng nghị sĩ quốc hội. Duma có thể
bỏ phiếu bất tín nhiệm thủ tướng song phải làm như vậy hai lần mới có thể sa thải
anh ta. Nó cũng có thể luộn tội thổng thống với 2/3 số phiếu, và nó chỉ nỗ lực
làm điều này một lần vào năm 1999, nhưng thất bại.
Hai
tổng thống lớn của Nga thời kì hậu cộng sản là Boris Yeltsin (1991–2000) và
Vladimir Putin (2000–2008), sử dụng quyền lực tổng thống khá khác nhau.
-
Yeltsin, được bầu làm tổng thống khi Nga
vẫn còn là một phần của Liên Xô, là anh hùng của cuộc cách mạng hậu Cộng sản. Ông
lãnh đạo phe đối lập chống lại nỗ lực đảo chính của quân đội Liên Xô vào tháng
8/1991, và thành công của phong trào đã đánh dấu chấm hết cho Liên Xô.
Ông cũng là kiến trúc sư của hiến
pháp năm 1993. Tuy nhiên, sự cai trị của ông khá lộn xộn. Bởi vì ông không phải
là thành viên của bất cứ đảng chính trị nào, nên ông không thể có được sự ủng hộ
rộng rãi cho các cải cách. Trong hầu hết nhiệm kì tổng thống của mình, đối thủ
chính của ông là Đảng Cộng sản, vốn chiếm đa số tương đối trong Duma từ năm
1995-2003. Yeltsin phải đối đầu với một quốc hội thù địch, nên cai trị thông
qua sắc lệnh.
Ông bổ nhiệm 7 thủ tướng và hơn 200
bộ trưởng trong nhiệm kì của mình. Thủ tướng cuối cùng của ông là Putin, người
được chỉ định kế nhiệm ông; Yeltsin từ chức tổng thống trước cuộc bầu cử năm
2000, đưa Putin lên làm tổng thống tạm quyền.
-
Putin, cựu lãnh đạo KGB, chứng tỏ là một
tổng thống mạnh hơn Yeltsin rất nhiều; và đã giành được 53% số phiếu trong vòng
một cuộc bầu cử vào năm 2000. Trong cuộc bầu cử Duma vào năm 2003, những người thân
cận của ông đã thành lập đảng Nước Nga Thống nhất, giành chiến thắng và kiểm
soát Duma từ đó.
Putin tiến hành truy tố tham nhũng
nhằm loại bỏ giới đầu sỏ nổi lên thời Yeltsin cũng như thay thế giới này với những
người thân cận. Ông tập trung kiểm soát xã hội Nga thông qua kiểm soát nền kinh
tế, truyền thông.
Sau khi chiến thắng cuộc bầu cử năm
2004 với hơn 70% số phiếu ngay từ vòng một, Putin tiến hành cải cách hiến pháp
nhằm kiểm soát hữu hiệu hơn nữa các chính quyền khu vực của đất nước, và qua đó,
kiểm soát thượng viện.
Vào cuối nhiệm kì hai, Putin chỉ định
Dmitry Medvedev làm người kế nhiệm mình, và Medvedev được bầu làm tổng thống
vào năm 2008. Chính Putin, sau đó được bổ nhiệm làm lãnh đạo đảng cầm quyền ở
Duma, trở thành thủ tướng và trong thực tế là người lãnh đạo đất nước.
Các nhà quan sát từng tự hỏi liệu Medvedev
có thể sử dụng quyền lực của tổng thống để thay đổi chính sách của Putin hay
không. Câu trả lời là không. Với tư cách thủ tướng, Putin kiểm soát lòng trung
thành của đa số nghị sĩ ở Duma, và sẽ không có sự thay đổi lớn nào về chính
sách nếu không có sự ủng hộ của ông.
Vào năm 2012, Putin trở lại làm tổng
thống cho đến ngày nay.
Nhìn
chung, Putin sử dụng quyền lực tổng thống vốn đã mạnh trong hệ thống bán tổng
thống của Nga để tích lũy thêm quyền lực cho chính chức vụ tổng thống và cho cá
nhân ông. Những sự bổ nhiệm của ông, những thay đổi về hiến pháp, việc kiểm
soát nền kinh tế, và giới hạn đối với tự do chính trị mang đến cho ông một sự
kiểm soát vô hạn đối với nước Nga, điều mà
khiến cho hầu như tất cả các nhà phân tích đi đến khẳng định Nga không còn là một
nền dân chủ thực sự nữa, mà là một chế độ bán độc tài.
Hiến
pháp, về cơ bản đã bị sửa chữa bởi Putin, trao cho tổng thống quyền lực to lớn;
ngay cả khi quốc hội do đảng đối lập kiểm soát, thì nó cũng không có khả năng để
trở thành người chơi phủ quyết thực sự. Trường hợp của Nga dấy lên nỗi sợ hãi về
một tổng thống mạnh quá mức trong hệ thống bán tổng thống, trong bối cảnh nền
dân chủ mới với các thiết chế kiểm soát còn yếu.
Về
hình thức, hệ thống được thiết kế có các bộ phận giải trình trách nhiệm theo
phương đứng và phương ngang, tuy nhiên, việc Putin kiểm soát hệ thống bầu cử,
cũng như tạo ra một đảng chi phối, khiến cho hầu như không còn lực lượng nào có
thể phản kháng lại quyền lực của ông.
Nguồn: Introducing Comparative Politics: Concepts and Cases in Context.