Lane Kenworthy
Trần Ngọc Cư dịch
Dẫn nhập của người dịch
Dân chủ xã hội đã được giới thiệu
nhiều lần, nhưng phần lớn tập trung vào các mô hình dân chủ xã hội Bắc Âu.
Trong tiểu luận sau đây, Lane Kenworthy phác họa một hành trình chậm rãi nhưng
vững chắc của Hoa Kỳ trên con đường tiến tới một tương lai dân chủ xã hội. Theo
tiên đoán của Kenworthy, tương lai này sẽ nằm ngay trong thế kỷ 21 và “không cực
kỳ khác xa hiện tại”, mà chỉ “trở thành một phiên bản tốt hơn của chính mình hiện
nay”.
Nền kinh tế hậu công nghiệp đặt
cơ sở trên công nghệ thông tin và toàn cầu hóa đã tác động mạnh lên xã hội Mỹ.
Việc đưa các cơ sở sản xuất ra nước ngoài và sự chuyển đổi ráo riết từ một nền
kinh tế chế tạo sang kinh tế dịch vụ đã gây xáo trộn chóng mặt cho giai cấp
công nhân, kể cả công nhân da trắng. Khủng hoảng này đòi hỏi một loạt chương
trình xã hội nhằm giúp giới công nhân điều chỉnh lại nghề nghiệp và tái tham
gia nền kinh tế mới.
Một thuộc tính khác của kinh tế hậu
công nghiệp là tình trạng bất bình đẳng ngày càng trở nên nghiêm trọng. Kể từ
thập niên 1970, lợi tức của một thiểu số rất nhỏ ở những nấc thang kinh tế cao
nhất đã tăng lên nhiều lần, trong khi lợi tức của giai cấp trung lưu và thấp
hơn, nhích lên không đáng kể. Lời than phiền được nghe nhiều nhất gần đây là, một
phần trăm dân số Hoa Kỳ gồm những người giàu nhất đang nắm trong tay 23 phần
trăm của cải cả nước.
Cuộc nổi dậy của Phong trào Chiếm
phố Wall năm 2012 là một cảnh báo về khả năng một cuộc xung đột giai cấp và khủng
hoảng xã hội có thể diễn ra . Để chặn đứng khả năng này từ trong trứng nước,
dân chủ xã hội sẽ là một đồng thuận tất yếu giữa cánh Hữu và cánh Tả của chính
trị Mỹ.
Từ tháng Ba 2010, khi Tổng thống
Mỹ Barack Obama phê chuẩn Dự luật Cải tổ Y tế, đạo luật này đã nằm ở vị trí
trung tâm của chính trị Mỹ. Các nhà hoạt động trong phong trào Tiệc Trà [i] và các đồng minh của họ trong Đảng Cộng hòa đã cố gắng gần
như bằng mọi cách để ngăn chặn luật này. Hạ viện Mỹ do Đảng Cộng hòa kiểm soát
đã biểu quyết hơn 40 lần nhằm hủy bỏ hay cắt giảm ngân sách thực thi nó, và
tháng Mười vừa qua Hạ viện đã cho phép chính phủ liên bang đóng cửa một phần
trong một toan tính nhằm chặn đứng hay trì hoãn việc thực thi luật này. Cuộc
tranh luận xoay quanh Luật cải tổ Y tế chưa có dấu hiệu sớm chấm dứt.
Obamacare, như luật này thường được
gọi, là cải tổ hệ thống y tế Hoa Kỳ có ý nghĩa nhất trong nửa thế kỷ nay. Mục
đích của nó là gia tăng số người Mỹ có bảo hiểm y tế, cải tiến phẩm chất các
chương trình bảo hiểm y tế, và làm chậm bớt mức gia tăng các chi phí y tế.
Nhưng cuộc tranh cãi về đạo luật không chỉ giới hạn trong chính sách y tế, và
tính cách gay gắt của cuộc xung đột không chỉ do sự phân cực đảng phái gây ra.
Obamacare đã trở thành chiến trường chính trong một cuộc chiến đang tiếp diễn
giữa phe phóng khoáng (liberals) và phe bảo thủ (conservatives) về tầm vóc và
phạm vi hoạt động của chính phủ Hoa Kỳ, một tranh chấp có gốc rễ từ cuộc Khủng
hoảng Kinh tế 1929-1930 và chính sách New Deal (Tái Phân phối).
Những người phản đối các sáng kiến
của Franklin Roosevelt đã phải im tiếng khi các cải tổ của chính sách New Deal
trở thành định chế dưới thời Truman và Eisenhower, và nhà nước phúc lợi Hoa Kỳ
đã tiến thêm một bước nhảy vọt nữa dưới thời Lyndon Johnson, mà nghị trình Đại
Xã hội (Great Society) của ông đã nới rộng trợ cấp công cho người nghèo và tạo
ra các chương trình bảo hiểm y tế do chính phủ điều hành, đó là Bảo hiểm y tế
cho người nghỉ hưu (Medicare [ii]) và Trợ giúp y tế cho người nghèo (Medicaid [iii]). Nhưng những thập niên sau đó ít thấy những bổ sung quan trọng,
mà còn gặp phải một số thất bại đáng kể, chẳng hạn thất bại của Tổng thống Bill
Clinton trong nỗ lực cải tổ y tế năm 1994.
Việc thông qua Obamacare đã gây
nhiều tranh cãi, một phần vì nó có vẻ báo hiệu một giai đoạn mới trong xu thế
trực tiếp thay đổi xã hội của chính phủ (government activism), khiến một số
nhân vật bảo thủ chống đối nó như một bước ngoặt khuynh tả có tính quyết định,
không gì lay chuyển được. “Chính vì Luật Cải tổ Y tế thể hiện giấc mơ dài nửa
thế kỷ của phe phóng khoáng”, bình luận gia bảo thủ Peter Wehner gần đây đã viết
trong The Weekly Standard, “nếu luật này thất bại, đó sẽ là một đòn
chí mạng không những đánh vào Barack Obama mà còn đánh vào bản thân chủ nghĩa
phóng khoáng Mỹ (American liberalism). Vì sao? Vì trong nhiều cung cách
Obamacare là hiện thân, là hình mẫu lý tưởng, của chủ nghĩa phóng khoáng hiện đại.
Điều này được phản ánh trong những yếu tố mang tính cưỡng chế, trong sự tin tưởng
cực kỳ cao độ vào các giải pháp kỹ trị (technocratic solutions), trong tham vọng
tập trung hóa tiến trình làm quyết sách, và trong tín lý cho rằng chính phủ biết
hết mọi điều.”
Những tranh luận cơ hồ báo hiệu
ngày tận thế này phần lớn đã cường điệu quá đáng ý nghĩa thực tế của Obamacare.
Nhưng đồng thời chúng cũng làm lu mờ một thực tế đáng chú ý hơn, đó là luật cải
tổ y tế này tiêu biểu thêm một bước nữa trong cuộc hành trình lâu dài, chậm chạp,
nhưng vững chắc, xa dần nhà nước tư bản phóng khoáng cổ điển (the classical
liberal capitalist state) và hướng tới một phiên bản dân chủ xã hội đặc thù Mỹ.
Khác với Bắc Âu chẳng hạn, nơi mà thể chế dân chủ xã hội đã được thực thi một
cách nghiêm chỉnh và toàn diện bởi các phong trào chính trị có ý thức rõ ràng
mình đang theo đuổi một ý hệ, tại Hoa Kỳ một mạng lưới an toàn xã hội khiêm nhượng
và có tính cách chắp vá hơn được đan kết lại bởi các nhà chính trị và các nhà kỹ
trị thực tiễn (pragmatic politicians and technocrats) trong khi họ tìm cách giải
quyết từng vấn đề riêng lẻ. Các thế lực hùng hậu sẽ tiếp tục chống lại những nỗ
lực này, và do đó các chính sách bảo hiểm xã hội sẽ xuất hiện từ từ hơn, ít phổ
quát hơn, ít hiệu năng và ít hiệu lực hơn so với trường hợp không gặp sự chống
đối vừa nói. Nhưng những người chống đối này đang tham dự một trận đánh mà họ nắm
phần thua và chỉ có thể làm chậm lại cũng như làm méo mó kết quả sau cùng chứ
không chặn đứng được nó. Nhờ một sự kết hợp gồm đòi hỏi của đại chúng, yểm trợ
hậu cần của giới kỹ trị, và của cải quốc gia tăng dần lên, dân chủ xã hội là
tương lai của Hoa Kỳ.
CÁC MÔ HÌNH BẮC ÂU
Thể chế dân chủ xã hội phát sinh
vào đầu thế kỷ 20 như một chiến lược để cải thiện chủ nghĩa tư bản chứ không nhằm
thay thế nó. Ngày nay, người ta thường liên hệ thể chế dân chủ xã hội với các đảng
dân chủ xã hội và các chính sách mà những đảng này đã thiết định được, đặc biệt
tại các nước Bắc Âu như Đan Mạch và Thụy Điển. Trong quá trình nửa thế kỷ tới,
một loạt chương trình xã hội được chính phủ liên bang Hoa Kỳ đưa ra sẽ ngày
càng giống những chương trình do các nước đó đưa ra.
Ngày nay, tiên đoán này có một nội
hàm khác hẳn với nội hàm mà nó có thể gợi ra cách đây chừng một thế hệ, khi nhãn
hiệu “dân chủ xã hội” có nghĩa hạn hẹp là những chính sách giúp người dân sống
qua ngày dễ dàng mà ít dựa vào hoặc khỏi cần dựa vào đồng lương kiếm được.
Trong những thập niên 1960 và 1970, việc thực thi dân chủ xã hội chủ yếu chỉ là
duy trì một mạng lưới an toàn công cộng rộng lớn. Ngày nay, đó là một quan niệm
quá hẹp hòi. Trong những thập niên gần đây, các nước Bắc Âu đã bổ túc các
chương trình xã hội hào phóng của mình bằng các dịch vụ nhằm tạo công ăn việc
làm và gia tăng năng suất: các chương trình được chính phủ tài trợ như nhà giữ
trẻ, trường mầm non, trung tâm dạy nghề và văn phòng tìm việc, các dự án hạ tầng
quan trọng, và hỗ trợ của chính phủ dành cho việc nghiên cứu và phát triển
trong khu vực tư. Đồng thời, các chính phủ Bắc Âu cũng chấp nhận một đường lối
điều tiết kinh tế thân thiện với thị trường. Mặc dù các chính phủ này vẫn duy
trì các luật lệ bảo vệ công nhân, người tiêu thụ, và môi trường, nhưng họ quân
bình được những biện pháp bảo vệ này với một hệ thống có khả năng khuyến khích
óc kinh doanh và tính linh động bằng cách tạo điều kiện dễ dàng cho việc mở hay
đóng một công ty, việc thuê mướn hay đuổi nhân viên, và việc điều chỉnh số giờ
làm việc.
Đi tiên phong tại những nước Bắc
Âu, dân chủ xã hội hiện đại ngụ ý một sự cam kết sử dụng rộng rãi chính sách
chính phủ để thúc đẩy an ninh kinh tế, mở rộng cơ hội, và đảm bảo mức sống ngày
càng cao cho tất cả mọi người. Nhưng nó thực hiện mục tiêu này trong khi vẫn đảm
bảo tự do kinh tế, tính linh hoạt kinh tế, và tính năng động thị trường, tất cả
những điều này từ lâu vốn là thương hiệu (hallmarks) của nền kinh tế Hoa Kỳ.
Kinh nghiệm của các nước Bắc Âu chứng minh rằng một chính phủ có thể kết hợp
thành công tính linh hoạt kinh tế với an ninh kinh tế và nuôi dưỡng công bằng
xã hội mà không gây trở ngại cho việc cạnh tranh. Dân chủ xã hội hiện đại cống
hiến những điều tốt đẹp nhất của hai thế giới.
Tuy nhiên, những người quan niệm
rằng Hoa Kỳ có thể gia tăng hơn nữa tầm cỡ và phạm vi hoạt động của nhà nước
phúc lợi có lẽ đã không nhận ra thực tế của chính trị Mỹ đương đại. Nhưng ta thử
lùi lại một bước để cân nhắc con đường về lâu về dài. Bài học của một trăm năm
qua cho thấy rằng, khi Hoa Kỳ càng giàu có hơn, người Mỹ lại càng muốn chi tiêu
thêm ngân sách để tạo bảo hiểm chống lại rủi ro kinh tế và gia tăng công bằng
xã hội. Những tiến bộ trong chính sách xã hội chỉ có thể đến từng đợt thất thường,
nhưng chúng vẫn thực sự diễn ra. Và một khi chúng đến, chúng thường tồn tại lâu
dài.
Xu thế này có thể sẽ tiếp diễn.
Các nhà làm chính sách Hoa Kỳ sẽ nhận ra lợi ích của một vai trò chính phủ rộng
lớn hơn trong việc theo đuổi an ninh kinh tế, cơ hội đồng đều, và mức sống ngày
càng đi lên và sẽ cố gắng đưa nước Mỹ đi theo chiều hướng đó. Thông thường, họ
sẽ thất bại. Nhưng đôi khi, họ sẽ thành công. Tiến bộ sẽ gia tăng, dù xảy đến từng
đợt thất thường, như từng diễn ra trong quá khứ. Các chương trình mới và các dạng
triển khai những chương trình hiện có thường sẽ tồn tại lâu dài, vì những
chương trình hoạt động tốt sẽ trở nên thịnh hành và vì tiến trình hoạch định
chính sách của Hoa Kỳ thường làm cho những kẻ chống đối các chương trình xã hội
khó có thể tháo dỡ chúng. Những bước ngắn và thỉnh thoảng có bước nhảy vọt dài,
cộng với những bước thụt lùi có giới hạn, sẽ mang lại một kết quả tích lũy làm
gia tăng đáng kể diện rộng và tính hào phóng của những chương trình xã hội do
chính phủ điều hành.
Đây không phải là một tiên đoán về
thời điểm hay các điều kiện theo đó các tiến bộ chính sách cụ thể sẽ diễn ra.
Đây chỉ là một giả thuyết về một tiến trình mang tính xác suất (a probabilistic
process). Về lâu về dài, thỉnh thoảng chính phủ sẽ tạo thêm các chương trình mới
và mở rộng các chương trình hiện có, và những chương trình mới và những dạng
triển khai này chắc chắn sẽ không bị đảo ngược.
NHỮNG BẤT CẬP
Để hiểu lý do tại sao Hoa Kỳ đang
ở trên đường tiến tới dân chủ xã hội, ta phải nhìn nhận thực tế là, mặc dù Mỹ
là một nước giàu – và trong nửa thế kỷ tới, nước này thậm chí sẽ còn giàu hơn nữa
– nhưng nó vẫn chịu những suy yếu kinh tế nghiêm trọng. Đây là những vấn đề tiềm
ẩn; mặc dù những vấn đề này đã trở nên tồi tệ thêm do cuộc Đại Suy thoái vừa
qua và do kinh tế phục hồi yếu ớt, nhưng chúng vốn đã tồn tại trước khi nước Mỹ
gặp phải những khó khăn kinh tế gần đây.
Một là, Hoa Kỳ không đảm bảo đủ
an ninh kinh tế cho người dân của mình. Quá nhiều người Mỹ có lợi tức thấp đến
nỗi họ phải phấn đấu rất chật vật mới đủ sống qua ngày: 25 triệu hộ gia đình ở
đáy thang lợi tức, chiếm một phần năm dân số, chỉ có lợi tức trung bình là
18.000 USD một năm. Quá nhiều người Mỹ đang trải qua những sút giảm lợi tức to
lớn: mỗi năm, khoảng một phần bảy số hộ gia đình tại Hoa Kỳ bị giảm sút từ 25
phần trăm lợi tức hàng năm hay nhiều hơn. Quá nhiều người Mỹ không có bảo hiểm
y tế: ngay cả khi Obamacare được thực thi đầy đủ, vẫn còn từ năm đến mười phần
trăm công dân Hoa Kỳ không có bảo hiểm, một con số cao hơn khá xa so với bất cứ
quốc gia giàu có nào khác. Sau cùng, quá nhiều người Mỹ gần đến tuổi nghỉ hưu
mà tiền dành dụm thì ít ỏi và lương hưu thiếu hụt: tiền tiết kiệm hộ gia đình
trung bình, như một phần lợi tức hộ gia đình có thể tiêu xài được, đã rơi từ mười
phần trăm trong thập niên 1970 xuống chỉ còn ba phần trăm trong thập niên đầu
thế kỷ này; mặc dù một số công ty có kế hoạch hưu trí với số tiền nhân viên
đóng góp được qui định rõ ràng, nhưng nhiều người đã đóng góp rất ít hoặc rút
tiền ra quá sớm, và vụ vỡ bong bóng địa ốc vừa qua đã xóa sạch cái tài sản duy
nhất của nhiều chủ nhà trung lưu.
Hai là, nước Mỹ không giữ được lời
hứa về cơ hội đồng đều. Hầu hết phụ nữ và nhiều người Mỹ gốc châu Phi hiện nay
có cơ may tốt đẹp hơn trước nhiều để theo đuổi một trình độ giáo dục cao và
thành công trong thị trường lao động so với các bậc cha anh của mình một thế hệ
trước đây. Nhưng câu chuyện về người Mỹ lớn lên trong cảnh nghèo nghe ra không
được phấn khởi bao nhiêu. Trong số những nước giàu với dữ liệu thống kê đầy đủ,
Hoa Kỳ ở vào một trong những nấc thấp nhất về sự thăng tiến lợi tức từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Một người Mỹ sinh ra trong một gia đình thuộc một phần
năm dân số ở đáy thang lợi tức trong giai đoạn từ giữa thập niên 1960 đến giữa
thập niên 1980 có khoảng 30 phần trăm cơ may vươn tới một phần năm dân số thuộc
giai cấp trung lưu hay cao hơn khi đến tuổi trưởng thành; trong khi đó, một người
Mỹ sinh ra trong một phần năm dân số ở các nấc thang lợi tức cao nhất có khoảng
80 phần trăm cơ may gia nhập một phần năm dân số thuộc giai cấp trung lưu hay
cao hơn. Ngoài ra, những thập niên gần đây đã chứng kiến những gia tăng lớn
trong khoảng cách giữa điểm thi và tỉ lệ tốt nghiệp đại học của con cái những
gia đình có lợi tức thấp và con cái những gia đình có lợi tức cao, và khoảng
cách này có khả năng sẽ phản ánh trong doanh lợi hay thu nhập của họ khi đến tuổi
trưởng thành.
Ba là, quá ít người Mỹ được chia
sẻ sự phồn vinh mà nước họ đã hưởng trong những thập kỷ gần đây. Trong một xã hội
tốt đẹp, những thành phần ở giữa và ở đáy thang lợi tức phải được hưởng lợi lộc
đáng kể từ tăng trưởng kinh tế quốc gia. Khi đất nước thịnh vượng, thì mọi người
phải được phồn vinh. Nhưng từ thập niên 1970, mặc dù kinh tế tăng trưởng vững
chắc, nhưng thu nhập của những hộ gia đình trung lưu và thấp hơn đã tăng lên rất
chậm so với những hộ gia đình thuộc giai cấp thượng lưu. Theo những ước tính mà
Văn phòng Ngân sách Quốc hội [một cơ quan độc lập không đảng phái] đưa ra để giải
thích mức lạm phát, mức thu nhập trung bình của các hộ gia đình thuộc một phần
trăm dân số ở chóp bu đã bay bổng từ 350.000 USD năm 1979 lên 1,3 triệu USD năm
2007. Đối với 60 phần trăm dân số ở phía đáy, mức tăng lợi tức hoàn toàn khiêm
nhượng: từ 30.000 USD lên 37.000 USD [trong khoảng thời gian 30 năm vừa nói].
Những bất cập này một phần do các
thay đổi trong kinh tế toàn cầu gây ra, đặc biệt là sự cạnh tranh ngày càng gia
tăng mà các hãng của Hoa Kỳ phải đối diện. Các công ty Mỹ bán hàng hóa hay dịch
vụ trên thị trường quốc tế đang đối đầu với những địch thủ nước ngoài có khả
năng hơn trước rất nhiều. Các công nghiệp trong nước cũng gặp nhiều cạnh tranh
với nhau hơn, khi những tiến bộ công nghệ, giá xây cất và chuyên chở rẻ hơn, và
việc nới lỏng các luật lệ điều tiết kinh tế hạ thấp những rào cản đối với việc
tham gia thị trường. Hơn nữa, các cổ đông ngày nay muốn giá trị cổ phần tăng
nhanh. Trong khi một thế hệ trước đây, người đầu tư vào một công ty có thể hài
lòng vì được trả tiền lời đều đặn và giá cổ phần của công ty tăng lên phần nào
trong dài hạn, thì ngày nay họ đòi hỏi lợi nhuận tăng lên từng quí [ba tháng một]
và giá cổ phần thường xuyên tăng trưởng.
Những thay đổi này có lợi cho người
đầu tư, người tiêu thụ và một số nhân viên. Nhưng chúng khuyến khích các công
ty chống lại việc tăng lương, bỏ các chương trình bảo hiểm y tế, cắt giảm tiền
đóng góp vào quĩ hưu của nhân viên, di dời ra nước ngoài, cắt giảm nhân sự, và
thay thế nhân viên thường trực bằng nhân viên tạm thời – hay bằng máy điện
toán. Những chiến lược cắt giảm chi phí như thế rốt cuộc làm suy yếu an ninh
kinh tế, hạn chế cơ hội đối với giới lao động thiếu kỹ năng, và giảm mức tăng
trưởng lợi tức đối với nhiều người Mỹ bình thường – những xu thế này chắc chắn
còn tiếp tục đi vào một tương lai có thể thấy trước. Trong những thập niên tới,
một số người Mỹ đông đảo hơn sẽ mất việc, sẽ làm việc qua những thời gian dài
mà không được tăng lương, sẽ làm việc bán thời gian hay vào những giờ giấc thất
thường, sẽ không có chương trình hưu trí do công ty bảo trợ hay bảo hiểm y tế.
Một số người cho rằng phương cách
hay nhất để đối phó những sức ép và căng thẳng của nền kinh tế mới là củng cố
gia đình, các tổ chức công dân, và các công đoàn. Đó là những tiêu chí đáng ca
ngợi. Nhưng trong nửa thế kỷ qua những định chế này liên tục trở nên suy yếu. Mặc
dù những người chủ trương mang lại sức sống cho chúng đưa ra nhiều hi vọng,
nhưng họ cho thấy quá ít bằng chứng về sự thành công.
Một thế lực chính trị tạiWashingtonủng
hộ một giải pháp khác: thu nhỏ vai trò của chính phủ liên bang. Theo quan điểm
này, giảm thuế và giảm chi tiêu của chính phủ sẽ cải tiến hiệu năng, hạn chế
lãng phí, và gia tăng các phần thưởng khuyến khích đầu tư, kinh doanh, và sự
hăng hái làm việc, do đó dẫn đến tăng trưởng kinh tế nhanh chóng hơn. Nhưng đường
lối này đặt cơ sở trên ý niệm sai lầm là sự lớn mạnh của chính phủ sẽ hạn chế sự
tăng trưởng của khu vực tư. Qua quá trình một thế kỷ nay, Hoa Kỳ đã từng bước nới
rộng chi tiêu của chính phủ, từ 12 phần trăm GDP năm 1920 đến 37 phần trăm năm
2007. Suốt gian đoạn này, đà tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ vẫn bền vững rất
ngoạn mục. Các bằng chứng khác từ nước ngoài cũng cho thấy: trong số những nước
giàu, những nước mà thuế và chi tiêu chính phủ đều cao có xu thế tăng trưởng
nhanh chóng y hệt như những nước mà chính phủ đóng vai trò nhỏ bé hơn. Hơn nữa,
thậm chí nếu việc giảm thuế và giảm chi tiêu của liên bang có thực sự đưa đến
tăng trưởng nhanh hơn chăng nữa, thì lịch sử của mấy thập niên qua vẫn cho thấy
rằng sự tăng trưởng ấy không mang lại lợi ích bao nhiêu cho người Mỹ trung lưu
hay giai cấp kinh tế thấp hơn.
Một phản ứng khả thể khác đối với
tình trạng này là nhe răng cười chịu đựng. Theo quan điểm này, gần như không ai
có thể làm được gì để cải thiện những hậu quả xấu của nền kinh tế hiện đại, vì
thế hành động khôn ngoan nhất của người Mỹ bình thường là phải điều chỉnh những
kỳ vọng của mình cho phù hợp với thực tế để tiếp tục sống. Nhưng Hoa Kỳ có thể
làm một cái gì tốt đẹp hơn thế – và đường lối tốt đẹp nhất để đối phó những bất
cập kinh tế-xã hội của nước này là nới rộng bảo hiểm công.
CÁC RỦI RO VÀ PHẦN THƯỞNG XÃ HỘI
Hầu hết những gì mà các nhà khoa
học xã hội gọi là “chính sách xã hội” thực ra chỉ là bảo hiểm công. An sinh xã
hội (Social Security) và Bảo hiểm y tế cho người nghỉ hưu (Medicare) là bảo hiểm
giúp cá nhân chống lại rủi ro thiếu thốn hay không có tiền bạc sau khi nghỉ
hưu. Bồi thường thất nghiệp (unemployment compensation) là bảo hiểm giúp cá
nhân chống lại rủi ro mất việc làm. Các chương trình chi trả cho người tàn tật
(Disability payment) là bảo hiểm giúp cá nhân chống lại rủi ro phải chịu những
đau đớn thể chất, tinh thần và tâm lý khiến họ không thể kiếm sống.
Các dịch vụ và quyền lợi công cộng
khác tại Hoa Kỳ cũng là các chương trình bảo hiểm, cho dù người ta thường không
quan niệm như thế. Trường công là bảo hiểm chống lại rủi ro không có trường tư,
hoặc có mà quá đắt hay thiếu chất lượng. Những chương trình tái huấn luyện hay
tìm việc là bảo hiểm chống lại rủi ro do các điều kiện thị trường gây khó khăn
cho việc kiếm việc làm. Tín dụng thuế trên lợi tức kiếm được (The Earned Income
Tax Credit [i]) là bảo hiểm chống lại rủi ro do tiền lương của một người làm
việc nằm dưới mức cần thiết để duy trì một tiêu chuẩn sống đàng hoàng. Các
chương trình trợ cấp xã hội, như tem phiếu (food stamps) và Trợ cấp tạm thời
cho các gia đình túng thiếu (Temporary Assistance for Needy Families), là bảo
hiểm chống lại rủi ro không thể tìm ra việc làm nhưng lại không đủ điều kiện để
hưởng tiền bồi hoàn thất nghiệp hay bệnh tật.
Trong thế kỷ qua, Hoa Kỳ, cũng
như các nước giàu khác, đã tạo ra một số chương trình bảo hiểm công. Nhưng để đạt
được an ninh kinh tế, cơ hội đồng đều, sự thịnh vượng chung thật sự, thì trong
nửa thế kỷ tới, chính phủ liên bang cần phải mạnh dạn nới rộng tầm mức và phạm
vi hoạt động của các chương trình bảo hiểm hiện có, đồng thời đưa ra các chương
trình mới.
Chính phủ có thể giúp các hộ gia
đình Mỹ có một hoặc hai người lớn đi làm bằng cách tăng mức lương tối thiểu
theo qui định và điều chỉnh mức lương này theo lạm phát và bằng cách tăng quyền
lợi được đưa ra trong Tín dụng thuế trên lợi tức kiếm được, đặc biệt đối với những
hộ không con, tức những người mà Tín dụng này chỉ trả lại một số tiền nhỏ. Đối
với những hộ gia đình không có người đi làm, giải pháp này trở nên phức tạp
hơn. Những người có thể thành công trong thị trường lao động thì cần phải được
giúp đỡ và được thúc đẩy đi kiếm việc, việc này đòi hỏi một sự hỗ trợ rộng rãi
và nhắm vào từng cá nhân. Chính phủ liên bang cần phải gia tăng mức lợi ích
(benefit levels) và nới lỏng các tiêu chuẩn về quyền được hưởng các chương
trình trợ cấp xã hội chủ yếu như: Trợ cấp tạm thời cho các gia đình thiếu thốn,
cứu trợ tổng quát cho người không con (general assistance), tem phiếu thực phẩm,
trợ cấp nhà ở, và trợ cấp năng lượng.
Vài sáng kiến có thể giúp giảm bớt
các vụ mất lợi tức lớn ngoài ý muốn: bảo hiểm y tế công cộng, nghỉ phép được trả
lương để chăm sóc con, và quyền hưởng bảo hiểm thất nghiệp được nới rộng. Hiện
nay, gần một phần ba công nhân Mỹ nghỉ bệnh không được trả lương, luật pháp Hoa
Kỳ chỉ đòi hỏi các công ty cho phép nhân viên nghỉ 12 tuần không lương để chăm
sóc con, và chỉ 40 phần trăm người Mỹ mất việc có đủ điều kiện để hưởng tiền bồi
thường thất nghiệp. Hoa Kỳ cũng sẽ hưởng được lợi ích từ một chương trình bảo
hiểm đồng lương (wage insurance). Đối với người Mỹ bị sa thải và không kiếm được
một việc làm trả lương hậu như công việc trước đó, bảo hiểm đồng lương sẽ bù
vào một nửa khoảng cách giữa đồng lương cũ và đồng lương mới thấp hơn trong thời
gian một hay hai năm.
Bằng cách nâng lợi tức của những
hộ gia đình nghèo có con, việc gia tăng Tín dụng thuế trên số con (the Child
Tax Credit [ii]) sẽ giúp đảo ngược khoảng cách đang nới rộng trong tình trạng
bất bình đẳng cơ hội. Trường học giúp xóa khoảng cách trong năng lực trẻ em do
những khác biệt từ gia đình và khu láng giềng. Cho trẻ em vào trường ở cái tuổi
sớm hơn có thể giảm những khác biệt tồn tại khi chúng vào trường mẫu giáo. Thật
vậy, một số nhà nghiên cứu đã kết luận rằng ảnh hưởng của việc đến trường là lớn
nhất trong những năm mẫu giáo.
Vì quyền lợi của người cao niên,
thiết tưởng cần có thêm một bổ sung hữu ích cho mạng lưới an toàn xã hội Hoa Kỳ,
đó là một kế hoạch hưu trí bổ túc mà số tiền đóng góp được qui định rõ ràng và
nhân viên được tự động đăng ký. Các công ty nào đã có sẵn kế hoạch này thì có
thể tiếp tục duy trì nó, nhưng phải tự động đăng ký mọi nhân viên và khấu trừ một
phần lương của họ, trừ phi một nhân viên nào đó không chịu tham gia. Các nhân
viên không tiếp cận được một kế hoạch hưu trí do công ty mình bảo trợ sẽ được tự
động đăng ký vào quĩ hưu trí phổ quát mới (the new universal fund), và các công
nhân mà công ty không khớp thêm (match) một số tiền tương ứng với phần đóng góp
của mình sẽ được hưởng phần khớp thêm này từ chính phủ.
Mảnh ghép cuối cùng cho bức tranh
an ninh kinh tế sẽ nằm dưới hình thức gia tăng các chi tiêu liên bang về chăm
sóc trẻ em ở các cơ sở công cộng, về đường sá và cầu cống, về y tế và các luật
lệ liên bang đòi hỏi các công ty phải thêm ngày nghỉ lễ và nghỉ phép cho công
nhân. Những thay đổi này sẽ nâng cao phẩm chất đời sống của mọi người dân Mỹ và
giải phóng lợi tức của họ để họ có thể mua sắm các hàng hóa và dịch vụ khác.
Làm sao để chia sẻ sự thịnh vượng
cho mọi người? Cách hay nhất để đảm bảo lợi tức của các hộ gia đình gia tăng đồng
bộ với nền kinh tế sẽ là nâng cao tiền lương và tạo thêm công ăn việc làm cho
giới trung lưu và tầng lớp thấp hơn. Sau khi điều chỉnh lạm phát, tiền lương của
người Mỹ bình thường đã không tăng từ giữa thập niên 1970, và hiện nay tỉ lệ
người có công ăn việc làm thấp hơn năm 2000. Những người làm chính sách cũng phải
xét đến một cách điều chỉnh bảo hiểm công; không những phải gia tăng quyền lợi
được đưa ra trong Tín dụng thuế trên lợi tức kiếm được mà lại còn cống hiến tín
dụng này cho người Mỹ trung lưu và gắn liền nó với GDP đầu người.
Dĩ nhiên, việc chi tiêu cho bảo
hiểm xã hội sẽ diễn ra với một cái giá. Người Mỹ cần phải trả thuế nhiều hơn.
Ngoài ra, sự hiện hữu của bảo hiểm xã hội có khả năng khuyến khích thêm các
hành vi mạo hiểm hay trốn tránh công việc. Tuy vậy, bảo hiểm xã hội cũng có nhiều
lợi ích kinh tế. Một nền giáo dục và y tế tốt đẹp hơn sẽ cải tiến năng suất.
Các biện pháp ngăn chặn phá sản sẽ khuyến khích óc kinh doanh. Chương trình bồi
thường thất nghiệp sẽ khuyến khích một lực lượng lao động linh động hơn và tạo
điều kiện dễ dàng hơn cho công nhân cải tiến kỹ năng của mình. Những chương
trình như Tín dụng thuế trên số con hay Tín dụng thuế trên lợi tức kiếm được sẽ
cải thiện viễn ảnh giáo dục và kinh tế của các trẻ em lớn lên trong những hộ
gia đình nghèo. Và, quan trọng hơn cả, bảo hiểm xã hội cho phép một nền kinh tế
hiện đại đề phòng rủi ro mà không dựa vào những biện pháp điều tiết bóp nghẹt
kinh tế, những qui định chi ly về những gì các doanh nghiệp có thể làm và không
thể làm.
Kinh nghiệm của các nước giàu
trên thế giới trong thế kỷ qua chắc chắn sẽ làm dịu nỗi lo sợ là việc gia tăng
tầm cỡ và phạm vi của các chương trình xã hội công cộng sẽ làm suy yếu nền kinh
tế Hoa Kỳ. Chắc chắn là có một mức độ nào đó mà nếu vượt quá thì việc chi tiêu
cho các chương trình công ích sẽ gây tai hại đối với tăng trưởng kinh tế. Nhưng
bằng chứng cho thấy là Hoa Kỳ chưa vượt tới mức đó. Trên thực tế, hẳn là nước Mỹ
vẫn còn nằm dưới mức đó khá xa.
CÁI GIÁ DÙ LỚN, NHƯNG LỢI ÍCH CÒN
LỚN HƠN
Một số nhà quan sát, thậm chí cả
những người bên cánh Tả, lo ngại về tính khả thi của những chính sách theo mô
hình Bắc Âu – những chính sách đã thành công trong bối cảnh các nước nhỏ và
tương đối đồng nhất về chủng tộc – đối với một quốc gia rộng lớn và đa diện như
Hoa Kỳ. Nhưng tiến tới một nền dân chủ xã hội tại Hoa Kỳ gần như chỉ là đòi hỏi
chính phủ liên bang làm thêm những gì mà chính phủ này đã thực hiện. Việc này
không đòi hỏi phải chuyển sang một khế ước xã hội khác hẳn về phẩm chất.
Nhưng liệu Hoa Kỳ có đủ sức để
theo đuổi một nền dân chủ xã hội không? Mặc dù cái giá được cộng thêm để tạo ra
những chương trình mới và triển khai các chương trình sẵn có được mô tả ở trên
trong khi vẫn duy trì An sinh xã hội và Trợ cấp y tế cho người nghỉ hưu sẽ tùy
thuộc vào phạm vi chính xác và sự hào phóng của những chương trình này, người
ta ước tính các bảo hiểm xã hội Mỹ cần thêm một số tiền tương đương 10 phần
trăm GDP của Hoa Kỳ, hay khoảng 1.500 tỉ USD. (Một suy thoái kinh tế, như cuộc
suy thoái gây ra do khủng hoảng tài chính 2008, thường làm sai lệch các số liệu
GDP và lợi tức thuế, vì thế sử dụng dữ liệu của năm 2007, năm cao điểm của chu
kỳ kinh tế trước khủng hoảng, là cách hay nhất.) Nếu 10 phần trăm GDP nghe có vẻ
dữ dội, xin hãy nhớ hai điều: Một, nếu chi tiêu của chính phủ Hoa Kỳ tăng từ 37
phần trăm GDP, tức mức chi tiêu năm 2007, đến khoảng 47 phần trăm, sự gia tăng
này sẽ đặt Hoa Kỳ chỉ vài phần trăm trên chuẩn mực của những nước giàu trên thế
giới. Hai, một gia tăng chi tiêu chính phủ 10 phần trăm GDP sẽ nhỏ hơn nhiều so
với sự gia tăng 25 phần trăm đã diễn ra từ năm 1925 cho đến ngày nay.
Là một vấn đề kỹ thuật, sửa đổi lại
luật thuế Hoa Kỳ để gây thêm ngân quĩ sẽ tương đối đơn giản. Bước đầu tiên và
quan trọng nhất sẽ là đưa ra một thuế tiêu thụ quốc gia dưới hình thức một thuế
giá trị gia tăng (a value-added tax), mà chính phủ sẽ đánh lên hàng hóa và dịch
vụ vào từng giai đoạn sản xuất và phân phối chúng. Các phân tích của Robert
Barro, Alan Krueger, và các nhà kinh tế khác cho thấy rằng một thuế giá trị gia
tăng ở tỉ lệ 12 phần trăm, với các miễn trừ hạn chế, sẽ có khả năng mang lại
khoảng 5 phần trăm GDP lợi tức quốc gia — nửa số tiền cần thiết để tài trợ việc
nới rộng các chương trình bảo hiểm xã hội được đề xuất nơi đây.
Tùy thuộc quá nhiều vào một thuế
tiêu thụ là điều cấm kỵ đối với một số trí thức tiến bộ, những người tin tưởng
rằng lợi tức thuế quốc gia phụ trội phải đến chủ yếu – có lẽ hoàn toàn – từ những
hộ gia đình giàu có nhất nước. Nhưng trên thực tế, Washington không thể vắt
thêm một lợi tức thuế tương đương 10 phần trăm GDP từ những hộ gia đình ở chóp
bu xã hội, cho dù những thành phần giàu có này đang thụ hưởng đều đặn một phần
lợi tức chưa trừ thuế ngày càng lớn hơn so với cả nước. Từ năm 1960 đến nay,
thuế suất liên bang trung bình thực thụ (tức những số tiền thuế trả cho chính
phủ liên bang như một phần của thu nhập chưa trừ thuế) đánh vào những hộ gia
đình giàu có nhất chiếm 5 phần trăm dân số chưa bao giờ vượt quá 37 phần trăm,
và trong những năm gần đây, thuế suất này chỉ quanh quẩn ở 29 phần trăm. Nếu muốn
thu vào một lợi tức thuế tương đương với 10 phần trăm GDP chỉ từ nhóm nhà giàu
này, thuế suất thực thụ nói trên sẽ phải lên đến 67 phần trăm. Dù muốn dù
không, một sự tăng thuế ở mức độ này sẽ không được các nhà hoạch định chính
sách ủng hộ.
Một pha trộn gồm các thay đổi
khác trong hệ thống thuế liên bang có thể tạo thêm một lợi tức thuế tương đương
với 5 phần trăm GDP – những biện pháp như: trở lại thuế suất liên bang trước
khi có chính quyền Tổng thống George W. Bush, gia tăng thuế suất liên bang
trung bình thực thụ của 1 phần trăm dân số gồm những gia đình giàu có nhất lên
khoảng 37 phần trăm, chấm dứt việc giảm thuế cho tiền lãi nợ nhà, đặt ra những
thuế mới đánh trên khí thải carbon dioxide và các giao dịch tài chính, nâng cao
mức trần của tiền lương phải chịu thuế an sinh xã hội [iii], và tăng thêm một phần trăm thuế suất tiền lương hiện nay.
NHỮNG Ụ GIẢM TỐC, CHỨ KHÔNG PHẢI
LÀ NHỮNG Ụ CẢN CHÍNH TRỊ
Những loại cải tổ thuế này và những
chương trình bảo hiểm xã hội mà chúng tài trợ sẽ không diễn ra tức khắc. Đó sẽ
là một tiến trình chậm chạp, có phần do một loạt trở ngại mà các đề xuất dân chủ
xã hội chắc chắn sẽ gặp phải. Nhưng không một rào cản nào trong số này tỏ ra là
không thể vượt qua.
Một vấn đề cơ bản, mà những người
chống đối có thể nêu ra, là dân Mỹ vốn không thích một chính phủ đồ sộ. Mặc dù
điều này đúng ở một mức độ trừu tượng, nhưng khi nói đến những chương trình
chính phủ cụ thể, dân Mỹ lại có xu thế ủng hộ mạnh mẽ. Chẳng hạn, theo bản Thăm
dò Xã hội Tổng quát của Trung tâm Nghiên cứu Dư luận Quốc gia, kể từ thập niên
1970, đại đa số dân Mỹ – luôn luôn trên 80 phần trăm và thường thường trên 90
phần trăm – đã nói rằng họ tin tưởng chính phủ hiện đang chi tiêu đúng mức hay
quá ít về trợ cấp cho người nghèo, về cải tiến hệ thống giáo dục quốc gia, về cải
thiện và bảo vệ sức khỏe cho toàn dân, và về tài trợ quĩ An sinh Xã hội.
Những người hoài nghi cũng có thể
ghi nhận rằng việc bành trướng các chương trình xã hội sẽ tùy thuộc vào sự
thành công của các ứng viên Dân chủ trong các cuộc bầu cử, và có khả năng là thời
vận của Đảng Dân chủ đang trở nên lu mờ. Phe Dân chủ đã mất hậu thuẫn trong
hàng ngũ công nhân da trắng, một thành phần quan trọng của liên minh New Deal,
một liên minh từng thống trị chính trị Hoa Kỳ từ thập niên 1930 đến hết thập
niên 1970. Nhưng các ứng viên tổng thống và quốc hội thuộc Đảng Dân chủ đã
thành công với một cơ sở cử tri mới gồm giới chuyên nghiệp ở thành thị, phụ nữ,
người Mỹ gốc châu Phi và châu Mỹ La tinh. Việc đổ tiền ào ạt của khu vực tư vào
các cuộc vận động tranh cử, được khuyến khích bởi phán quyết Citizens United
năm 2010 của Tối cao Pháp viện [cho phép các tập đoàn kinh tế và các công đoàn
đóng góp vô giới hạn vào việc ủng hộ hay chống lại các ứng viên], có thể đặt
phe Dân chủ vào thế bất lợi khi gây quĩ. Nhưng các đóng góp của tư nhân vào các
cuộc vận động tranh cử đã gia tăng tầm quan trọng qua nhiều thập kỷ rồi, mà cho
đến nay, những ứng viên Dân chủ vẫn có thể bắt kịp đối phương. Và mặc dù các khối
dân số, các liên minh cử tri, và việc tài trợ cho các cuộc vận động chắc chắn
là quan trọng, nhưng tình hình kinh tế thường là yếu tố quyết định chính cho kết
quả của các cuộc tranh cử cấp quốc gia. Nếu phe Dân chủ quản lý kinh tế tương đối
tốt khi họ nắm chính quyền, họ vẫn có thể duy trì khả năng cạnh tranh trong các
mùa bầu cử.
Một trở ngại tiềm năng khác [cho
dân chủ xã hội Mỹ] là chuyển biến hữu khuynh trong cán cân quyền lực giữa các
nhóm lợi ích bên ngoài vũ đài tranh cử, những thế lực gây ảnh hưởng đáng kể lên
việc hoạch định chính sách. Kể từ thập niên 1970, các doanh nghiệp và các cá
nhân giàu có đã huy động được lực lượng, trong khi phong trào công đoàn liên tục
mất thành viên. Nhưng sự thay đổi này chỉ có thể làm chậm lại, chứ không chặn đứng
hẳn, sự đi tới của chính sách xã hội tiến bộ.
Một trở ngại tiềm năng cuối cùng
cho dân chủ xã hội Mỹ là cấu trúc của hệ thống chính trị Hoa Kỳ, trong đó việc
chặn đứng các thay đổi chính sách thông qua vận động tại quốc hội hay phủ quyết
có hiệu lực của tổng thống là tương đối dễ dàng. Dựa vào cấu trúc này, hình thức
gây cản trở và trì hoãn việc thông qua các đạo luật một cách có kỷ luật của các
đại biểu Cộng hòa tại Quốc hội trong nhiệm kỳ của Obama chắc chắn sẽ đe dọa bước
tiến của bảo hiểm công. Tuy nhiên, không chóng thì chầy, các lãnh đạo Cộng hòa
sẽ tránh xa cái định hướng cương quyết chống lại sự bành trướng của chính phủ,
một định hướng đã hình thành chiến lược và chiến thuật của Đảng Cộng hòa trong
những năm gần đây. Về lâu về dài, trọng tâm của đảng này sẽ chuyển dịch, và Đảng
Cộng hòa sẽ đi đến chỗ giống như các đảng trung-hữu (center-right parties) tại
Tây Âu, mà đại đa số đều chấp nhận một nhà nước phúc lợi hào phóng và những loại
thuế tương đối cao.
Ba điều có tiềm năng châm ngòi
cho một chuyển biến như thế. Một là sự thất cử của một ứng viên Cộng hòa rất bảo
thủ trong một cuộc tuyển cử mà lẽ ra người này đã có thể thắng nếu có một lập
trường cởi mở hơn. Nếu Đảng Cộng hòa sẽ đề cử một thành viên trong phe cực hữu
hay phe đòi hỏi tối đa cho các quyền tự do công dân và giảm đến mức tối thiểu
quyền lực chính phủ (libertarian faction) vào năm 2016 hay 2020, ứng viên này gần
như chắc chắn sẽ thất cử, và sự thất bại này sẽ thúc đẩy các lãnh đạo Cộng hòa
trở về với vị trí trung tâm. Một yếu tố khác thúc đẩy lập trường trung dung của
phe Cộng hòa là tầm quan trọng đang gia tăng của giai cấp công nhân da trắng đối
với đảng này. Gần đây, một số tiếng nói sâu sắc và nổi bật từ khuynh hướng
trung-hữu, như David Brooks, Roth Douthat, David Frum, Charles Murray, Ramesh
Ponnuru, và Reihan Salam, đã ghi nhận rằng người da trắng thuộc giai cấp công
nhân hiện đang chật vật về kinh tế và có thể hưởng được quyền lợi từ sự trợ
giúp của chính phủ. Để tăng cường hậu thuẫn từ nhóm cử tri này, nhiều lãnh đạo
Cộng hòa hàng đầu sẽ quay ra ủng hộ – hay chí ít không chống đối – việc nới rộng
các chương trình như Tín dụng thuế trên số con, chương trình cho trẻ đi học sớm,
Tín dụng thuế lợi tức kiếm được, An sinh xã hội, và thậm chí cả Bảo hiểm y tế
cho người nghỉ hưu và Trợ cấp y tế cho người nghèo và người tàn tật.
Có lẽ hầu hết các nhà lý luận
sáng suốt quan trọng bên cánh Hữu cuối cùng sẽ nhận thức rằng, căn cứ vào khát
vọng an ninh kinh tế và công bằng xã hội của dân Mỹ, vấn đề không còn là chính
phủ có nên can thiệp hay không, mà là nên can thiệp như thế nào. Việc mở rộng
các chương trình xã hội không nhất thiết có nghĩa là chính phủ sẽ can thiệp hơn
nữa vào thị trường và làm suy yếu thêm tính cạnh tranh. Về điểm này, một lần nữa
các nước Bắc Âu có thể soi đường dẫn lối cho Hoa Kỳ. Viện nghiên cứu chính sách
bảo thủ Heritage Foundation hợp tác với The Wall Street Journal trong
một dự án đánh giá các nước trên mười kích thước của tự do kinh tế. Mặc dù Hoa
Kỳ có các mức thuế và chi tiêu của chính phủ thấp hơn các nước Bắc Âu, nhưng
tính trung bình Đan Mạch, Phần Lan, và Thụy Điển có điểm số cao hơn Mỹ trên tám
kích thước khác, gồm quyền thiết lập và điều hành một xí nghiệp mà không có sự
can thiệp của nhà nước, số rào cản bằng luật lệ điều tiết đối với hàng nhập và
xuất khẩu, số hạn chế áp đặt lên việc chuyển vốn. Dân Mỹ muốn được chính phủ
che chở và hậu thuẫn. Để đáp lại những nguyện vọng này, các nhà hoạch địch
chính sách phải lựa chọn giữa bảo hiểm công và việc điều tiết kinh tế bằng luật
lệ, và phe bảo thủ chắc chắn sẽ ủng hộ bảo hiểm công hơn.
NƯỚC MỸ CỦA THẾ KỶ 21
Có lẽ điều quan trọng nhất để ghi
nhận về tương lai dân chủ xã hội của Hoa Kỳ là, tương lai này sẽ không cực kỳ
khác xa hiện tại. Hoa Kỳ sẽ không trở thành một xã hội không tưởng tiến bộ (a
progressive utopia); nói đúng ra, nó sẽ trở thành một phiên bản tốt hơn của
chính mình hiện nay.
Một bộ phận đông đảo hơn gồm người
đã trưởng thành sẽ có công ăn việc làm, mặc dù đối với nhiều người, tuần làm việc
sẽ ngắn hơn và sẽ có nhiều ngày nghỉ phép và nghỉ lễ hơn. Gần như tất cả mọi
công việc sẽ nằm trong khu vực dịch vụ, đặc biệt là nghề dạy học, quảng cáo, huấn
luyện, tổ chức, phụ tá, y tá, giám sát, và vận chuyển; chỉ khoảng năm phần trăm
số người làm việc sẽ ở trong khu vực chế tạo hay nông nghiệp. Hầu hết người Mỹ
sẽ thay đổi công việc và thậm chí thay đổi nghề nghiệp thường xuyên hơn hiện
nay. Sẽ có thêm nhiều người Mỹ làm việc với lương thấp, và trong cuộc đời làm
việc của mình sẽ mất việc ít nhất một lần, và khi đến tuổi nghỉ hưu sẽ không
dành dụm được bao nhiêu. Gia đình, tổ chức cộng đồng, và công đoàn thậm chí có
thể trở nên yếu kém hơn hiện nay.
Nhưng bằng cách bổ túc những khiếm
khuyết trong mạng lưới an toàn xã hội, chính phủ liên bang sẽ cải thiện an ninh
kinh tế, cơ hội đồng đều, và thịnh vượng chung cho hầu hết mọi người Mỹ bất chấp
những thay đổi nói ở đoạn trên. Một nước Mỹ dân chủ xã hội sẽ là một xã hội có
an ninh kinh tế và công bằng rộng lớn hơn. Kinh tế sẽ linh hoạt, năng động, và
sáng tạo hơn. Tỉ lệ người có công ăn việc làm sẽ tăng lên. Người dân sẽ có nhiều
tự do trong sinh hoạt. Việc quân bình giữa việc làm và gia đình sẽ trở nên dễ
dàng hơn. Dân Mỹ sẽ trả thuế cao hơn hiện nay, nhưng sự hi sinh này là đáng
giá, vì họ sẽ nhận về nhiều lợi lộc.
Hoa Kỳ đã tiến bộ nhiều trên con
đường trở thành một xã hội tốt đẹp, nhưng quốc gia này còn phải đi xa hơn nữa.
May thay, lịch sử Mỹ và kinh nghiệm của các quốc gia giàu có khác đang chỉ dẫn
con đường đi tới. Sở dĩ Hoa Kỳ ngày nay là một nước tốt đẹp hơn nhiều so với một
thế kỷ trước đây là vì chính phủ liên bang đã nỗ lực nhiều hơn để đảm bảo an
ninh kinh tế, cơ hội đồng đều, và thịnh vượng chung. Trong tương lai, nếu chính
phủ này nỗ lực hơn nữa, thì đất nước này nhờ thế sẽ còn tốt đẹp hơn.
LANE
KENWORTHY là giáo sư Xã hội học và Chính trị học tại Đại học Arizona.
Bài tiểu luận này dựa vào tác phẩm gần đây nhất của ông, Social Democratic
America [Nước Mỹ dân chủ xã hội] (Oxford Unversity Press, 2014).
[i]Tín dụng thuế trên lợi tức kiếm được (the Earned Income Tax
Credit): số tiền thuế mà chính phủ liên bang hoàn trả lại cho những cá nhân hoặc
cặp vợ chồng có lợi tức thấp hoặc trung bình – đặc biệt những người có con.
[ii]Tín dụng thuế trên số con (The Child Tax Credit): số tiền thuế
hoàn trả lại cho một hộ gia đình, dựa trên mức lợi tức và số con.
[iii]Riêng năm 2013, trần lợi tức phải chịu thuế An sinh Xã hội là
113.700 USD; số tiền kiếm được ngoài mức trần này khỏi phải đóng thuế An sinh
Xã hội. Nghĩa là, người có lợi tức 113.700 USD và người kiếm được một triệu USD
trong năm 2013 sẽ đóng thuế An sinh Xã hội ngang nhau.
Nguồn: http://phiatruoc.info/tuong-lai-dan-chu-xa-hoi-cua-my/