Một
chuyến bay từ Manila đến Singapore sẽ đưa bạn từ một trong những sân bay tồi tệ
nhất đến một trong những sân bay tốt nhất trên thế giới. Nó cũng sẽ đưa bạn từ
một trong những nhà nước yếu kém và dễ sụp đổ sang một trong những nhà nước mạnh
của châu Á.
Cho
tới gần đây, sân bay Ninoy Aquino của Manila mới nhường cái danh hiệu “sân bay
tồi tệ nhất thế giới” cho sân bay quốc tế Islamabad Benazir Bhutto của
Pakistan, theo trang The
Guide to Sleeping in Airports. Năm 2014, sân bay Manila đã leo lên hạng
thứ tư trong những sân bay tồi tệ nhất thế giới nhờ việc mở thêm sân ga thứ ba.
Ngược
lại, sân bay quốc tế Changi của Singapore đã được bình chọn là sân bay tốt nhất
thế giới trong 18 năm liên tiếp. Trên thực tế, trong số các sân bay tốt nhất thế
giới, có năm sân bay nằm ở Châu Á, ngoài Singapore thì bốn sân bay còn lại là
Seoul, Kuala Lumpur, Hồng Kông và Tokyo (sân bay Haneda).
Những
đánh giá xếp hạng của độc giả trên trang “The Guide to Sleeping in Airports” có
thể không phải là bằng chứng khoa học về chất lượng của sân bay hay là về sức mạnh
của các nhà nước ở châu Á. Nhưng chắc chắn là chúng phù hợp với các chỉ số
khách quan khác.
Yếu
tố quyết định quan trọng nhất của sự thành công ở Châu Á là sự hiện diện của
“các nhà nước mạnh” trong các nền kinh tế như Nhật Bản, Hồng Kông, Hàn Quốc,
Singapore và Đài Loan. Theo Chỉ số các nhà nước dễ sụp đổ của
Quỹ Hòa bình, thì Singapore, Nhật Bản và Hàn Quốc đều đạt điểm số thấp (Hồng
Kông và Đài Loan không được xét tới ở đây) và được xếp vào nhóm “rất ổn định”
cùng với các nước phát triển như Mỹ, Đức, Pháp và Anh.
Phải
lần xuống phía dưới danh sách mới có thể tìm ra các nước châu Á khác. Có thể thấy
Malaysia nằm trong nhóm “cảnh báo”, thấp hơn Hàn Quốc khoảng 39 bậc trong danh
sách gồm 178 quốc gia này. Tiếp tục xuống tới nhóm “cảnh báo cao độ” là Việt
Nam, Indonesia, Ấn Độ, Thái Lan và Trung Quốc. Và thậm chí xuống thấp hơn nữa tới
nhóm “cảnh báo rất cao” là Lào, Philippines và Campuchia. Xuống gần cuối danh
sách là nhóm “báo động” gồm các quốc gia như Nepal, Sri Lanka, Bangladesh, Bắc
Triều Tiên và Myanmar.
Vậy,
làm thế nào mà chúng ta có thể biết được liệu một nhà nước có yếu và dễ sụp đổ?
Một
nhà nước yếu có thể thể hiện sự kém cỏi ở nhiều khía cạnh. Đáng chú ý nhất là khi
nó không có khả năng cung cấp dịch vụ công cho người dân. Chất lượng của các dịch
vụ công cơ bản như nước sạch, vệ sinh, y tế, giáo dục và các phương tiện giao
thông là những thứ rất kinh hoàng tại các nhà nước yếu và dễ sụp đổ ở châu Á.
Điều này có thể là do các nhà nước này không có khả năng thu đủ thuế để cung cấp
tài chính cho các dịch vụ công, bởi các tầng lớp chóp bu bòn rút hệ thống thuế
một cách có hệ thống, nhất là ở Philippines.
Nỗi
bất an cũng là một đặc điểm của các xã hội yếu, nó thường là sản phẩm của sự
nghèo đói, bất bình đẳng và cái cảm giác bất công xã hội. Nạn tham nhũng và lực
lượng cảnh sát kém cỏi cũng góp phần vào nỗi bất an ấy.
Một
đặc điểm nữa của các nhà nước yếu là, chúng thường bị mất kiểm soát đối với
lãnh thổ của chúng, hoặc đối với sự độc quyền sử dụng vũ lực một cách hợp pháp.
Nhiều quốc gia châu Á như Myanmar và Ấn Độ không thể khẳng định chủ quyền trên
phần lớn lãnh thổ của họ, do các nhóm sắc tộc thiểu số vẫn nắm giữ quyền lực,
hoặc do giới chóp bu địa phương thường sở hữu quân đội riêng. Giới chóp bu đầy
quyền lực này cũng có thể ép buộc các chính phủ yếu kém phải thực hiện các
chính sách thiên vị cho lợi ích của họ, như là bảo vệ sự độc quyền. Các cuộc bầu
cử cũng có thể bị lạm dụng một cách sai trái, do sự chi phối của các nhóm gia
đình chính trị, việc mua bán phiếu bầu, và những mánh khóe chính trị khác.
Rõ
ràng là những đặc điểm này của các nhà nước yếu đã làm xói mòn những triển vọng
phát triển kinh tế và xã hội.
Trường
hợp của Philippines đã đưa ra một góc nhìn thú vị về tình trạng của nhà nước ở
châu Á. Quần đảo gồm 7107 hòn đảo này được coi là có một nhà nước yếu và một xã
hội mạnh. Có tác giả đã gọi đây là “tình trạng vô chính phủ giữa các gia đình”.
Thật
vậy, cho đến khi thực dân Tây Ban Nha xâm lược Philippines vào thế kỷ 16, ở
vùng đảo này dường như không có lấy một nhà nước. Ngoài một số ông vua Hồi giáo
ở miền Nam, thì các xã hội tiền thuộc địa đã bị chia cắt thành những ngôi làng
tự trị hoặc bị giao do các tầng lớp chóp bu địa phương cai quản. Nói cách khác,
Philippines không tồn tại như một quốc gia cho đến khi các thủy thủ Tây Ban Nha
lui tới đảo quốc này vào thời vua Philip II. Thậm chí ngày nay, dường như nhiều
người Philippines vẫn gắn bó với bản sắc địa phương của họ hơn là với bản sắc
quốc gia.
Trong
thời kỳ thuộc địa, người Tây Ban Nha đã không thành lập một nhà nước mạnh.
Ngoài Manila ra thì vùng thuộc địa này chủ yếu do Giáo hội Công giáo và giới
kinh doanh tư nhân quản lý. Cuối thời kỳ Tây Ban Nha cai trị ở cuối thế kỷ 19,
khi những người thuộc địa kết hôn với giới cai trị thực dân (“mestizos”), và
khi những người Trung Quốc di cư đến Philippines, thì họ hình thành nên một tầng
lớp chóp bu địa phương. Tầng lớp này tiếp tục củng cố vị thế quyền lực kinh tế
và chính trị của chính nó trong thời kỳ thuộc địa của Mỹ ở nửa đầu của thế kỷ
20.
Giới
chóp bu của Philippines (ước tính gồm khoảng 178 gia đình) đã duy trì sự kiểm
soát đối với nền kinh tế và chính trị của đất nước thông qua các giai đoạn cai
trị quân sự lẫn dân chủ, và kết quả là nhà nước Philippines vẫn yếu và dễ sụp đổ.
Một
số gia đình thuộc giới chóp bu như Ayala và Aboitiz đã thống trị kể từ thời kỳ
thuộc địa Tây Ban Nha. Lợi nhuận kinh doanh của họ thu được từ những dịch vụ
công cho tới phát triển nhà cửa, từ ngân hàng cho tới viễn thông và các ngành
công nghiệp gia công đang bùng nổ. Địa vị thống trị của các gia đình chóp bu
này thường chẳng phải là nhờ vào sự nhạy bén tuyệt vời trong kinh doanh, mà chủ
yếu là do chính phủ sắp đặt nhằm mang lại sự độc quyền và bảo hộ cho những người
chơi chính. Mặc dù đã có những cải cách rộng khắp từ năm 1981, nhưng phần lớn
thị trường vẫn bị độc quyền.
Tình
trạng yếu kém của đất nước thể hiện rõ ràng nhất ở cơ sở hạ tầng hết sức nghèo
nàn về vận tải và năng lượng, cũng như ở các hệ thống y tế, giáo dục, vệ sinh,
và nguồn nước cũng nghèo nàn không kém. Chính quyền Philippines cũng bị cho là
kém cỏi trong việc thực thi những điều luật và các quy định có thể mâu thuẫn
với lợi ích của giới đầu sỏ (như đánh thuế, lâm nghiệp, cải cách ruộng đất).
Tình trạng này còn được thể hiện qua những cuộc nổi dậy dai dẳng của người Hồi
giáo và cộng sản, các vụ bắt cóc và các hành vi bạo lực khác, cũng như tình trạng
tham nhũng ăn sâu.
Sự
yếu kém của nhà nước Philippines cũng hiện rõ trong cái cách mà nó xử lý trước
trận siêu bão Yolanda vào năm 2013. Chính phủ đã không thể quản lý các hoạt động
cứu trợ thiên tai một cách hiệu quả.
Sau
nhiều thập kỷ mang danh “người bệnh” của châu Á, nền kinh tế Philippines hiện
đang bùng nổ, được thúc đẩy bởi các hoạt động xây dựng và tiêu dùng. Nhưng dấu
vết của một nhà nước yếu vẫn còn rất rõ ràng.
Do
cơ sở hạ tầng đô thị không theo kịp với tốc độ đầu tư bất động sản nên tình trạng
tắc nghẽn giao thông ngày một tồi tệ hơn. Mặc dù đã mở một nhà ga mới, song sân
bay Manila vẫn còn đông đúc, hỗn loạn. Tình trạng tắc nghẽn giờ đây đã lan sang
các cảng biển Manila, do trình độ kém cỏi của cơ quan hải quan và tham nhũng
nghiêm trọng. Vào thời điểm bài này được viết, một số tàu thuyền [nước ngoài –
ND] đã hết kiên nhẫn và quay trở về cảng nước họ với hàng hóa vẫn chất đầy tàu.
Hơn
nữa, mức tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ ở Philippines không theo lý thuyết khuếch
tán lợi ích, với tỷ lệ đói nghèo vẫn ở mức gần 30% dân số. Cielito Habito, cựu
Bộ trưởng Kế hoạch Kinh tế, đã ước tính rằng lượng tài sản gia tăng trong năm
2011 của 40 gia đình giàu nhất Philippines trong danh sách người giàu của
Forbes chiếm tới 76% mức tăng trưởng GDP của cả nước, cao hơn rất nhiều so với ở
Thái Lan, Malaysia, hay Nhật Bản.
Nói
cách khác, tầng lớp tinh hoa nhỏ bé của Philippines đang cóp nhặt phần lớn nguồn
tài sản mới của đất nước, trong khi người nghèo bị đẩy ra ngoài. “Tôi nghĩ người
ta đang cảm thấy một điều rất rõ ràng là, có cái gì đó không đúng về mặt cấu
trúc. Giới đầu sỏ đã kiểm soát quá nhiều tài nguyên của đất nước”, Habito nói.
Con
đường dẫn tới sự giàu có cho nhóm nhỏ này cũng được thúc đẩy bởi một nền văn
hoá chính trị chủ yếu dựa trên quan hệ cá nhân hơn bất cứ yếu tố nào khác,
Habito nói thêm.
Rốt
cuộc, người dân Philippines đã bị thúc đẩy hơn bao giờ hết để rời bỏ đất nước của
họ và gia nhập đội ngũ đồng hương ở hầu hết mọi quốc gia trên thế giới. Hơn 10%
dân số và hơn 20% số người trong độ tuổi lao động, đã rời khỏi đất nước.
Đã
có nhiều lời kêu gọi cho một nhà nước mạnh mẽ hơn và có kỷ luật hơn tại
Philippines, trong đó có cả lời kêu gọi đến từ Lý Quang Diệu của Singapore.
Nhưng cựu Tổng thống Philippines Ramos đã nhanh chóng nhắc lại cái “nỗi bất hạnh
độc tài” của Philippines dưới thời Tổng thống Marcos.
Thật
vậy, Philippines đã từng có một chính phủ mạnh hơn nhưng lại tham nhũng nghiêm
trọng thời Marcos. Quá khứ này đã làm tan biến triển vọng về một nhà nước mạnh
có khả năng cung cấp các dịch vụ và an ninh mà nền kinh tế và người dân
Philippines đang rất cần và xứng đáng được hưởng.
Ấn
Độ là một ví dụ khác cho hình ảnh một nhà nước yếu và một xã hội mạnh. Những cải
cách kinh tế được đưa ra vào năm 1991 đã dẫn tới sự bùng nổ tăng trưởng. Nhưng
trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng của Ấn Độ đã chậm lại khi nền kinh
tế chạm đến những giới hạn của một nhà nước yếu, cụ thể là cơ sở hạ tầng nghèo
nàn, thói quan liêu của bộ máy và tham nhũng tràn lan. Người ta chỉ có thể hy vọng
rằng chính quyền của Thủ tướng Narendra Modi có thể thành công trong việc củng
cố nhà nước Ấn Độ.
Nhiều
người rất ấn tượng với sức mạnh của nhà nước Trung Quốc, khi mà nó có thể xây dựng
những cơ sở hạ tầng xuất sắc như sân bay và tàu cao tốc. Nhưng nhà nước mạnh của
Trung Quốc cũng lạm dụng quyền lực của mình thông qua việc ưu đãi lợi ích cho
các đảng viên Cộng sản, vi phạm nhân quyền, đàn áp bất cứ ai có dấu hiệu bất đồng
chính kiến về xã
hội và chính trị, và hạn chế các quyền tự do cá nhân.
Bất
kể tầm quan trọng của việc sở hữu một nhà nước mạnh lớn đến đâu, thì cũng có những
rủi ro khi nhà nước ấy trở nên quá mạnh, theo nhận định của Giáo sư Daron
Acemoglu. Thuế và các hệ thống phúc lợi xã hội rất cao ở Tây Âu có thể ảnh hưởng
đến tính năng động của nền kinh tế. Và trong khi một nhà nước mạnh có thể thúc
đẩy phát triển thì nó cũng có thể bị kiểm soát bởi các tầng lớp tinh hoa mới nổi
lên từ sự phát triển nhanh chóng, như trường hợp của Hong Kong, Nhật Bản, Hàn
Quốc và Singapore.
Chúng
ta có thể thấy rõ điều này trong trường hợp của Nhật Bản, khi mà nó từng là một
nền kinh tế năng động song đã nhanh chóng trở nên xơ cứng. Các nền kinh tế và
xã hội mở, với sự phá hủy mang tính sáng tạo và đổi mới không ngừng, mới là
chìa khóa cho sự thịnh vượng liên tục.
Tóm
lại, điều quan trọng nhất là phải làm cho sức mạnh và vai trò của nhà nước được
sử dụng “đúng”. Trong giai đoạn phát triển ban đầu, một nhà nước mạnh thường có
tầm quan trọng nhiều hơn so với khi quốc gia đạt đến giai đoạn phát triển cao
và chủ yếu dựa vào đổi mới kinh doanh để thúc đẩy tăng trưởng. Và quan trọng nhất,
một nhà nước mạnh nên luôn luôn được cân bằng bởi một xã hội mạnh để đảm bảo
trách nhiệm giải trình và sự minh bạch của nhà nước.