Theo Học Hội Dân Chủ Việt
Nam
Trước hết cần phân biệt
vai trò của xã hội dân sự (XHDS) trong một nền dân chủ và vai trò của XHDS
trong một cuộc chuyển đổi dân chủ. Cho đến khoảng những năm 80, phần lớn các
nghiên cứu chỉ tập trung vào phân tích vai trò của XHDS trong một nền dân chủ.
Gabriel và Verba cho rằng mảng XHDS gắn với các hoạt động chính trị có vai trò
thiết yếu đối với nền dân chủ. Chúng làm tăng hiểu biết của người dân, giúp họ
bỏ phiếu hiệu quả hơn và tham gia nhiều hơn vào hoạt động chính trị, qua đó góp
phần giám sát hoạt động của nhà nước. Putnam đi xa hơn khi cho rằng ngay cả các
tổ chức XHDS không liên quan tới chính trị cũng có vai trò thiết yếu đối với nền
dân chủ. Lý do, theo ông, là vì XHDS tạo ra vốn xã hội (social capital), lòng
tin và các giá trị chung. Những nhân tố này lại được chuyển vào không gian
chính trị, tăng cường sự đoàn kết xã hội và nâng cao sự hiểu biết của công
chúng về mối liên thông của xã hội và các nhóm lợi ích trong nó. Larry Diamond
, khi phân tích vai trò của XHDS trong một nền dân chủ đang được củng cố, đã tổng
hợp và đưa ra các vai trò cốt lõi của XHDS như sau:
· Giới hạn,
giám sát và kiềm chế quyền lực của nhà nước dân chủ, trông chừng sự lạm dụng và
vi phạm pháp luật tiềm ẩn của bộ máy nhà nước, và đặt nó dưới sự giám sát của
công chúng. Một thí dụ thường được nhắc tới là vấn đề tham nhũng tràn lan thường
xảy ra trong các xã hội dân chủ non trẻ. Một XHDS năng động thường có tác dụng
kiềm chế sự lạm dụng chức quyền của quan chức và giúp hạn chế vấn nạn này.
· Hòn đá tảng của
xã hội dân chủ là ý thức tham gia quản lý xã hội của công chúng. Một XHDS năng
động có tác dụng khuyến khích công chúng tham gia chính trị, tăng tính hướng
đích và kỹ năng chính trị của họ trong chế độ dân chủ, và thúc đẩy nhận thức về
nghĩa vụ cũng như các quyền của công dân dân chủ. XHDS năng động còn tạo ra một
vũ đài cho sự phát triển các thành tố dân chủ khác, như khoan dung, ôn hoà, sẵn
sàng nhượng bộ, và tôn trọng các quan điểm khác biệt.
· XHDS tạo
ra các kênh phi đảng phái để biểu đạt, tập hợp và đại diện các lợi ích. Chức
năng này đặc biệt quan trọng trong việc đem lại khả năng tiếp cận quyền lực cho
các nhóm trước đây bị gạt ra lề như phụ nữ và người thiểu số. Các nền dân chủ tự
nó không bảo đảm sự công bằng và bình đẳng giữa tất cả các nhóm lợi ích. Chỉ bằng
các sức ép có tổ chức và lâu dài từ dưới lên, từ xã hội dân sự, thì quyền bình
đẳng xã hội và chính trị mới được đẩy mạnh; chất lượng, năng lực phản hồi và
tính chính thống của nền dân chủ mới được nâng lên.
· XHDS đa nguyên sinh động, đặc biệt là trong các nền kinh tế phát
triển cao, sẽ có xu hướng tạo ra một dải rộng các lợi ích đan chéo, và do đó
làm dịu bớt những sự phân cực cơ bản của xung đột chính trị. Khi các tổ chức dựa
trên các giai cấp mới hình thành và các phong trào hướng-vấn đề
(issue-oriented) khởi lên, chúng cũng lôi kéo các thành phần mới, cắt ngang qua
các đường ranh giới về đảng phái, sắc tộc, tôn giáo và lãnh thổ từng tồn tại từ
trước. Khi các nền độc tài bị lật đổ, những cấu trúc mới này có thể tạo ra một
loại hình công dân hiện đại xuyên thấu các chia rẽ về lịch sử và ngăn chặn sự
trỗi dậy của các xung lực dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi.
· XHDS còn có chức
năng tuyển lựa và đào tạo các lãnh tụ chính trị mới. Các nhà vận động, thông
qua một quá trình lãnh đạo và vận hành thành công các tổ chức XHDS, có thể học
được các kỹ năng và sự tự tin, những thứ trang bị sẵn sàng cho họ, để phục vụ
trong chính quyền và nền chính trị đảng phái. Họ học cách tổ chức và khơi cảm hứng
cho người khác, tranh luận, gây và quản lý quỹ, lập ngân sách, quảng bá nghị
trình, quản lý nhân sự, vận động sự ủng hộ, và xây dựng các liên minh. Cùng lúc
đó, công việc của họ nhân danh những người ủng hộ, hay nhân danh những thứ mà họ
thấy là thuộc về lợi ích công cộng, và sự minh biện của họ về các phương án
khác nhau, rõ ràng và thuyết phục, cho một chính sách, có thể đem lại cho họ sự
ủng hộ chính trị rộng lớn hơn.
· XHDS còn tham gia vaò quá trình giám sát bầu cử đã và đang giữ vai trò quyết định
trong việc ngăn chặn gian lận [trong bầu cử] và nâng cao niềm tin của cử tri,
khẳng định tính hợp hiến của kết quả, và trong nhiều trường hợp (như ở
Philippines năm 1986 và Panama năm 1989) chứng minh chiến thắng của phe đối lập
bất chấp sự gian lận của chính quyền đương nhiệm. Chức năng này đặc biệt quan
trọng trong các cuộc bầu cử bản lề như các cuộc bầu cử đã khai sinh các nền dân
chủ ở Chile, Nicaragua, Bulgaria, Zambia, và Nam Phi.
Cùng với những biến động
chính trị ở Đông Âu, Liên Xô, Nam Mỹ từ thập niên 80 và trào lưu dân chủ hóa
trên khắp thế giới, vai trò của XHDS trong một cuộc chuyển đổi dân chủ nhanh
chóng được nhìn nhận và phân tích. Tuy nhiên, nếu như các nền dân chủ trên khắp
thế giới có những đặc trưng căn bản giống nhau thì các cuộc chuyển đổi dân chủ
lại thường khác nhau về bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa và chính trị. Vì thế,
phần lớn các nghiên cứu về vai trò của XHDS trong chuyển đổi dân chủ thường tập
trung phân tích từng trường hợp cụ thể chứ không khái quát hóa thành một lý
thuyết tổng quát. O' Donnell và Schmitter và Václav Havel, là hai trường hợp hiếm
hoi.
Mô hình Václav Havel đưa
ra áp dụng chủ yếu cho các xã hội toàn trị cộng sản thời kỳ trước đổi mới. Theo
ông, xã hội cộng sản tồn tại trong một không gian giả tạo được vẽ ra bởi ý thức
hệ cộng sản và được bồi đắp bởi quá trình nhồi sọ lâu dài. Dần dần, những hoang
tưởng này trở thành một giả-hiện thực trong khi chân lý bị vùi lấp. Václav
Havel cho rằng mỗi khi có những cá nhân nhận ra bản chất thật của xã hội và
dũng cảm nói lên sự thật thì cái không gian giả tạo này sẽ bị chọc thủng. Khi
chân lý đến được với nhiều người cũng là lúc toàn bộ cái không gian giả-hiện thực
cộng sản bị vỡ vụn. Những nghiên cứu sau này gọi đây là quá trình giải thực.
Quá trình giải thực bóc trần bản chất thật của xã hội cộng sản và tạo thành bước
tiến đầu tiên trong quá trình dân chủ hóa.
Quá trình giải thực có
thể khởi động nhờ sự lên tiếng của các nhân vật kiệt suất, các nhà tư tưởng,
các tu sĩ (trường hợp cộng hòa Czech và Ba Lan). Nó cũng có thể được khởi động
nhờ quá trình cải cách kinh tế, đổi mới và mở cửa (trường hợp Việt Nam, Trung
Quốc).
Theo O' Donnel và
Schmitter, khi công chúng không còn bị huyễn tưởng về sự cao siêu của lý tưởng
cộng sản và sự ưu việt của nhà nước xã hội chủ nghĩa, thì quá trình tự do hóa
không gian xã hội được khởi động. Những người vận động cho một không gian xã hội
tự do hơn thường là các văn nghệ sĩ, nhà báo, giới luật sư, doanh gia, sinh
viên. Những đòi hỏi được đưa ra thường là nới rộng các quyền được biểu đạt ý kiến,
tư tưởng, quyền tự do sáng tạo, các đòi hỏi về xây dựng một xã hội thượng tôn
luật pháp, một nhà nước tam quyền phân lập, một nền hành chính gọn nhẹ, hiệu quả
và ít chịu sự tri phối của Đảng.
Các nhà vận động cho
nhân quyền cũng là những nhân vật đóng vai trò quan trọng trong quá trình này.
Sự trong sáng, vô vị lợi và các mục tiêu tranh đấu vì con người của họ thường
đem lại cho các nhà tranh đấu này sức mạnh đạo đức, sự ảnh hưởng rộng lớn trong
xã hội, đồng thời biến họ thành những đối thủ đáng sợ của chính quyền.
Tuy vậy, O' Donnel và
Schmitter cho rằng thách thức lớn nhất đối với nhà cầm quyền trong giai đoạn tự
do hóa này đến từ tầng lớp công nhân và lao động nghèo. Trong các quá trình cải
tổ kinh tế và xã hội, đây là nhóm thường bị gạt ra lề và vì thế thường là nhóm
có những đòi hỏi mạnh mẽ và dứt khoát nhất về các quyền lợi lao động, quyền hội
họp, tổ chức công đoàn, quyền mặc cả tập thể và các vấn đề liên quan khác.
Không ngạc nhiên là các chính quyền trong giai đoạn này thường để ý “chăm sóc”
kỹ lưỡng các nhóm này và tìm cách đè bẹp các nỗ lực tự tổ chức của họ.
Quá trình tự do hóa không
gian xã hội có diễn ra thuận lợi hay không tùy thuộc vào đặc điểm lịch sử-văn
hóa của từng xã hội cũng như đối sách của chính quyền. Trong một số trường hợp
Đông Âu trước đây như Cộng hòa Czech, Đông Đức và Hungary, mặc dù quá trình giải
thực được khởi động, tự do hóa xã hội đã không diễn ra suôn sẻ và vì thế các cuộc
chuyển đổi dân chủ ở đây thành công là vì các lý do khác chứ không phải do sức
ép từ bên dưới như ở Ba Lan hay các nước Mỹ Latinh.
Khi quá trình tự do hóa
không gian xã hội diễn ra thuận lợi, nó thường là một quá trình không có điểm dừng
cho tới khi thể chế chính trị của quốc gia được chuyển hẳn sang mô hình nhà nước
dân chủ. Những đòi hỏi từ các nhóm xã hội ban đầu có thể chỉ dừng lại ở việc nới
rộng các quyền trong khuôn khổ luật pháp có sẵn hoặc các vấn đề không động chạm
trực tiếp tới các vấn đề chính trị nhạy cảm sẽ dần dần mở rộng sang các vấn đề
chính trị cốt lõi và ngày càng thách thức quyền lực của nhà nước. Các phong
trào khởi lên từ tầng lớp công nhân, lao động nghèo và các nhóm bị gạt ra lề
khác sẽ ngày càng thu được động năng và có thể dẫn tới giai đoạn bùng nổ xã hội.
Theo O' Donnel và
Schmitter, trong giai đoạn bùng nổ xã hội, các phong trào grassroots, phong
trào công nhân, các cuộc vận động tôn giáo, nhân quyền, cùng với các nhóm văn
nghệ sĩ, trí thức, công chức tiến bộ có thể hợp lại và nhân danh “nhân dân” để
cùng theo đuổi một mục đích là dân chủ hóa. Trong trường hợp chính quyền không
đủ mạnh, hoặc không có sự thống nhất nội bộ, các cuộc bùng nổ xã hội thường dẫn
tới sự thay đổi về thể chế chính trị. Tuy nhiên, không phải bao giờ bùng nổ xã
hội cũng đưa đến sự xụp đổ của chính quyền (Nam Hàn, Indonesia, Thái Lan,
Chile, Brazil). Giới cầm quyền có thể đáp trả bằng những phản ứng cứng rắn và
nhấn chìm các cuộc đấu tranh của quần chúng trong biển máu (Miến Điện, Trung Quốc).
Cũng theo O' Donnel và
Schmitter, ở các xã hội mà quá trình tự do hóa được diễn ra lâu dài và thuận lợi
thì khả năng bùng nổ xã hội sẽ ít hơn. Trong nhiều trường hợp giai đoạn tự do
hóa diễn ra quá ngắn, sự bùng nổ xã hội có thể tạo ra những kỳ vọng thiếu thực
tế, lãng mạn và sau đó thường dẫn tới các đổ vỡ, thất vọng khi phải đối mặt với
hiện thực hậu chuyển đổi. Theo Thomas Goll , cả cộng hòa Czech và Ba Lan đều đã
gặp phải vấn đề này.
XHDS ở Đông Âu và Liên
Xô cũ
Trong giai đoạn chuyển đổi
những năm 80, đặc điểm chung cơ bản nhất của các xã hội này là sự cai trị của Đảng
cộng sản theo mô hình toàn trị. Mọi hình thức tự tổ chức của công chúng đều bị
coi là sự thách thức đối với quyền lực của nhà nước tối cao và đều bị ngăn chặn/đàn
áp. Trong một bối lịch sử lúc đó, các nhóm xã hội độc lập được hình thành trong
giai đoạn này thường có khuynh hướng nhắm tới việc tác động lên chính quyền nhằm
đòi hỏi các thay đổi về chính sách. Theo Weigle và Butterfield, các nhóm thường
sử dụng các phương pháp bày tỏ lợi ích không thuộc hệ thống nhà nước như các cuộc
biểu tình, tuần hành, và xuất bản ngầm. Ảnh hưởng của các chiến thuật như vậy đối
với chính sách là rất thất thường. Nó phụ thuộc một phần vào nhận thức của giới
lãnh đạo về khả năng bị tổn thương [của hệ thống]. Trong khi các lãnh đạo có thể
quyết định thi thoảng nhượng bộ đôi chút, họ không bao giờ chịu đưa ra các nhượng
bộ quan trọng hoặc chấp nhận hợp pháp hóa các nhóm xã hội độc lập cho đến khi họ
gặp phải các cuộc khủng hoảng sâu sắc.
Weigle và Butterfield nhận
thấy trong giai đoạn đầu, khi quyền lực nhà nước còn mạnh, các nhóm xã hội độc
lập thường tránh không va chạm trực tiếp với nhà nước bằng cách đặt ra các mục
tiêu tự giới hạn. Thí dụ, họ không theo đuổi các mục tiêu đe dọa sự lãnh đạo của
Đảng. Cũng trong giai đoạn này, những mầm mống của XHDS có sống sót và lớn mạnh
được hay không phụ thuộc nhiều vào các đặc điểm lịch sử - xã hội của từng nước
cũng như chính sách của giới lãnh đạo cộng sản. Thí dụ XHDS đã phát triển tốt ở
Ba Lan nhưng lại không mấy thành công ở Đông Đức hay Liên Xô. Trong trường hợp
XHDS có điều kiện lớn mạnh như ở Ba Lan, các nhóm XHDS dần dần mở rộng các mục
tiêu đấu tranh của mình, thách thức tính chính đáng của nhà nước cộng sản, đòi
hỏi sự tồn tại của họ được thừa nhận về mặt pháp lý, và cuối cùng là đòi hỏi được
tham gia vào quá trình ra quyết định xã hội. Phản ứng của các nhà nước toàn trị
trong giai đoạn này thường là sự xen kẽ giữa đàn áp và nhượng bộ. Trong một vài
trường hợp, XHDS đã lớn mạnh tới mức các phong trào xã hội khởi phát từ nó đã
buộc chính quyền phải lùi bước (Ba Lan). Trong một số trường hợp khác, XHDS
không phải là lý do trực tiếp dẫn đến sự xụp đổ của nhà nước toàn trị (Đông Đức,
Liên Xô).
XHDS ở Trung và Nam Mỹ
Cũng trong cùng thời kỳ
70s-80s, các chính thể độc tài quân sự tồn tại phổ biến ở Nam Mỹ. Tới khoảng cuối
những năm 80s và đầu 90s, làn sóng dân chủ hóa đã lan tỏa khắp khu vực đưa hầu
hết các quốc gia trong vùng trở thành các xã hội dân chủ. Về mặt bối cảnh phát
triển XHDS, khác biệt có lẽ cơ bản nhất giữa Đông Âu và Nam Mỹ là: (1) các XHDS
ở Đông Âu bị loại khỏi vòng pháp luật và bị đàn áp mạnh mẽ, trong khi các XHDS ở
Nam Mỹ hoạt động trong môi trường mặc dù vẫn bị giới hạn những đã tự do hơn nhiều,
(2) các phong trào khởi lên ở Đông Âu đều là các phong trào đấu tranh hòa bình,
trong khi ở Nam Mỹ có tồn tại cả các trào lưu đấu tranh hòa bình lẫn các phong
trào đấu tranh du kích và các phong trào thân cộng sản.
Nếu tách riêng các phong
trào dân sự hòa bình, phi cộng sản để nghiên cứu thì như Joe Foweraker viết,
các phong trào này có thể chia thành 2 mảng: (1) hướng tới các đòi hỏi vật chất
như phân phối kinh tế, dịch vụ công cộng hay an sinh xã hội, và (2) hướng tới
các đòi hỏi về quyền chính trị và pháp lý (bình đẳng trước pháp luật, quyền đất
đai, quyền lao động, quyền bỏ phiếu). Trong khi các phong trào thuộc mảng thứ
nhất thường bị chính quyền dễ dàng hóa giải, chia rẽ và cô lập bằng cách ban
phát các gói lợi ích hay ân sủng cho một số ít người, thì các phong trào thuộc
mảng thứ 2 bền vững hơn nhiều vì các đòi hỏi của nó mang tính phổ quát và đồng
nhất hơn. Chính mảng thứ 2 đã tạo nên một thách thức ngầm cho các chế độ độc
tài trong giai đoạn này.
Các nghiên cứu về Brazil
và Chile cho thấy những phong trào có nội dung chính trị (mảng 2) tăng dần cường
độ và ảnh hưởng trong suốt giai doạn độc tài. Ở Brazil, các đòi hỏi về chính trị
đã lan tỏa nhanh chóng trong chiến dịch diretas já năm 1984 và đạt đến đỉnh điểm
trong thời kỳ chuyển đổi từ quân sự sang dân sự hồi năm 1985. Ở Chile, các
phong trào đấu tranh chính trị đã lấn át tất cả các mảng khác của XHDS tính từ
những năm đầu 80 trở đi, đạt đến cực điểm trong những ngày đấu tranh toàn quốc
năm 1984. Mặc dù có cùng một mẫu hình phát triển, ảnh hưởng thực sự của các
phong trào này lên việc thay đổi chính sách ở Brazil và Chile lại rất khác
nhau. Thí dụ ở Brazil, chính quyền đã phản ứng bằng cách nới lỏng từng bước các
quyền công dân, trong khi đó ở Chile, các quyền này vẫn bị hạn chế cho đến khi
có cuộc chưng cầu dân ý toàn quốc năm 1988.
KHẢO SÁT VÀ ĐÁNH GIÁ XHDS
TẠI VIỆT NAM
I. TÌNH HÌNH TỔ CHỨC
XHDS TẠI VN
Nhiều nhà nghiên cứu về
dân chủ đã chứng minh mối tương quan giữa XHDS, tỉ lệ dân chúng tham gia sinh
hoạt hội đoàn, và việc xây dựng và củng cố những tập quán và định chế dân chủ.
Vì vậy việc khảo sát và đánh giá XHDS tại Việt Nam sẽ giúp chúng ta tìm hiểu lịch
sử phát triển của XHDS tại VN, nhận ra được những ưu và khuyết điểm của mô hình
và hoạt động của các tổ chức XHDS, nhận định về vai trò của XHDS VN trong tiến
trình dân chủ hóa, và cuối cùng đề ra những kế hoạch vận dụng XHDS trong tiến
trình này.
Về mặt lý luận cần phân
biệt những hình thức tổ chức khác nhau hiện diện tại Việt Nam mà giới học giả
Tây Phương thường gộp chung vào danh xưng tổ chức XHDS. Chẳng hạn, những tổ chức
quần chúng do đảng CS lập nên nay lại được gọi chung là tổ chức quần chúng (MO)
hay thậm chí là tổ chức phi chính phủ (NGO). Mặc dầu tại VN các tổ chức đều chịu
sự chỉ huy hay chi phối của chính quyền ở những mức độ khác nhau, các học giả
Tây Phương vì những lý do khác nhau, trong đó kể cả vì vai trò quan trọng của
các tổ chức này trong đời sống xã hội Việt Nam – đặc biệt trong việc tập hợp và
phản ảnh mối quan tâm và cung cấp một số dịch vụ cho nhân dân – nên họ thường
nghiên cứu chung những tổ chức này như một phần của XHDS.
Mặc dầu cho tới nay quan
điểm của nhiều chính quyền độc tài toàn trị và giới trí thức học giả thân chính
quyền vẫn chủ trương khái niệm và hoạt động xã hội dân sư như một yếu tố của xã
hội dân chủ là xa lạ và mang tính ngoại nhập đối với xã hội Á châu, các học giả
độc lập đều cho rằng hoạt động XHDS vốn phù hợp với văn hóa Á châu.
GS Isagani Serrano hay
Emma Pirro chẳng hạn cho rằng nhũng giá trị và hoạt động của những định chế cộng
đồng trong xã hội Á châu có nhiều tương đồng với XHDS. Những hoạt động này thường
nhắm tới những quan tâm chung không được giải quyết tốt bởi đơn vị cá nhân, gia
đình, hay dòng họ, chẳng hạn như sản xuất, trao đổi, tang tế, an ninh. Hình thức
hội tương trợ, gọi là gotong royong tại Indonesia và bayanihan ở Philippines, rất
phổ biến tại các quốc gia này là một dạng của XHDS. Tại Thái Lan có đến hang
ngàn hội tang nghi, một hình thức của hội tương trợ.
Quan điểm chung của những
nhà nghiên cứu Việt Nam là hình thái XHDS xuất hiện tại Việt Nam khá sớm như một
phần của đời sống phong tục và văn hóa. Đặc trưng căn bản của các hình thức tổ
chức này là chúng đều dựa trên sự liên kết tự nguyện của nông dân, làm môi trường
thực tập cho thành viên về đời sống công cộng của việc làng. Thậm chí một nhà
nghiên cứu, Bùi Quang Dũng, đã từ đó rút ra kết luận nông dân Việt Nam vốn
“không phải là người nông nô hay người nông dân bán tự do trong các lãnh địa
trung cổ, mà là ‘người nông dân tự do’ sống giữa một xã hội gồm những tiểu nông
tư hữu, trong những làng xã ít nhiều có tính tự trị trong quan hệ với chính quyền
quân chủ.”
Ở Việt Nam, những hình
thái XHDS đã xuất hiện trong đời sống xã hội đặc biệt là làng xã từ xa xưa, mà
cho đến trước năm 1945 chúng ta vẫn thấy nó tồn tại bên cạnh các hình thức hội
đoàn tại các thành thị mang ảnh hưởng của Pháp. Các tổ chức này có thể kể: (a)
Lãnh vực tín ngưỡng/tôn giáo - hội đi chùa, nhóm hộ niệm, hội lên đồng, đoàn tế
lễ, nhà thờ họ; (b) lãnh vực tương trợ tù thiện - hội đồng hương, đồng tỉnh, hội
ái hữu cựu học sinh, sinh viên; (c) lãnh vực ngành nghề: phường, làng nghề; (d)
lãnh vực tài chánh kinh tế - hụi, vần công/đổi công; (e) lãnh vực văn hóa: - hội
thi văn, đoàn văn nghệ, đội thể thao, đá gà, đua chim. Tại Việt Nam dưới chế độ
quân chủ và sau này là thuộc địa, những hình thái XHDS trong lãnh vực chính trị
phát triển rất giới hạn vì vai trò toàn quyền của nhà vua cũng như của chính
quyền thuộc địa. Nếu am tường tình hình xã hội Việt Nam, chúng ta đều biết quá
trình hình thành các tổ chức quần chúng này vốn phát xuất từ các phong trào hiệp
hội vốn do DCS lúc đó là Việt Minh đã tổ chức vào những năm 40-50 cho mục đích
đoàn ngũ hóa nhân dân phục vụ kháng chiến và sau đó là phục vụ xây dựng CNXH tại
VN. Các hội đoàn được thành lập do sự chỉ đạo và lãnh đạo trực tiếp của chính
quyền như hội phụ lão yêu nước, phụ nữ yêu nước, trí thức yêu nước, nhi đồng
yêu nước xuất hiện ồ ạt. Sau năm 1975 một số hội đoàn tiếp tục tồn tại bên cạnh
một số tổ chức ngoại vi khác cũng được thành lập tại miền Nam với mục đích đoàn
ngũ hóa để tiện bề kiểm soát dân chúng trong vùng mới chiếm đóng.
Theo CIVICUS, VN hiện
nay có khoảng 140 ngàn hội cộng đồng, 3 ngàn hợp tác xã hoạt động theo bộ luật
mới trong các lãnh vực nông ngư nghiệp, xây dựng, vệ sinh và sức khỏe. Có khoảng
2 trăm tổ chức từ thiện và 1 ngàn NGO địa phương có đăng ký. Đây chì là những
con số tiêu biểu với đà phát triển nhanh chóng trong đời sống tổ chức hiệp hội
tại Việt Nam. Sự ra đời của các tổ chức tại Việt Nam đều phải được nhà nước
công nhận và thể chế hóa. Tuy nhiên vẫn xuất hiện ở nông thôn nhiều hội, các
đoàn thể tự nguyện, "phi chính thức" và các phong trào xã hội.
Về quá trình xuất hiện
những tổ chức này, bàn báo cáo của CIVICUS cho biết các Tổ chức quần chúng (MO)
(chẳng hạn Hội Liên hiệp Phụ nữ, Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh
và Hội Nông dân) với cơ sở rộng rãi các tổ chức ở các cộng đồng. Các tổ chức
này gắn liền với Đảng và Nhà nước ở cấp trung ương, nhưng lại đóng vai trò bán
độc lập tại địa phương. Các Hiệp Hội Chuyên Gia như Liên Hiệp các Hội Khoa học
và Kỹ Thuật thì được hình thành vào đầu thập niên 1980, được thành lập hầu như
trên khắp cả nước nhưng tập trung về thành thị hơn là các Tổ chức quần chúng.
Các Tổ chức xã hội mới và các NGO phát triển được hình thành sau nghị định thiết
lập các tổ chức khoa học và kỹ thuật bất vụ lợi vào năm 1992, chủ yếu đóng tại
các thành phố nhưng lại thường thực hiện các dự án ở nông thôn. Cuối cùng, các
Tổ chức Cơ sở Cộng đồng (CBO) mới hình thành vào giữa thập niên 90 như là các
nhóm không chính thức ở các vùng nông thôn.
Bản đánh giá của CIVICUS
sơ khởi vào tháng 7 năm 2005 cho biết là bắt đầu giữa thập niên 90, bầu không
khí chung là chuyển từ việc kiểm soát toàn diện của nhà nước trong hoạt động
phát triển tới việc chấp nhận sự đóng góp của các nhân tố phát triển khác, tạo
điều kiện cho sự chấp nhận không gian XHDS mặc dù khái niệm này vẫn còn nhạy cảm
về mặt chính trị.
XHDS tại Việt Nam bao gồm
nhiều dạng tổ chức khác nhau với đầu này là các tổ chức cộng đồng cho đến đầu
kia là các tổ chức nghiên cứu và tổ chức phi chính phủ quốc tế (INGO). Giữa hai
đầu này là các tổ chức quần chúng, hợp tác xã, hội từ thiện, và các tổ chức địa
phương.
Vai trò của các tổ chức
quần chúng (MO) truyền thống đang thay đổi trong bối cảnh phát triển nhanh
chóng của Việt Nam. Theo CIVICUS những tổ chức quần chúng này hoạt động hiệu quả
trong việc cung cấp dịch vụ với việc tỏa mạng xuống mọi khu vực quốc gia tuy
nhiên chúng đã không đạt được kết quả trong việc tăng gia trách nhiệm của chính
quyền địa phương. Những tổ chức quần chúng này phần lớn đều được tài trợ bởi
DCS mặc dù hiện nay họ đang hợp tác nhiều hơn với các INGO trong việc thực thi
các đề án phát triển. Các Hiệp Hội Chuyên Gia như các viện nghiên cứu thông thường
hoạt động trong khung của chính phủ và các bộ. Tuy hiện nay chúng không đóng
vai trò tiếng nói độc lập đưa ra các phân tích độc lập mang tính thay thế và
góp phần vào việc hoạch định chính sách dựa trên các chứng cứ, chúng sẽ có một
vai trò quan trọng trong tương lai. Các tổ chức phi chính phủ (NGO) còn lại
tham gia hoạt động trễ nhất và đang phải định hình bản sắc trong khi tiếp tục mở
rộng chức năng và tầm hoạt động của mình với những khó khăn về tài lực, khả
năng, và khung pháp lý. Các tổ chức này thường tập trung tại đồng bằng sông Hồng
và sông Cửu Long. Một số bắt đầu phát triển vào các vùng nghèo của quốc gia. Một
số vùng khá giả có các tổ chức tiết kiệm và tín dụng nhỏ. Các hội từ thiện chủ
yếu phục vụ những khu nghèo trong đô thị và nhận đa số tài trợ từ các mạnh thường
quân địa phương. Tuy nhiên cơ cấu và ảnh hưởng của các hội này tại vùng cao
nguyên rất hạn chế.
Tại Việt Nam các tổ chức
phi chính phủ quốc tế (international non-governmental organizations – INGO)
đóng vai trò của các NGO tại các nước đang phát triển khác trong vùng Nam Á. Phần
lớn chúng làm nhiệm vụ thực thi các đề án phát triển và thử nghiệm các công
trình xóa đói giảm nghèo. Gần đây có xu hướng là các INGO hoạt động qua các NGO
địa phương (local ~ - LNGO) của Việt Nam. Điều này giúp chúng có điều kiện phát
triển khả năng của các LNGO trong việc thực thi dự án phát triển đồng thời gia
tăng tầm họat động của chúng. Một vài tổ chức đã thành công trong việc tham gia
vào tiến trình xây dựng chính sách trong khi một số tổ chức khác thì tham gia
vào trong việc ủng hộ một số vấn đề xã hội.
Bản tường trình về tình
trạng XHDS toàn cầu của CIVICUS nhận định tại VN hoạt động của các tổ chức nói
trên hiện diện trong một môi trường khiếm khuyết vì quan hệ chặc chẽ với chính
quyền và ảnh nưởng lên chính trị và xã hội rất hạn chế. Nguyên do chủ yếu là
“việc không có khả năng ảnh hưởng tới chính sách đường lối của chính quyền cũng
như việc bắt chính quyền cũng như lãnh vực kinh doanh tư nhân chịu trách nhiệm
cho những quyết định hay hành động của mình.” Các tổ chức này tại VN chỉ “tập
trung vào việc xóa đói giảm nghèo hơn là việc cổ võ cho những giá trị mang tính
nhạy cảm như sự minh bạch và việc bảo vệ môi trường.”
Về cơ cấu, các tổ chức tại
VN được đánh giá là phát triển rộng với sự tham gia của nhiều thành phần xã hội
trong nhiều dạng tổ chức khác nhau. Tuy nhiên mặc dầu theo khảo sát có tới 65
triệu người tham gia vào các tổ chức, sự tham gia này đa số chỉ có tính chức
hình thức; đặc biệt là con số đông đảo trong các tổ chức quần chúng như Hội Phụ
Nữ có tới 12 triệu. Mỗi dạng tổ chức có một vùng và lãnh vực hoạt động khác
nhau. Các tổ chức quần chúng nối chính quyền trung ương với địa phương. Các tổ
chức LNGO tập trung vào thành thị cung cấp dịch vụ cho các thành phần xã hội bị
thiệt thòi như bệnh nhân AID/SIDA hay nạn nhân chất độc màu da cam. Các tổ chức
cơ sở cộng đồng tập trung cung cấp các dịch vụ nhu yếu cho vùng sâu vùng xa,
cũng như các nhóm văn hóa và giải trí cũng đang phát triển. Tuy nhiên việc nối
kết giữa các tổ chức rất manh mún, thiếu khả năng, nguồn lực, và hạ tầng cơ sở
kém sẽ ảnh hưởng tới sự tồn tại của các tổ chức này.
Về môi trường – bối cảnh
chính trị, pháp lý, kinh tế- và văn hóa-xã hội – cho hoạt động của tổ chức
XHDS, bản báo cáo của 2007 của CIVICUS cho thấy những thuận lợi trong các nhân
tố kinh tế- và văn hóa-xã hội song song với những hạn chế về chính trị và pháp
lý. Về chính trị mặc dù có những lập luận về tính chất khác biệt trong hệ thống
chính trị và các giá trị truyền thống của VN, việc hạn chế về các quyền tự do
căn bản đã hạn chế sự chủ động của nhân dân. Nạn tham những tràn lan và ngành
tư pháp vẫn bị điều khiểu bới đảng cầm quyền cho thấy môi trường chính trị vẫn
còn cần cải tiến rất nhiều. Luật lệ phức tạp, giới hạn và tốn thời gian đã gây
cản trở cho sự xuất hiện của các tổ chức mới. Mặc dù các điều kiện kinh tế- và
văn hóa-xã hội có nhiều thuận lợi một phần do sự phát triển kinh tế, phần khác
do đặc tính văn hóa Khổng Mạnh, việc chồng chéo giữa chính quyền, đảng, và nhiều
tổ chức gọi là XHDS bắt chúng ta phải xem các tổ chức này như một khu vực còn
nhiều tranh cãi trong không gian chính quyền. Tuy vậy CIVICUS cũng nhận xét là
những hoạt động gọi là XHDS đang ngày càng xuất hiện nhiều, thể hiện qua việc
phản đối ngấm ngầm tinh vi vì sự bất mãn đối với hiện trạng xã hội.
Về khả năng thực thị và
cổ võ cho những giá trị tích cực, một mặt các tổ chức XHDS tại VN đã đạt được một
số thành quả trong việc xóa đói giảm nghèo, bao dung, và bình đẳng phái tính,
những giá trị khác như dân chủ, minh bạch hay bất bạo động chỉ được thực hiện rất
giới hạn trong phạm vi một số tổ chưc, không kế tới các tổ chức quần chúng vôn
theo sự chỉ huy tập trung, chứ không nhân ra ngoài xã hội. Những giá trị mà
chính quyền đang đặt trọng tâm như kinh tế, xã hội, hay từ thiện thì được phát
triển trong khi những giá trị khác nhất là dân chủ và nhân quyền thì vẫn là những
vấn đề nhạy cảm và bị các tổ chức XHDS VN tránh né.
Về vai trò của các tổ chức
XHDS VN trong chính quyền và xã hội, bên cạnh việc thân cận chính quyền của các
tổ chức quần chúng và cung cấp dịch vụ cho các thành phần bất hạnh trong xã hội
tương đối thành công của các tổ chức còn lại, vai trò của khu vực này rất là giới
hạn trong vai trò ảnh hưởng chính sách hay kiểm sóat chính quyền và lãnh vực
kinh doanh tư nhân. Mặc dù vậy, hiện nay đã xuất hiện lác đác một số vụ biểu
tình về môi trường hay chống lại việc ngược đãi nguời lao động. Ở cấp địa
phương các tổ chức này tương đối có ảnh hưởng hơn nhất là trong việc cung cấp
các dịch vụ cho thành phần bất hạnh. CIVICUS có một nhìn tương đối lạc quan về
Đạo luật Dân chủ Cơ năm 1998 cho rằng qua đó người dân được quyền tham dự nhiều
hơn vào các dự án phát triển lớn từ đó gia tăng ảnh hưởng lên đời sống hàng
ngày của họ.
Về hoạt động của các tổ
chức phi chính phủ quốc tế (INGO) hiện diện tại Việt Nam, bản báo cáo “Những
bài học từ một thập niên kinh nghiệm: Phân tích chiến lược về phương pháp và hoạt
động của INGO tại VN 1990-1999” của Trung Tâm VUFO-NGO đã nghiên cứu 19 tổ chức
XHDS để tìm hiểu về ảnh hưởng của hoạt động của những tổ chức này và hiệu quả của
những phương pháp mà họ thực hiện, tập trung và các lãnh vực phát triển vùng
xa, phát triển đô thị, dinh dưỡng, HIV/AID, giáo dục cơ sở, và kinh doanh và
tài trợ cỡ nhỏ.
Theo bản báo cáo này
INGO đã có những đóng góp đáng kể trong nhiều lãnh vực ngoại trừ lãnh vực phát
triển đô thị. Chúng chỉ chú ý và tiếp cận được thành phần tương đối nghèo và tầng
lớp trung lâu nhưng không tiếp cận được thành phần nghèo. Tương tự, hiệu quả và
ảnh hưởng của những đề án đối với những đối tượng dân tộc ít nguời còn bị giới
hạn vì sự thiếu hiểu biết về ngôn ngữ, văn hóa và tập quán của đối tượng này.
Những đề án vẫn còn bỏ mặc những thành phần khiếm tật, già cả, không đăng ký và
không nơi cư trú ngoại trừ những tổ chức mà đối tượng chính là những thành phần
này.
Những đề án nhỏ mà trong
đó hướng tiếp cận bị ảnh hửơng bởi vốn đầu tư nhỏ, mang tính thử nghiệm, phương
pháp vận động từ dưới lên và chỉ dựa vào nông dân đã giới hạn sự bành trướng và
ứng dụng kỹ thuật tiên tiến và cản trở thành quả đạt được. Việc này dẫn tới việc
giảm thiểu ảnh hưởng của các INGO lên những chương trình, chính sách, và hoạch
định của chính phủ. Quan hệ giữa các INGO và những đối tác địa phương vẫn còn bị
giới hạn trong 10 năm qua. Những điểm tiêu cực cũng còn tồn tại trong quan hệ
giữa nhân viên quốc tế và bản xứ cùng làm việc chung trong các INGO. Nhân viên
địa phương được yêu cầu phải đáp ứng những yêu cầu trong các công trình nhưng
không được huấn luyện đầy đủ. Việc huấn luyện chỉ có tính cách ngắn hạn, ít tổ
chức tập trung một cách chiến lược vào việc đào tạo lâu dài. Việc thay đổi liên
tục đại diện của INGO làm ảnh hưởng đến quan hệ đối tác, thay đổi nhân viên địa
phương.
II. NHẬN ĐỊNH
Rõ ràng trước đây khái
niệm và thậm chí cụm từ XHDS là một vấn đề nhạy cảm, vì nó vốn được định nghĩa
như một thực thể xã hội độc lập, chứ chưa nói đến kiểm soát và đối kháng với
chính quyền, nhưng bây giờ mọi người đã có thể công khai thảo luận vấn đề này tại
Việt Nam.
Nếu ai thuộc lịch sử Việt Nam cận đại đặc biệt về phong trào Việt Minh và những năm đầu của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, thì đều biết về những phong trào và tổ chức quần chúng do đảng và sau này là do nhà nước CS lập lên để phục vụ các mục tiêu giai đoạn của mình, quan trọng nhất là việc kiểm soát đời sống tòan dân. Sự khác biệt nếu có giữa những phong trào và tổ chức thời đó và bây giờ là (a) sự lãnh đạo kín đáo và gián tiếp hơn của đảng, (b) có thêm nguồn tài trợ phát xuất từ nước ngoài, (c) đối tượng và mục tiêu phục vụ rộng rãi hơn nhắm đáp ứng những nhu cầu xã hội mà nhà nước không cáng đáng nổi, và điều đáng mừng hơn cả là (d) nhu cầu và ý thức của các thành viên của các tổ chức này trong việc khẳng định sự tự chủ của tổ chức của mình – quan hệ không còn thuần túy một chiều nhưng đã bắt đầu có dấu hiệu hai chiều đối thoại. Tuy nhiên đùng nghĩ đây là thiện í của nhà cầm quyền mà thực ra là một bước chẳng đặng đừng trong thực tế phát triển xã hội và xu thế hội nhập toàn cầu.
Nếu ai thuộc lịch sử Việt Nam cận đại đặc biệt về phong trào Việt Minh và những năm đầu của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, thì đều biết về những phong trào và tổ chức quần chúng do đảng và sau này là do nhà nước CS lập lên để phục vụ các mục tiêu giai đoạn của mình, quan trọng nhất là việc kiểm soát đời sống tòan dân. Sự khác biệt nếu có giữa những phong trào và tổ chức thời đó và bây giờ là (a) sự lãnh đạo kín đáo và gián tiếp hơn của đảng, (b) có thêm nguồn tài trợ phát xuất từ nước ngoài, (c) đối tượng và mục tiêu phục vụ rộng rãi hơn nhắm đáp ứng những nhu cầu xã hội mà nhà nước không cáng đáng nổi, và điều đáng mừng hơn cả là (d) nhu cầu và ý thức của các thành viên của các tổ chức này trong việc khẳng định sự tự chủ của tổ chức của mình – quan hệ không còn thuần túy một chiều nhưng đã bắt đầu có dấu hiệu hai chiều đối thoại. Tuy nhiên đùng nghĩ đây là thiện í của nhà cầm quyền mà thực ra là một bước chẳng đặng đừng trong thực tế phát triển xã hội và xu thế hội nhập toàn cầu.
Hiện nay nhà nước VN chỉ
cho phép những tổ chức thuộc XHDS làm việc trong khuôn khổ và chính sách của
nhà nước, thực thi những nghị quyết của chính phủ đưa ra khi những mục tiêu hỗ
trợ của các nhà tài trợ nước ngoài phù hợp với các nghị quyết này. Ở một chừng
mực nào đó chính quyền có thể chấp nhân được một vài vận động mang tính xin
phép của các tổ chức XHDS nhân danh đối tượng phục vụ. Tuy nhiên như đã nói ở
trên các tổ chức XHDS tại Việt Nam thường tránh né các vấn đề pháp lý và chính
trị. Phát biểu của ông Đặng Ngọc Dinh, Viện trưởng Viện Những Vấn đề Phát triển,
đã cho thấy quan điểm của nhà cầm quyền VN đối với XHDS. Ông Dinh cho rằng xã hội
dân sự nên tập trung trước hết vào việc tăng cường quyền lợi của người dân và
phát triển xã hội kinh tế, thay vì chú tâm đến vấn đề mà ông ta gọi là cạnh
tranh chính trị.
Một điều đáng chú ý là
các nhân viên của các tổ chức NGO tại Việt Nam, đặc biệt là nhân viên Việt Nam,
cũng tin tưởng vào phương thức thỏa hiệp với chính quyền là tốt nhất để đạt được
hiệu quả dù về thực tiễn nhiều khi quyền lợi của của chính quyền và nhân dân
mâu thuẫn với nhau. Những nhân viên này xem vai trò của mình như những nhà hòa
giải chuyên nghiệp và có trình độ để giải quyết vấn đề thông qua việc tạo thông
cảm giữa nhân dân và các phía còn lại, kể cả thành phần kinh doanh. Lối suy
nghĩ và phương thức làm việc này được cho là phù hợp với tinh thần hòa đồng của
văn hóa Việt Nam, hoặc mang tính thực dụng khi mang lại kết quả, nhưng nếu nhìn
từ một góc độ tập quán và tâm lý, nó là sự nối dài của quan hệ “xin cho” giữa
nhân dân và chính quyền. Với chính quyền, những nhân viên NGO này vẫn tiếp tục
đóng vai trò đại diện người dân “van xin” quyền lợi vốn là của nhân dân, hơn là
mạnh dạn đấu tranh cho quyền lợi người dân như các tổ chức phi chính phủ XHDS tại
các nước khác đang làm.
Với sự tác động của các
INGO và ý thức tự chủ càng ngày càng cao của nhân dân, một mảng đời sống xã hội
bao gồm nhiều lãnh vực khác nhau đã dần dần trở nên độc lập với chính quyền. Nếu
trước kia mảng đời sống này được xem là chui, sau đó là ngoài luồng, thì nay có
thể xem nó như một bộ phận XHDS tồn tại và ngày cảng phát triển. Khi nhân dân bắt
đầu tập hợp lại cho những mục tiêu lợi ích chung thì tổ chức XHDS hình thành bất
kể chúng có đăng ký hoạt động chính thức hay không. Mặc dù hiện nay các tổ chức
này chỉ đa phần tập trung vào các lãnh vực tương trợ hay từ thiện và giới hạn
hoạt động trong việc cung cấp dịch vụ, nhu cầu phát triển và nâng cao hiệu quả
hoạt động sẽ bắt buộc chúng nghĩ đến khả năng tác động vào việc hoạch định
chính sách địa phương và quốc gia cũng như kiểm tra hoạt động của chính quyền
và bộ phân kinh doanh trong tinh thần “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra” thực sự trong một tương lai không xa.
Nguồn:
https://www.danluan.org/tin-tuc/20120930/xa-hoi-dan-su-va-dan-chu