A : Francis Fukuyama : Tư Tưởng
Kinh Tế Chính Trị
Sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ
vào năm 1989, Fukuyama, trong một bài xã luận, đã đưa ra ý niệm Chung Cuộc của
Lịch Sử . Luận thuyết nầy sau đó đã được tác giả triển khai và xuất bản dưới
nhan đề Chung Cuộc của Lịch Sử và Người Cuối Cùng vào năm 1992, một năm sau khi
Liên Bang Xô Viết tan rã. Trong cuốn sách đã đem lại tiếng tăm lừng lẫy,
Fukuyama lập luận, quá trình tiến hóa của lịch sử nhân loại qua sự đấu tranh
quyết liệt giữa các hệ ý thức khác nhau đã đến hồi kết thúc với sự toàn thắng của
văn hóa Tây phương. Đó là hệ ý thức cơ sở trên những giá trị cốt lõi Cơ Đốc
giáo mang tính phổ quát; và trật tự thế giới sẽ dần dà được định hình theo mô hình Dân chủ Tự do (liberal
democracy). Nói một cách khác, chủ nghĩa tự do về chính trị và kinh tế
(political and economic liberalism) đã toàn thắng,
và từ nay cũng là mô hình duy nhất và tốt nhất cho nhân loại .
Suốt gần hai thập kỹ vừa qua, luận
thuyết The End of History and the Last Man đã gặp nhiều chỉ
trích gay gắt của nhiều tác giả từ cả hai phía tả cũng như hữu. Để trả lời những
đả kích vừa nói cũng như phản ảnh những diễn biến trong chính trị thế giới từ
mùa hè 1989, Fukuyama đã tìm cách biện minh lập trường trong phần hậu đính
“Afterword: After the end of history”, nhân dịp tái bản lần thứ hai cuốn The
End of History vào tháng 2 năm 2006, và tiếp theo đó, trong tác phẩm
Hoa Kỳ ở Ngã Tư Đường: Dân Chủ, Quyền Lực, và Di Sản của Tân Bảo Thủ , xuất bản
cùng năm .
Trong tác phẩm mới, lập trường
tân biện của Fukuyama có thể tóm tắt như sau: Hoa Kỳ cần sử dụng sức mạnh của
mình để phát huy dân chủ trên khắp thế giới, tốt nhất là theo đường lối thực tiễn
của Wilson ( realistic Wilsonianism), với vũ lực như biện pháp cuối cùng ( last
resort ) và chỉ để bổ túc cho nhiều biện pháp khác . Sự hiện diện của một tiềm
lực quân sự khả dụng ( latent military force ) thường là lợi khí hữu hiệu hơn
là biện pháp ra quân thực sự ( actual deployment ). Chi tiêu quân sự của Hoa Kỳ
lớn hơn tổng số ngân sách quốc phòng của tất cả các nước trên thế giới gộp lai.
Hiệu quả, tuy vậy, rất hạn chế, như kinh nghiệm thực tế Iraq đã chứng minh. Do
đó, Hoa Kỳ chỉ nên giữ vai trò một lãnh đạo gương mẩu, dồn khả năng tìm hiểu,
nghiên cứu thực trạng các quốc gia, trợ giúp giáo dục, tài chánh, cố vấn và tiếp
tay trong quá trình phát triển chính trị, kinh tế, xã hội trên thế giới. Kinh
nghiệm cho thấy quá trình phát triển, chính trị cũng như kinh tế, trong một xứ,
dù ở châu lục nào, cũng không thể đến từ bên ngoài , mà luôn từ chính người dân
bản xứ. Hoa Kỳ thường dễ thành công trong vai trò giúp hình thành các định chế
quốc tế, những tổ chức thường phối hợp được quyền lực và tính chính đáng. Hành
xử theo chiều hướng nầy, dỉ nhiên, đòi hỏi thời gian và nhiều kiên nhẫn. Và đây
là luận cứ cốt lõi của Fukuyama trong tác phẩm America at the
Crossroads.
Trong bài viết cho Tạp chí The
New York Times Magazine nhan đề Sau Chủ Thuyết Tân Bảo Thủ , số
ra ngày 19 tháng 2 năm 2006, Fukuyama đã gay gắt chỉ trích cuộc chiến xâm chiếm
Iraq và đồng hóa Neoconservatism với Leninism. Ông viết: ”Nhóm
Tân Bảo Thủ… tin, diễn tiến lịch sử có thể được thúc đẩy khi quyền lực và ý chí
được áp dụng đúng liều lượng. Chủ thuyết Leninism, như nhóm Bolshevik đã thể hiện,
là một thảm kịch, và khi được Hoa Kỳ thực nghiệm, đã trở thành một trò hề . Tân
Bảo Thủ, như một biểu tượng chính trị và một chủ thuyết, đã chuyển biến thành một
thực tế tôi không còn có thể ủng hộ” .
Fukuyama cũng công bố sự cáo
chung của thời kỳ hoàng đạo của tân bảo thủ (conservative moment), và chủ
trương giải trừ quân sự hóa ( demilitarization ) cuộc chiến chống khủng bố. Ông
nói: “ Chiến tranh là một từ ví von, ẩn dụ sai lầm để mô phỏng một cuộc
đấu tranh rộng lớn hơn, vì chiến tranh diễn tiến với cường độ cực lớn và có điểm
bắt đầu và điểm kết thúc rõ ràng. Đối đầu với một thử thách mang tính thánh chiến
là một cuộc đấu tranh dài lâu, tranh tối tranh sáng, cốt lõi không phải một chiến
dịch quân sự mà phải là một cuộc thi đua chính trị để giành lấy thiện cảm và đồng
tình của các tín đồ Hồi giáo trên khắp thế giới" .
Nếu Fukuyama đã tự tách khỏi chủ
thuyết tân bảo thủ, trong căn bản lý thuyết kinh tế chính trị, ông vẫn luôn nặng
nợ với Leo Strauss, người khai sinh ra chủ thuyết tân bảo thủ. Trong cuốn Tương
lai Hậu nhân bản: Hậu quả của cuộc Cách mạng kỹ thuật sinh học , Fukuyama vẫn
giữ lập trường của Strauss khi bênh vực học thuyết cổ điển về quyền tự nhiên.
Luận cứ của ông mang dấu ấn Aristotle.Thực
vậy, Aristotle lập luận, các ý niệm đúng sai – những ý niệm mà ngày nay chúng
ta gọi là nhân quyền – xét cho cùng, vẫn cơ sở trên bản tính con người . Để hiểu
chính xác hơn luận thuyết mới của Fukuyama như đã được xác định trong tác phẩm
America at the Crossroads , tưởng cần phải tập trung phân tích những ý niệm cốt
lõi mà ông đặc biệt quan tâm .
Fukuyama bắt đầu với định nghĩa cụm
từ The End of History. Ý niệm nầy đã được vay mượn từ G. W. F.
Hegel và Karl Marx. Theo Hegel, một nhà triết học lịch sử lừng danh đầu tiên ,
lịch sử nhân loại được hiểu như một qúa trình tiến hóa mạch lạc và duy lý dẫn dần
tới một thế giới ngày một tự do hơn. Marx, trong khi đó, lại xây dựng lý thuyết
trên nền tảng kinh tế -- những đổi thay trong các phương tiện sản xuất -- từ thời
hồng hoang tiền sử qua thời đại săn bắn thu lượm cho đến canh nông rồi kỹ nghệ.
Lịch sử, như vậy, là một quá trình canh tân, hiện đại hóa. Vấn đề là quá trình
hiện đại hóa chung cuộc sẽ dẫn dắt nhân loại về đâu ? Nhiều nhà trí thức cấp tiến,
trong giai đoạn từ Bản Tuyên Ngôn Cộng Sản của Karl Marx và Friedrich.
Engels năm 1848 cho đến cuối thế
kỹ 20, tin rằng diễn tiến lịch sử sẽ kết thúc với một mô hình cộng sản không tưởng
(a communist utopia). Với sự sụp đổ của bức tường Bá Linh năm 1989 và sự tan rã
của Liên bang Xô viết năm 1991, Fukuyama quả quyết lịch sử nhân loại đã chấm dứt
không phải với chủ nghĩa cộng sản mà với cái mà Marx gọi là “dân chủ trưởng giả”
(bourgeois democracy) .
Cho đến năm 1992, theo Fukuyama,
hình như không có một hình thức tổ chức xã hội nào tốt đẹp hơn mô hình cơ sở
trên hai nguyên tắc song sanh: tự do và bình đẳng . Cũng như Samuel Huntington,
ông tin văn hóa là một thành tố không thể chối bỏ của xã hội con người và chúng
ta không thể hiểu phát triển và chính trị nếu không quan tâm đến các giá trị
văn hóa.
Vấn đề đặt ra là những giá trị và
định chế được triển khai và định hình trong thời đại Khai Sáng của Tây phương
mang tính phổ quát như Hegel và Marx nghĩ, hay chỉ có tính giới hạn trong chân
trời văn hóa đặc thù như dưới mắt các triết gia Friedrich
Nietzsche và Martin Heidegger.
Huntington tin tưởng các định chế
chính trị Tây phương chỉ là phó sản của văn hóa Cơ đốc Tây Âu, và sẽ không thể
đâm chồi, bắt rể , bên ngoài biên giới văn hóa đó. Trên phương diện lịch sử, định
chế dân chủ tự do thế tục hiện nay bắt nguồn từ Cơ đốc giáo, một hình thức thế
tục của học thuyết cơ đốc về nhân phẩm phổ quát ( universal dignity of man),
ngày nay được hiểu như một học thuyết chính trị phi tôn giáo về nhân quyền. Định
chế dân chủ tự do, học thuyết nhân quyền vừa nói, theo Huntington, chỉ là biểu
tượng của sự thành công tạm thời của một nền văn hóa thống lĩnh trong hiện tình
thế giới.
Fukuyama lập luận ngược lại. Theo
ông, phương pháp khoa học, nền tảng của nền văn minh kỹ thuật hiện đại, cũng có
nguồn gốc lịch sử từ Âu châu, cơ sở trên tư tưởng của các triết gia như Francis
Bacon và René
Descartes. Nhưng một khi đã được khám phá, phương pháp khoa học trở thành
tài sản chung của nhân loại, mọi người đều có thể sử dụng, dù ở Ấn độ, Á châu
hay Phi châu . Các nguyên tắc tự do, bình đẳng, nền móng của định chế dân chủ tự
do, mặc dù có gốc rể từ văn hóa Tây Âu, vẫn có thể tách rời nguồn gốc lịch sử đặc
thù của nó và giữ nguyên giá trị trong các chân trời văn hóa phi cơ đốc. Do đó,
Fukuyama tin lô gic chung của quá trình tiến hóa có thể giải thích tại sao thế
giới ngày một dân chủ hơn. Nói một cách khác, theo ông, các
nguyên tắc và định chế nói trên có tính phổ quát .
Theo Marx và Engels, lịch sử, xét
cho cùng, bắt nguồn từ khoa học và kỹ thuật. Khoa học mang tính lũy tích. Những
khám phá khoa học không bao giờ bị thất thoát, bỏ quên qua thời gian. Điều đó tạo
ra thế giới kinh tế, vì kỹ thuật mở rộng chân trời khả năng sản xuất và bảo đảm
thời đại máy hơi nước sẽ khác với thời đại cày bừa bằng tay, thời đại
transistor và máy vi tính sẽ khác với thời đại than thép. Tiến bộ khoa học khiến
năng suất gia tăng gấp bội, từ đó, thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật và tự do tư tưởng
trong chủ nghĩa tư bản với kinh tế thị trường tự do hiện đại.
Lợi tức theo đầu người ( GDP bình
quân ) ngày một cao, nhờ kinh tế phát triển, là điều mọi người trên thế giới
mong muốn. Mực sống ngày một cao, số người muốn tham gia vào sinh hoạt chính trị
ngày một nhiều. Sự ham muốn được sống trong một xã hội dân chủ tự do lúc đầu
không phổ quát như ước vọng phát triển kinh tế .Trong thực tế, những xứ như
Trung quốc, Singapore, đã khá thành công trong chiều hướng phát triển và hiện đại
hóa mặc dù chưa mấy dân chủ tự do. Tuy nhiên, như nhà xã hội học Seymour Martin
Lipset đã ghi nhận, giữa phát triển kinh tế và sự lớn mạnh của các định chế dân
chủ có một tương quan chặt chẽ. Khi lợi tức bình quân trong một xứ đã vượt quá
mức 6000 mỹ kim một năm, xứ đó không còn là một xã hội nông nghiệp. Xứ đó
đã có một tầng lớp trung lưu sở hữu tài sản, một xã hội dân sự đa dạng, một nền
giáo dục đại chúng và chuyên khoa tiến bộ. Tất cả các yếu tố đó họp lại thường
có khuynh hướng làm gia tăng sự ước muốn tham gia vào các sinh hoạt chính trị.
Quá trình hiện đại hóa bao gồm cả
khía cạnh văn hóa. Mọi người đều mong muốn kinh tế phát triển; và phát triển
kinh tế thúc đẩy sự hình thành các định chế chính trị dân chủ. Nhưng không ai
chờ đợi quá trình nầy cuối cùng sẽ dẫn đến một nền văn hóa đồng bộ. Bản sắc văn
hóa đặc thù từng vùng không bao giờ có thể xóa bỏ. Theo Huntington, chúng ta
không bao giờ phải sống hoặc muốn sống trong một thế giới với cùng những giá trị
văn hóa phổ quát cơ sở trên một thứ văn hóa Hoa kỳ được toàn cầu hóa. Thường
tình, người ta ai cũng ước muốn được cùng chia sẻ những truyền thống lịch sử,
những giá trị tôn giáo, và một số kỹ niệm đặc thù trong đời sống cộng đồng.
Trong đời sống đương đại ở những
xã hội dân chủ tự do, kể cả Hoa kỳ, người ta thấy sự chung sống giữa nhiều sắc
dân với nhiều văn hóa đặc thù luôn được khẳng định và tái khẳng định. Trong địa
hạt nầy, các lý thuyết gia khởi thủy của chủ thuyết tự do đương đại đã chẳng
đem lại cho chúng ta nhiều hướng dẫn hữu ích. Thomas Hobbes, John Locke, Baron
de Montesquieu, và Jean-Jacques
Rousseau, đã quan niệm vấn đề cốt lõi của chủ thuyết đa phương tự do như vấn
đề các cá nhân hành xử quyền lựa chọn độc lập đối với nhà nước. Nhưng trong các
xã hội tự do đương đại, các cá nhân không hành động riêng rẽ. Họ họp thành cộng
đồng với văn hóa đặc thù. Mỗi cộng đồng xác quyết quyền hạn của nhóm mình đối với
nhà nước và hạ chế quyền lựa chọn của từng cá nhân bên trong
mỗi nhóm.
Trong chiều hướng đó, người
Canada gốc Pháp khẳng định quyền dùng tiếng Pháp trong học đường; hay đi xa
hơn, các nhà truyền giáo đạo Hồi ở Âu châu xác quyết luật pháp ở Pháp và Hòa
Lan không được trái với luật Sharia. Sự lựa chọn của chính quyền là hiểu dân chủ
đa nguyên như trách nhiệm bảo vệ các cá nhân hay bảo vệ các tập thể sắc tộc, và
nếu bảo vệ các tập thể sắc tộc, thì các sắc tộc có quyền giới hạn quyền cá nhân
đến mức độ nào. Trên thế giới hiện nay, rất ít quốc gia theo chính sách bảo vệ
quyền cá nhân một cách triệt để và đặt quyền cá nhân lên trên quyền cộng đồng,
tập thể. Chính sách đa nguyên văn hóa, chương trình song ngữ, và nhiều hình thức
công nhận quyền các cộng đồng sắc tộc khác, đã trở thành một
thành tố quan trọng trong chính sách công ở Hoa kỳ và các xứ Tây phương. Ngược
lại, các xứ tự do cũng hiểu rõ sự công nhận quyền các tập thể, các cộng đồng ,
có thể xói mòn nguyên tắc tự do căn bản về bao dung và tự do cá nhân. Như
Charles Taylor giải thích, chủ thuyết tự do, tự nó cũng đã phản ảnh một số giá
trị văn hóa nào đó, khó thể đối xử với mọi cộng đồng hoàn toàn như nhau, và đôi
khi phải gạt bỏ một vài nhóm văn hóa đặc thù mang tính phản tự do dân chủ.
Vì nhiều lý do thực tiễn, nguyên
tắc căn bản của chính trị thế tục đã trở thành một thành tố của quá trình hiện
đại hóa. Trái với Hồi giáo, trong lịch sử Cơ đốc giáo, nhà nước và giáo hội đã
xuất hiện như hai thực thể riêng biệt. Tuy vậy, sự tách biệt chẳng bao giờ mang
tính tất yếu và trọn vẹn. Vào cuối thời trung cổ, các vị vua chúa Âu châu đã áp
đặt các tín ngưởng lên thần dân của mình; và các xung đột tông phái tiếp theo
sau thời Cải Cách (Reformation) đã đưa tới cuộc chiến đẫm máu kéo dài cả trăm
năm.
Chính trị thế tục hiện đại, như vậy,
không nhất thiết tự động phát xuất từ văn hóa Cơ đốc, mà đã hình thành qua cả một
quá trình trải nghiệm lịch sử đau thương. Điều mà nhân loại đã học hỏi được qua
chủ thuyết tự do hiện đại là sự cần thiết phải tách rời các cuộc tranh biện về
cứu cánh nhân sinh mang tính tôn giáo khỏi phạm trù chính trị.
Fukuyama cũng biện minh là ông
không hề đưa ra luận thuyết bênh vực lập trường riêng của Hoa kỳ về chung điểm
của lịch sử, một viễn kiến chủ chiến quá khích được mệnh danh là “jingoistic
triumphalism” (chủ thuyết quốc gia độc tôn hiếu thắng) . Chung cuộc của lịch sử
theo ông không phải là một chứng tích cho địa vị thống lĩnh của Hoa kỳ trên
toàn thế giới, không những trong phạm vi tư tưởng và giá trị, mà cả qua việc thực
sự sử dụng quyền lực của Hoa kỳ để thiết lập một trật tự thế giới theo đúng quyền
lợi của chính mình.
Trên phương diện nầy, Fukuyama
chia sẻ quan điểm của Alexandre Kojève, một tác giả gốc Nga sống lưu vong ở
Pháp. Theo Kojève, hơn cả Hoa kỳ hiện nay, Liên hiệp Âu châu mới là hiện thân đầy
đủ của "chung điểm lịch sử" trong thế giới hiện thực . Cũng như
Kojève, Fukuyama lập luận mô hình Âu châu thực ra đúng là ngôi nhà dựng lên như
một tổ ấm dành cho "con người cuối cùng" xuất hiện sau ngày lịch sử
chấm dứt. Giấc mơ Âu châu – như nước Đức cảm nghiệm –nhằm vượt lên trên ý niệm
chủ quyền quốc gia, chính trị dựa trên cường lực, và tất cả các hình thức đấu
tranh đòi hỏi sức mạnh quân sự. Người Mỹ, ngược lại, ấp ủ ý niệm truyền thống về
chủ quyền, sùng bái sức mạnh quân sự, và rất hồ hởi với những cuộc diễn hành
Fourth ofJuly biểu trưng lòng ái quốc.
Như đã nói ở trên, định chế dân
chủ tự do hiện đại cơ sở trên hai nguyên tắc song sanh tự do và bình đẳng. Tuy
nhiên, quá trình đồng hành giữa hai nguyên tắc luôn căng thẳng và xung khắc:
bình đẳng, để được tối đa hóa, luôn cần một nhà nước mạnh để hạn chế bớt tự do
cá nhân; tự do cá nhân không thể nẩy nở vô hạn mà không gieo mầm cho nhiều hình
thức bất công xã hội đáng ta thán. Mỗi xã hội dân chủ tự do,vì vậy, luôn phải
chấp nhận một sự trao đổi, tương nhượng (tradeoffs) giữa hai nguyên tắc . Ngày
nay, người Âu có khuynh hướng nặng về bình đẳng, nhẹ về tự do; người Mỹ, vì lý
do lịch sử, nghiêng về phía tự do nhiều hơn là bình đẳng. Đó chỉ là khác biệt về
trình độ hơn là về nguyên tắc. Fukuyama, có lẽ vì là công dân Hoa kỳ
, thích sự lựa chọn của Mỹ hơn .
A.1: HỒI GIÁO
Sau sự kiện 11-9-2001, nhiều người
cho rằng có một sự tương khắc căn bản giữa Hồi giáo như một tôn giáo và quá
trình phát triển dân chủ hiện đại . Nhìn quanh thế giới, chúng ta thấy Hồi giáo
là một biệt lệ rõ rệt trong mô hình phát triển dân chủ như đã diễn ra ở châu Mỹ
la tinh, ở Âu châu, ở Á châu, và ngay cả ở phía nam sa mạc Sahara Phi châu. Do
đó, họ lập luận có nhiều điều trong giáo lý Hồi giáo, chẳng hạn như sự đồng nhất
giữa tôn giáo và nhà nước, đã cấu thành những rào cản văn hóa không thể vượt
qua đối với phát triển dân chủ. Luận cứ nầy không đủ thuyết phục đối với
Fukuyama. Tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới đều rất phức tạp, khó hiểu. Cơ
đốc giáo, trước đây không lâu, đã được dùng để biện minh cho chế
độ nô lệ và phân biệt giai cấp, ngày nay, lại được xem như tán trợ các nguyên tắc
tự do, công bằng và dân chủ. Trên bình diện chính trị, mỗi thế hệ thường giải
thích giáo lý các tôn giáo mỗi khác. Điều nầy đúng với cả Cơ đốc giáo lẫn Hồi
giáo.
Ngày nay, trong những quốc gia chịu
ảnh hưởng văn hóa Hồi giáo, tập tục chính trị cũng thay đổi rất nhiều từ xứ nầy
qua xứ khác. Chế độ dân chủ tương đối đã khá thành công trong một số các nước kể
cả Indonesia từ sau cuộc khủng hoảng tài chánh Á châu năm 1997, Thổ nhỉ kỳ sau
đệ nhị thế chiến, Ấn độ với sắc dân Hồi giáo khá đông. Vả chăng, kinh tế
Indonesia và Malaysia cũng đã phát triển khá nhanh. Như vậy, Hồi giáo như một
tôn giáo cũng chưa hẵn đã là một trở ngại tất yếu trong quá trình phát triển.
Theo Alfred Stepan, biệt lệ thật
sự đối với làn sóng dân chủ hóa từ thập kỹ 1970’s đến thập kỹ 1990’s -- thời kỳ
mà Samuel Huntington mệnh danh là “đợt sóng chuyển tiếp dân chủ thứ ba”( “third
wave of democratic transitions”)-- không phải là biệt lệ Hồi giáo, mà chính là
biệt lệ Á Rập. Hình như văn hóa chính trị Á Rập hàm chứa nhiều đề kháng đối với
dân chủ. Đề kháng đó là những gì là điều còn cần phải bàn cãi. Nhưng rào cản
văn hóa đó chắc chắn không phải là tôn giáo, mà là những thứ như sự hiện hữu của
các phe phái bộ tộc (tribalism). Và thách đố mà thế giới đang đối diện dưới
hình thức chủ thuyết Hồi giáo quá khích hay thánh chiến ( radical Islamism or
jihadism ) mang tính chính trị nhiều hơn là tôn giáo, văn hóa hay văn minh.
Theo Olivier Roy, Roya, và Ladan Boroumand,
chủ thuyết Hồi giáo quá khích trong thực tế chỉ là một ý thức hệ chính trị. Chủ
thuyết của Sayyid Qutb—người sáng lập phong trào Muslim Brotherhood ở Ai Cập—hay
Osama bin Laden và các chiến hữu ý thức hệ trong tổ chức al-Qaida, cơ sở trên
các tư tưởng chính trị về nhà nước, về cách mạng, và về hiện tượng sủng ái bạo
động bắt nguồn không phải từ truyền thống Hồi giáo đơn thuần, mà từ các ý thức
hệ cực đoan phe tả và phe hữu—phát xít và cộng sản-- ở Âu châu vào thế kỹ thứ
20. Những chủ thuyết nầy không phản ảnh đúng giáo lý Hồi giáo, nói một cách
khác, chỉ lợi dụng Hồi giáo vào các mục tiêu chính trị. Mặc dù rất phổ biến
trong nhiều xứ Á Rập và trong các cộng đồng Hồi giáo định cư ởÂu châu, các chủ
thuyết nầy không phải là sự tái khẳng định những giá trị Hồi giáo truyền thống,
mà chỉ trỗi dậy khi những giá trị truyền thống nầy bị khuấy động, xáo trộn, bởi
quá trình hiện đại hóa với một trật tự dân chủ đa nguyên gây lủng củng, khập
khiễng, gián đoạn giữa đời sống nội tâm và sinh hoạt xã hội bên ngoài. Ngoài ra
Hồi giáo cũng còn được hiểu và giải thích nhiều cách khác nhau. Dù sao, đó cũng
chỉ phản ảnh sự tranh biện nội bộ giữa các tông phái Hồi giáo .
Vấn đề quan trọng hơn đối với các
xã hội dân chủ tự do phát xuất ngay từ bên trong chính các xứ nầy, đặc biệt là ở
Pháp và Hòa lan là những xứ có một cộng đồng Hồi giáo nhập cư quan trọng. Khác
với Hoa kỳ, Âu châu nói chung đã không mấy thành công trong việc hội nhập các sắc
dân thiểu số nhập cư. Những rối loạn và bạo lực ngày một gia tăng trong các thế
hệ Hồi giáo thứ hai, thứ ba chỉ phản ảnh mặt trái khá đen tối của sinh hoạt
chính trị sắc tộc ở Âu châu, so với các yêu sách của dân nhập cư ở Quebec và
Scotland .
Sự giận dữ và thiếu hội nhập văn
hóa của các sắc dân thiểu số nhập cư đã gây ra những phản ứng của cộng đồng đa
số bản xứ tự rút lui về thành trì văn hóa, tôn giáo của chính mình . Để ngăn ngừa
những va chạm nầy trở thành những xung đột giữa các nền văn minh, các nhà lãnh
đạo chính trị cần giữ một thái độ ôn hòa, sáng suốt, một điều không dễ tìm thấy
hay thực hiện trong quá trình hiện đại hóa ngày nay .
A.2 : Dân Chủ
Trong cuốn America at the
Crossroads, Fukuyama biện minh: trong cuốn The End of History,
khi viết về mô hình dân chủ tự do như hình thức chính quyền sau cùng của nhân
loại, ông không đưa ra viễn kiến dùng luật quốc tế để hình thành một định chế
dân chủ toàn cầu vượt lên trên nhà nước-quốc gia có chủ quyền (sovereign
nation-state); ông chỉ nói đến dân chủ ở cấp độ nhà nước-quốc gia.
Tuy nhiên, kể từ ngày Hoa kỳ bắt
đầu cuộc chiến xâm lăng Iraq năm 2003, chính ý niệm dân chủ toàn cầu đã trở
thành mối quan ngại đặc biệt, và trong một chừng mức nào đó, đã đưa đến sự rạn
nứt giữa Hoa kỳ và Âu châu. Từ hơn một thập kỹ vừa qua, đây cũng là mối quan ngại
của nhiều người trong phong trào chống đối toàn cầu hóa. Họ lập luận cơ chế
toàn cầu hóa thiếu dân chủ và thiếu công bằng trong quan hệ tương tác giữa các
quốc gia thành viên. Vấn đề càng đặc biệt nghiêm trọng vì tầm cỡ và trình độ khống
chế của Hoa kỳ trong sự vận hành hệ thống toàn cầu đương đại -- Hoa kỳ , trên
nhiều phương diện, đã giữ vai trò áp đảo và đã không hề dành cho thế giới bên
ngoài một vị trí khả dĩ tương tác ngược lại.
Trong quá trình hình thành, Liên
Hiệp Âu châu luôn nhằm vượt lên trên định chế nhà nước-quốc gia. Hoa kỳ, ngược
lại, luôn tin tưởng và tìm kiếm tính chính đáng cho mọi hành động trong thể chế
dân chủ hiến định tối thượng của chính mình. Sự khác biệt trong quan điểm của
Âu châu và Hoa kỳ bắt nguồn từ lịch sử của hai phía . Người Âu châu đã chứng kiến
nhà nước-quốc gia như nguồn cội của tính ích kỹ tập thể và chủ nghĩa quốc gia,
gốc rễ của hai cuộc thế chiến trong thế kỹ 20. Vì vậy, Liên hiệp Âu châu tìm
cách thay thế chính trị dựa trên quyền lực bằng các chuẩn mực, các luật lệ, các
tổ chức siêu quốc gia. Ngược lại, Hoa kỳ, do lịch sử đặc thù, vốn tin tính
chính đáng trong hành động đến từ thể chế hiến định của một xứ đầy
đủ chủ quyền, và vì vậy, đã rất phấn khởi với
kinh nghiệm sử dụng bạo lực chính đáng (legitimate violence) dựa trên thể chế
nhà nước-quốc gia.
Quan điểm của Hoa kỳ đã khởi đi với
cuộc cách mạng chống lại đế chế Anh quốc, tiếp nối qua cuộc nội chiến đẫm máu
(nhưng dẫn đến bải bỏ chế độ nô lệ và thống nhất của Hiệp Chủng Quốc), đệ nhị
thế chiến , và cuối cùng chiến tranh lạnh, được xem như những cuộc thánh chiến
giải phóng Âu châu trong cả hai cơ hội khỏi hai hình thức chuyên chế .
Fukuyama cho rằng trên bình diện
lý thuyết, quan điểm của Âu châu về sự cần thiết của các chuẩn mực siêu nhà nước-
quốc gia là đúng. Không có lý do gì để nghĩ rằng các xứ dân chủ tự do đầy đủ chủ
quyền không thể lạm dụng quyền lực của mình trong quan hệ với các xứ khác hay
ngay cả với chính công dân của mình. Chính Hoa kỳ cũng đã ra đời với khuyết tật
nô lệ được chính thức chấp nhận bởi đa số cử tri và trong hiến pháp. Trong cuộc
tranh luận với Stephen Douglas năm 1858, Abraham
Lincoln cũng đã phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng ngoài khuôn khổ hiến
pháp trong luận cứ chống lại chế độ nô lệ của mình.
Tuy nhiên, theo Fukuyama, mặc dù
trên lý thuyết , chúng ta tin có đủ cơ sở cho một hình thức dân chủ vượt lên
trên nhà nước-quốc gia, trong thực tế, một mô hình như vậy là bất khả thể hiện
vì có quá nhiều chướng ngại khó thể vượt qua. Sự thành công của định chế dân chủ
tùy thuộc một phần lớn vào sự hiện diện của một cộng đồng chính trị thuần nhất
cùng chia sẻ một số giá trị và định chế căn bản. Những giá trị văn hóa chung sẽ
đem lại niềm tin và làm dễ dàng sự tương tác giữa các công dân cùng chung sống.
Dân chủ trên bình diện toàn cầu là một điều khó thể thực hiện vì phải đối diện
với quá nhiều chủng tộc và văn hóa đặc thù. Nhản quan bệnh hoạn của nhiều người
Mỹ về các định chế quốc tế như Liên Hiệp Quốc một phần
nào phản ảnh đúng sự chậm chạp và thiếu hiệu quả trong các hành động tập thể cơ
sở trên sự đồng thuận chính trị giữa nhiều quốc gia khác nhau trên bình diện quốc
tế.
Để giải quyết vấn nạn nầy, một
hình thức ủy quyền quyết định và hành động cho một vị quản lý đầy đủ thẩm quyền
nào đó là cần thiết. Vấn đề là ủy quyền cho ai và quyền uy đó phải được sử dụng
như thế nào khi không có một cơ chế phân quyền để kiểm soát lẫn nhau như trong
một nhà nước-quốc gia? Ngay cả Âu châu , cùng chung văn hóa và kinh nghiệm lịch
sử, vẫn còn lúng túng, dè dặt, suy tính trong kế sách hình thành một liên hiệp
siêu nhà nước-quốc gia mang tính hạn chế nghiêm trọng chủ quyền của các quốc
gia thành viên.
Thực vậy, trong một tương lai gần,
có lẽ mô hình nhà nước-quốc gia vẫn còn giữ vai trò nguồn cội của chính quyền
dân chủ chính đáng. Thay vì chính quyền toàn cầu (global government), chúng ta
đành phải bằng lòng với một cơ chế nửa vời, một hệ thống quản lý toàn cầu
(global governance), nói rõ hơn, những định chế quốc tế phân bộ hay bán toàn cầu
(partial international institutions) để thúc đẩy hành động tập thể và phối trí
trách nhiệm giữa các quốc gia thành viên. Một trật tự thế giới mang tính tự do,
vừa công bình, vừa khả thi, cơ sở, không phải trên một định chế duy nhất bao
trùm toàn thế giới, mà trên một số định chế khác nhau, được tổ chức theo chức
năng (functional issues), cho từng khu vực, hay từng vấn đề chuyên biệt . Mô
hình nầy đang dần hình thành và chắc chắn còn đòi hỏi nhiều
công sức và cẩn trọng .
A.3 : Quyền Hành Chính Trị
Trong cuốn America at the
Crossroads, Fukuyama cũng muốn minh định một điểm ông gọi là sự độc lập của
chính trị. Theo ông, có một sự liên hệ khá chặt chẻ giữa phát triển kinh tế và
dân chủ tự do. Lợi tức bình quân càng cao, dân chủ càng dễ củng cố và phát triển.
Vấn đề là làm sao để khởi động phát triển kinh tế trước , một điều mà nhiều xứ
đang phát triển ở miền nam sa mạc Sahara Phi châu , ở Nam Á , ở Trung Đông, ở
châu Mỹ la tinh , đã không làm được.
Phát triển kinh tế không chỉ tùy
thuộc ở những chính sách kinh tế tốt. Bảo đảm luật pháp và trật tự, quyền tư hữu,
sự thượng tôn luật pháp, ổn định chính trị, cũng thiết yếu cho đầu tư , phát
triển , thương mãi , mậu dịch quốc tê’….Điều quan trọng hơn cả là phải có một
chính quyền nhà nước đầy đủ khả năng, biết chuẩn bị kỹ càng trước khi mở cửa
gia nhập kinh tế toàn cầu, như Ấn Độ, Trung Quốc đã làm trong những năm gần đây
.
Sự hiện diện những nhà nước đầy đủ
khả năng không phải là điều sẵn có trong thế giới thứ ba. Trái với thế kỹ 20,
nhiều vấn đề gặp phải trong chính trị thế kỹ 21 đều do sự thiếu vắng các định
chế của một chính quyền mạnh trong các xứ nghèo khó. Thực vậy, các đại cường lớn
mạnh trước đây như Đức Quốc xã, Nhật Bản, Liên Bang Xô Viết đã giữ địa vị khống
chế trong thế kỹ 20. Ngược lại, trong suốt mấy năm đầu của thế kỹ 21, thế giới
đã phải đối phó với nhiều vấn đề nổi cộm đến từ các xứ như Somalia, Afghanistan
, Haiti. Đó là những xứ thiếu một chính quyền đầy đủ khả năng và quyền lực, với
những định chế đủ mạnh để đảm bảo một nền pháp trị căn bản, cần thiết cho phát
triển và sự kiến tạo những định chế dân chủ.
Nói một cách khác, trong thế giới
phát triển, Âu châu phải đối đầu với cuộc khủng hoảng lớn lao do các định chế
an sinh với những chương trình xã hội quá tốn kém đè nặng lên vai những thế hệ
tương lai trong một dân số tiếp tục sụt giảm. Trong thế giới đang phát triển, sự
thiếu vắng một nhà nước có đủ khả năng và uy quyền đã cản trở phát triển kinh tế
và làm nẩy sinh những tệ nạn như thiếu an ninh trật tự , bệnh tật , khủng bố
…Vì vậy, thế giới phải theo đuổi hai nghị trình trái ngược: cắt giảm tầm vóc
chính quyền trong các xứ phát triển; và tăng cường vai trò nhà nước trong phần
thế giới đang phát triển.
Một thách đố lớn lao hiện nay là
các xứ nghèo thiếu hẵn kinh nghiệm xây dựng những định chế chính trị lành mạnh.
Điều cần nhớ ở đây là phát triển, dù kinh tế hay chính trị, không thể do người
ngoài áp đặt. Đó là một quá trình chỉ có thể xúc tiến và nuôi dưởng bởi chính
người dân bản xứ, những người hiểu rõ phong tục, truyền thống, và trong trường
kỳ, phải đảm nhận trách nhiệm trong quá trình phát triển. Vai trò của người ngoại
cuộc , nếu có, cũng chỉ để hỗ trợ.
Phát triển chính trị, trên nhiều
khía cạnh, thường độc lập đối với phát triển kinh tế, mặc dù, như đã nói ở
trên, cũng thường có ảnh hưởng tương tác.
Trong cuốn The End of
History and the Last Man, Fukuyama chưa đưa ra một lý thuyết phát triển
chính trị độc lập với kinh tế. Theo ông, một lý thuyết như vậy đòi hỏi phải
nghiên cứu nhiều vấn đề: Kinh nghiệm về quá trình hình thành và xây dựng một
nhà nước đã tiếp diễn như thế nào trong lịch sử; vai trò của bạo lực, cạnh
tranh quân sự, tôn giáo, tư tưởng, tác động của yếu tố địa dư vật lý và tài
nguyên; tại sao có sự thành công tại khu vực nầy mà lại không trong nhiều vùng
khác. Tất cả những thành tố đó cần được phân tích rốt ráo, kể cả nguyên nhân của
hiện tượng thoái trào hay mục rửa chính trị như đã được Samuel Huntington nói đến
trong cuốn Political Order in Changing Societies (Trật Tự
Chính Trị trong Các Xã Hội Đang Đổi Thay).
Fukuyama cũng minh định lập trường
đối với ảnh hưởng của yếu tố kỹ thuật. Ông đã đưa ra nhiều trạng huống có thể xẩy
ra.
Trước hết, hiểm họa hủy diệt vì
nguyên tử ( nuclear annihilation ) đã lảng vảng kể từ Hiroshima, càng nghiêm trọng
hơn sau ngày 11-9-2001 với sự phổ biến vũ khí có sức hủy diệt hàng loạt và sự
trỗi dậy của nhiều nhóm khủng bố.
Một trạng huống khả dỉ thứ hai
liên quan đến môi trường. Theo Fukuyama, nếu những cảnh báo về hiện tượng hâm
nóng toàn cầu là chính xác, những biện pháp điều chỉnh trong cách sử dụng nhiên
liệu dầu khí ( hydrocarbon) rất có thể đã quá muộn màng, và quá trình điều chỉnh
tự nó có thể giết chết con gà kinh tế đang cho nhân loại những quả trứng vàng kỹ
thuật .
A.4 : Kỹ
thuật
Trong cuốn Our Posthuman
Future: Consequences of the Biotechnology Revolution (2002), Fukuyama
lập luận, với cuộc cách mạng kỹ thuật sinh học, con người—với kỹ năng uốn nắn ,
nhào nặn bản chất sinh học của chính mình qua kỹ năng kiểm soát bản đồ gin
(genome) hoặc qua những dược phẩm tác động trực tiếp lên các chức năng tinh thần
(psychotropic drugs) hoặc qua khoa học thần kinh nhận thức trực giác tương lai
(future cognitive neuroscience) hoặc qua một vài hình thức gia tăng tuổi thọ –
sẽ đem lại những cách tiếp cận mới trong việc ứng dụng khoa học có thể dẫn đến
những hình thức sinh hoạt chính trị mới.
Nói chung, Fukuyama tin ông có một
quan điểm mang tính định mệnh yếu ớt (weak determinism) về lịch sử tiến hóa của
nhân loại , không cứng nhắc như thuyết định mệnh của Marx và Lenine (strong
determinism) .Theo ông, lịch sử có khuynh hướng chung tiến dần đến dân chủ tự
do. Ông cũng tin nhân loại sẽ còn phải đối mặt với nhiều thử thách như ông đã đặc
biệt nhấn mạnh trên đây . Thuyết định mệnh yếu ớt được hiểu trước các xu thế lịch
sử lớn lao, tài kinh bang tế thế (statesmanship), chính trị, lãnh đạo, và sự lựa
chọn cá nhân vẫn luôn là những yếu tố thiết yếu thực sự giữ vai trò định hướng
quá trình phát triển lịch sử.
Những cơ hội và bất trắc do kỹ
thuật hiện đại mang lại là những thử thách phải được nhân loại kịp thời nắm bắt
và xử lý qua các chính sách và định chế thích nghi. Những sự lựa chọn chính trị
của cử tri và giới lãnh đạo trong các quốc gia, vì vậy, sẽ có ảnh hưởng quyết định
đến tính lành mạnh và chất lượng của thể chế dân chủ tự do trong tương lai .
B : Francis Fukuyama và Phái Tân
Bảo thủ
Francis Fukuyama hiện là giáo sư
kinh tế chính trị quốc tế kiêm giám đốc chương trình phát triển quốc tế tại trường
Cao học Quốc tế thuộc Đại học Johns Hopkins. Ông đổ cử nhân cổ điển từ Đại học
Cornell và nghiên cứu triết học lịch sử dưới sự hướng dẫn của Allan Bloom; tiếp
tục học và đổ tiến sĩ khoa học chính trị tại Harvard. Ngay từ khi còn là một
sinh viên ban cử nhân, ông đã cộng tác với tổ chức Telluride Association, nơi
đã đào tạo những trí thức lãnh đạo lừng danh của Hoa kỳ như Steven Weinberg, từng
được giải Nobel, và Paul Wolfowitz, một giới chức thẩm quyền về quốc phòng và
ngoại giao. Fukuyama đồng thời là chủ tịch và đồng chủ bút tạp chí The American
Interest bên cạnh Brevhnev Brzezinski.
Trên phương diện chính trị, trước
đây Fukuyama được biết đến như một thành viên của nhóm Tân Bảo Thủ. Như một
thành viên năng động trong đề án The Project for the New American Century từ
năm 1997, ông đã ký tên trong thư của tổ chức nầy gửi Tổng Thống Bill Clinton
khuyến cáo lật đổ Tổng Thống Iraq Saddam Hussein. Sau biến cố 11-9-2001,
Fukuyama cũng đã ký tên trong một thư ngõ tương tự gửi Tổng thống George W.
Bush kêu gọi phải lật đổ Saddam Hussein “ngay cả khi không có bằng chứng Iraq
liên hệ trực tiếp đến vụ tấn công” .
Tuy nhiên, sau đó Fukuyama dần dà
xa lánh nghị trình tân bảo thủ vì theo ông, nghị trình của nhóm nầy quá nghiêng
về biện pháp can thiệp quân sự đơn phương nhằm thúc đẩy quá trình dân chủ hóa
trong các xứ có chính quyền chuyên chế, đặc biệt ở Trung Đông. Vào cuối năm
2003, khi cuộc xâm chiếm Iraq đã có dấu hiệu thất bại rõ ràng, Fukuyama quyết định
rút lui sự ủng hộ của chính ông và kêu gọi bộ trưởng quốc phòng Donald Rumsfeld
từ chức. Ông cũng cho biết ông đã không bỏ phiếu cho George W. Bush vì Bush đã
phạm ba lỗi lầm quan trọng:
(1) Đã thổi phồng quá đáng hiểm họa
Hồi giáo quá khích đối với Hoa kỳ.
(2) Chính quyền Bush đã không
tiên liệu được các phản ứng tiêu cực nghiêm trọng đối với “địa vị bá chủ nhân hậu”
(benevolent hegemony) của Hoa Kỳ.
(3) Chính quyền Bush đã sai lầm
trong phương cách đem lại hòa bình ở Iraq và quá lạc quan về viễn tượng thành
công trong tính toán ứng dụng khoa học xã hội (social engineering) nhằm áp đặt
các giá trị Tây phương lên Iraq và vùng Trung Đông nói chung.
Để hiểu rõ chính sách đối ngoại
mang tính đế quốc của Hoa kỳ, nhiều sử gia, đặc biệt ở Hoa kỳ, đã phân tích,
nghiên cứu vai trò những quan chức hoạch định nghị trình của nhiều thế hệ tổng
thống trong nhiều giai đoạn lịch sử của cả hai đảng Cộng hòa và Dân chủ.
Ở đây chúng ta chỉ tập trung vào
những diễn biến trong vòng mấy năm gần đây .
Cuộc chiến Iraq đã bước qua năm
thứ năm vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc hoặc sẽ kết thúc như thế nào. Điều rõ
ràng, như đã thấy ở những phần trên, là đã có sự rạn nứt trong hàng ngũ những
quan chức chủ chiến thuộc nhóm The Project For the New American Century
(PNAC).Trong nhóm nầy, người ta thường nhắc đến Dick Cheney, Eric Edelman,
Robert Kagan, Irving Kristol, Zalmay Khalizad, Lewis “Scooter” Libby,
Condoleezza Rice, Paul Wolfowitz.
Tài liệu về sự xét lại lập trường
xâm lăng Iraq có thể chứa đầy cả một thư viện. Nhiều tướng lãnh cũng đã công
khai lên tiếng chỉ trích cá nhân Rumsfeld ngay khi ông còn giữ chức bộ trưởng
quốc phòng. Nhưng rất ít người được giới truyền thông quốc tế quan tâm như
Fukuyama . Tiếng tăm lừng lẩy của tác giả cuốn The End of History and
the Last Man là một lý do. Lý do thứ hai là người ta đã giật mình trước
sự rời bỏ hàng ngủ Tân Bảo Thủ của ông.Tuy nhiên nếu chỉ xem tác phẩm America
at the Crossroads như một cọng rơm chính trị trước gío là chúng ta đã đánh giá
quá thấp và bất công trước những công trình đã đem lại tiếng tăm cho chính tác
giả.
Luận cứ trong cuốn America at the
Crossroads có ba thành tố .
(1) Trước hết , Fukuyama truy cứu
nguồn cội của chủ thuyết Tân Bảo Thủ hiện nay. Chủ thuyết nầy bắt đầu với một
nhóm trí thức New York, đa số có gốc Do Thái. Những người nầy, lúc thiếu thời,
đều theo chủ nghĩa xã hội, nhưng về sau, trong thời chiến tranh lạnh, đã tập hợp
dưới cờ phe chống đối phái Tân Tả (New Left) suốt chiều dài cuộc chiến Việt
Nam. Nghị trình xã hội của họ nhằm chống đối chủ nghĩa tự do an sinh (welfare
liberalism) do Irving Kristol và Daniel Bell khai triển trong tạp chí The
Public Interest, và được các triết gia Leo Strauss và Allan Bloom hỗ trợ về căn
bản triết lý, và chiến lược gia hỏa tiễn nguyên tử Albert Wohlstetter về quân sự.
Fukuyama công nhận đã tham gia vào các công trình vừa nói . Nhưng điều ông nhấn
mạnh là cuối cùng cả nhóm đã hội tụ trong dòng chảy rộng
lớn hơn của chủ thuyết bảo thủ: tin tưởng vào một nhà nước thu gọn, sùng đạo,
chủ nghĩa quốc gia ... làm nền móng cho đảng Cộng hòa. Cùng nhau, họ đã tạo
thành một dòng thác đưa Ronald Reagan lên làm tổng thống.
(2) Nhưng theo Fukuyama, thành tựu
lớn lao nhất của trào lưu bảo thủ đang lên—chiến thắng trong cuộc chiến tranh lạnh—đã
chứa đựng mầm giải thể của phái Tân Bảo Thủ. Sự tan rã của Liên bang Xô Viết đã
khiến Hoa kỳ quá tự tin ở khả năng uốn nắn, định hình một thế giới mới . Ảo tưởng
áp lực kinh tế, quân sự của Hoa kỳ là nguyên nhân trực tiếp đưa đến sự sụp đổ bất
thần của Liên Bang Xô Viết, một sự sụp đổ, trong thực tế, bắt nguồn từ thối rữa
bên trong, một nhóm tư tưởng gia trẻ tuổi –đặc biệt là William Kristol và
Robert Kagan- bồng bột tin có thể đạp đổ những chế độ toàn trị và gieo trồng tự
do trong các vùng khác một cách chóng vánh.Theo Fukuyama, chính ảo tưởng nầy đã
đưa tới cuộc chiến Iraq. Không quan tâm đến hoàn
cảnh chính trị đặc thù của vùng Trung Đông cũng như những cảnh báo của các sáng
lập viên Tân Bảo Thủ đối với các kế sách quá duy ý chí về kỹ năng cấu trúc xã hội
(social engineering), các người soạn thảo kế họach xâm lăng đã xô đẩy Hoa kỳ
vào một thảm họa đòi hỏi phải mất nhiều năm mới có thể phục hồi. Hành động đơn
phương không cần thiết đã cô lập Hoa kỳ với công luận thế giới, nhất là với các
đồng minh Âu châu, cũng như đã làm suy yếu thay vì tăng cường địa vị của Hoa kỳ
trên thế giới.
(3) Trong phần thứ ba của tác phẩm
America at the Crossroads, Fukuyama phác họa một chính sách đối ngoại mới nhằm
phục hồi vị trí chính đáng của Hoa kỳ trên trường quốc tế. Theo tác giả, một chủ
thuyết Wilson thực tiễn (realistic Wilsonianism) -- cơ sở trên những cương lĩnh
tân bảo thủ tốt nhất, ôn hòa hơn, trên một ý thức đầy đủ và rõ ràng về sự hiện
hữu và tính bền vửng của các nền văn hóa đặc thù bất khả khống chê’ khác cũng
như về giới hạn của quyền lực Hoa kỳ -- có thể duy trì khả năng chiến tranh
phòng ngừa (pre-emptive war) như một biện pháp cuối cùng , và nổ lực phát huy
dân chủ trên toàn cầu như một mục tiêu thường trực. Nhưng Hoa kỳ nên luôn tham
vấn đồng minh, nên sử dụng quyền lực mềm nhiều hơn quyền lực cứng, ứng dụng
khoa học xã hội vào công trình
xây dựng nhà nước và cổ súy các hình thức đa phương, tránh né các bế tắc của
Liên Hiệp Quốc. Fukuyama kết luận, phương thức tốt nhất để Hoa kỳ hành xử quyền
uy của mình không phải là biện pháp quân sự, mà qua khả năng định hình các định
chế quốc tế. Đó là phương sách đạt đồng thuận ít tốn kém nhất trong những toan
tính, hành động của Hoa kỳ .
Trong cấu trúc ba thành tố của cuốn
America at the Crossroads –tóm lược lịch sử của chủ thuyết Tân Bảo Thủ; phê
bình phương cách tiến hành cuộc chiến Iraq; phác thảo một chính sách thay thế –
cốt lõi của luận cứ nằm trong thành tố thứ hai. Với phong thái bình thản và tự
tin, Fukuyama tóm lược quá trình hình thành phái tân bảo thủ trong đó có ông và
vai trò của họ trong quá trình xúc tiến cuộc chiến. Nhưng đó chỉ là một cái
nhìn từ bên trong chứa đựng một ảo ảnh khả nghi. Mọi sự xẩy ra như chính nhóm
tân bảo thủ là động lực căn bản đứng sau cuộc tiến chiếm Baghdad, và chính tư
tưởng của nhóm nầy cần phải được điều chỉnh nếu Hoa kỳ không muốn đi trật hướng
.
Trong thực tế, hàng ngũ những người
gây áp lực đòi hỏi phải tấn công Iraq không giới hạn trong một phe phái Cộng
hòa đặc biệt nào mà còn có cả nhiều người thuộc phe Tự do và Dân chủ . Chẳng hạn
Kenneth Pollack, một quan chức trong chính quyền Clinton, cũng đã đưa ra kế hoạch
đầy đủ chi tiết để tấn công Saddam Hussein. Một viên chức cao cấp khác trong guồng
máy an ninh quốc gia dưới thời Clinton, Philip Bobbitt, cháu của Lyndon
Johnson, cũng đã đưa ra lý thuyết làm căn bản cho kế hoạch can thiệp quân sự nhằm
tiêu diệt những chế độ bất trị ngoài vòng pháp luật, và củng cố nhân quyền trên
khắp thế giới . Bên cạnh một magnum opus dài 900 trang,Tấm Lá Chắn Achilles , một
tuyệt tác mang tham vọng lịch sử lớn lao kết cục với một chuổi nhiều trạng huống chiến
tranh đầy kịch tính trong tương lai mà Hoa kỳ cần phải chuẩn bị trước để lâm thời
đối phó, những biên tập viên trong tuần báo The Weekly Standard thật không mấy
nặng ký .
Không một thành viên tân bảo thủ
nào đã đạt đến trình độ cao xa đó. Cánh tự do trong giới chính trị ở Washington
cũng không thiếu những thành viên cỡ khiêm tốn hơn –những Ignatieffs và Bermans
– lớn tiếng kêu gọi một cuộc viễn chinh ở Trung Đông. Điều nầy cũng chẳng có gì
phi lý và đáng ngạc nhiên.
Cuộc chiến ở vùng Balkans của phe
Dân chủ gạt bỏ chủ quyền quốc gia như một định chế lổi thời đã là điều kiện tức
thì và là một lò thực tập chiến tranh cho phe Cộng hòa ở Mesopotamia. Lý do diệt
chủng ở Kosovo chỉ được thổi phồng chút ít so với lý do vũ khí tiêu diệt hàng
loạt ở Iraq. Trong lịch sử, nhiều chiến dịch - trong một dịp lở lời hiếm hoi
Fukuyama đã tự cho phép gọi “đế quốc Hoa kỳ ở hải ngoại” (American overseas
empire) - đã luôn mang tính lưởng đảng và sẽ tiếp tục như thế.
Ngay trong nội bộ đảng Cộng hòa,
một số trí thức tân bảo thủ, chưa hẵn là nòng cốt, cũng chỉ là một nhóm nhỏ
trong đám đông đã thúc đẩy chính quyền Bush lao vào cuộc phiêu lưu Iraq. Trong
sáu vị thần lửa dọn đường cho cuộc xâm lăng đã được James Mann liệt kê trong
tác phẩm nghiên cứu Quật Khởi của các Thần Lửa – Lịch Sử Nội Các Chiến Tranh của
Bush , chỉ có Paul Wolfowitz là thuộc giới xét lại của Fukuyama . Ba gương mặt
nổi trội hoạch định và biện minh cho cuộc xâm lăng –Rumsfeld, Cheney và Rice –
không ở trong hàng ngũ tân bảo thủ. Fukuyama hiểu rõ điều đó, nhưng tảng lờ
không giải thích, mà chỉ ghi nhận “ở thời điểm nầy chúng tôi không rõ căn
nguyên quan điểm của họ . Như vậy thì vị trí của ông ở đâu trong tập thể ông mô
tả?
Ở đây, trái với lệ thường, ông chỉ
lướt qua không đề cập. Với thái độ không quan tâm "khả nghi", ông chỉ
nói khởi đầu khi cuộc chiến chưa xẩy ra, ông có lập trường “khá diều hâu đối với
Iraq” (fairly hawkish on Iraq), vê‘ sau khi cuộc xâm lăng đã phát động, ông chống
đối.
Đến đây tưởng cần nhắc lại, vào
tháng 6, 1997, Fukuyama là một trong những sáng lập viên đề án The Project for
the New American Century bên cạnh Rumsfeld, Cheney, Dan Quayle, Wolfowitz ,
Scooter Libby, Zalmay Khalizad, Norman Podhoretz, Elliott Abrams và Jeb Bush.
Cương lĩnh của nhóm kêu gọi “một chính sách Reaganite cơ sở trên sức mạnh quân
sự và sáng tỏ về đạo đức” [để] “phát huy chính nghĩa tự do chính trị và kinh tế
ở các nước ngoài” .
Tháng giêng năm 1998, ông và tám
thành viên khác nhân danh cả nhóm ký vào một thư ngõ gửi Tổng Thống Clinton đòi
hỏi “phải sẵn sàng hành động quân sự” để “lật đổ chế độ Saddam Hussein” ; và
tuyên bố “với những nghị quyết hiện hữu của Liên Hiệp Quốc , Hoa kỳ có đủ thẩm
quyền thực hiện những bước cần thiết” để đạt mục đích đó. Bốn tháng sau,
Fukuyama cùng một số thành viên bạn tố cáo sự thiếu hành động như một “sự đầu
hàng Saddam” (a capitulation to Saddam) và là “ một cái tát mạnh vào quyền lãnh
đạo và uy tín của Hoa kỳ”(an incalculable blow to the American leadership and
credibility) và nêu rõ những biện pháp cần thiết để chống lại chính quyền đảng
Baath : “Chúng ta phải giúp thành lập và hỗ trợ (với các phương tiện kinhtế,
chính trị , và quân sự) một chính phủ lâm thời, có tính đại diện và tự do”
trong "những vùng giải phóng ở bắc và nam Iraq” dưới sự bảo vệ của “quân lực
Hoa kỳ và đồng minh" . Nói một cách khác, một sự xâm lăng nhằm thành lập
chế độ Chalabi ở Basra hoặc Najaf , và từ căn cứ nầy lật đổ Saddam .
Dưới thời Tổng Thống G.W.Bush, hàng
ngũ nhóm PNAC -- được tăng cường với sự gia nhập của những thành viên hạng nặng
mới như Stephen Solarz và Marshall Wittmann, hai đảng viên Dân chủ kỳ cựu và
thành viên Hội đồng Lãnh đạo Dân chủ đương thời –trở lại tấn công, và Fukuyama
một lần nữa ở hàng tiền đạo thúc đẩy xâm chiếm Iraq. Ngày 20-9-2001, hơn một tuần
sau biến động 11-9, Fukuyama lại đặt bút ký vào một thư ngõ khác trắng trợn đòi
hỏi phát động chiến tranh chẳng cần lưu ý sự khả dĩ Iraq có liên hệ gì với Al
Qaeda hay sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt:
“Có thể chính phủ Iraq đã trợ
giúp dưới một hình thức nào đó trong vụ tấn công Hoa kỳ gần đây. Nhưng ngay cả
khi không có bằng chứng Iraq có liên hệ trực tiếp đến cuộc tấn công, bất cứ một
chiến lược nhằm tiêu diệt tận gốc nạn khủng bố và các hậu thuẩn cũng phải bao gồm
sự quyết tâm loại bỏ Saddam Hussein khỏi chính quyền Iraq. Không làm được điều
đó có nghĩa một sự đầu hàng sớm sủa mang tính quyết định trong cuộc chiến chống
khủng bố toàn cầu.Vì vậy, Hoa kỳ phải yểm trợ quân sự và tài chánh đầy đủ cho
phe chống đối Iraq. Lực lượng quân sự Hoa kỳ phải được sử dụng để tạo lập một
khu an toàn ở Iraq từ đó phe đối lập có thể hoạt động. Và lực lượng Hoa kỳ phải
chuẩn bị để thực thi cam kết của mình vớiphe đối lập Iraq bằng mọi phương tiện
cần thiết” .
Đi xa hơn , các người ký tên còn
ghi thêm “ mọi cuộc chiến chống khủng bố phải nhằm cả Hezbollah" và phải
chuẩn bị "các biện pháp trả đủa thích ứng" đối với Syria và Iran như
những quốc gia bảo trợ.
Nhắc lại cuộc vận động sắt máu ở
Trung Đông không phải nhằm tách riêng Fukuyama để đặc biệt lên án. Xét cho
cùng, chính Quốc hội, với sự đồng thuận hầu như của cả hai đảng Cộng hòa và Dân
chủ, đã bật đèn xanh cho cuộc tiến chiếm Iraq. Tuy nhiên, sự dấn thân quá sâu của
Fukuyama vào cuộc vận động tiến chiếm Baghdad, sâu hơn là ngày nay Fukuyama muốn
xác nhận, đặt ra một câu hỏi quan trọng: Nếu từ đầu khi mới nhập cuộc ông đã
lăn xã vào cuộc phiêu lưu Iraq, tại sao về sau ông lại đoạn tuyệt với cuộc chiến
và các đồng minh tinh thần của ông trước đây một cách dứt khoát đến thế? Đã hẵn
thảm họa do sự chiếm đóng là lý do rõ ràng nhất –nhiều người trong cuộc, lớn
cũng như bé , đã lần lượt xé rào khi thuyền sắp đắm . Lý donầy, tuy vậy, không
thể là nguyên nhân chính đã khiến Fukuyama thay đổi lập trường. Ông bảo ông đã
mất tin tưởng ở cuộc xâm lăng trước khi cuộc chiến bắt đầu, và không có lý do
gì để nghi ngờ ông. Vã chăng, sự vở mộng vì thiếu thành công trong khi thực hiện
một công trình đáng khen trên nguyên tắc cũng là chuyện bình thường trong phái
bảo thủ, và cũng chưa bao giờ đưa đến chỉ trích và đổ vở như trường hợp
Fukuyama. Người ta cũng đã có thể bảo Chiến dịch Iraq Tự do ( Operation Iraq
Freedom ) đã hỏng, ngay cả nói bây giờ nhìn lại , đây là một sai lầm ngay từ đầu,
đâu cần đến một điếu văn cho chủ thuyết tân bảo thủ! Như vậy, điều gì đã gây ra
sự rạn vở bất thần giữa Fukuyama và các bạn đồng thuyền của ông trước đây?
Perry Anderson, trong bài khảo luận
nhan đề Người Trong Cuộc (Inside Man) đăng trên tạp chí The Nation số ra ngày
24-4-2006 , đã diễn dịch, từ cuốnAmerica at The Crossroads và bài
viết "The Neoconservative Moment" trong tạp chí The National Interest
, hai yếu tố đưa đến sự chia rẽ vừa nói.
Trước hết, Fukuyama không chia sẻ
một trình độ liên minh quá chặt chẻ với Do Thái như các bạn đồng thuyền gốc Do
Thái. Trong The National Interest, ông phàn nàn, không phải vì Hoa kỳ, trong thực
tế, đã quá lệ thuộc Do Thái trong các mục tiêu theo đuổi ở Trung Đông, mà vì đa
số bạn của ông đã nhại theo quan điểm của Do Thái về thế giới Á Rập một cách
quá đáng. Ông nhận định gửi đến vùng Trung Đông một cử chỉ đe dọa có thể là một
điều hợp lý đối với Tel Aviv, nhưng không nhất thiết là có lợi cho Hoa kỳ. Mặc
dù rất tế nhị và dè dặt trong lời chỉ trích, Fukuyama cũng đã gặp phải những phản
ứng thù nghịch. Để đáp lễ, Charles Krauthammer lên án Fukuyama là đã sáng tạo một
“phương thức tân kỳ để Do Thái hóa tân bảo thủ” (a novel way
oflang="fr"> Judaizing neoconservatism), ít sống sượng hơn sự lăng
nhục bởi Pat Buchanan và Mahatmir Mohamad nhưng không kém lố bịch – khiến
Fukuyama phải phản đối là đã bị chụp mủ chống Do Thái (anti-Semitism). Bị phỏng
lửa và ý thức được tính tế nhị và nhạy cảm của đề tài, Fukuyama đã không trở lại
vấn đề trong cuốn America at the Crossroads xuất bản sau đó, chỉ giải thích
thái độ ông đã chỉ trích trước đây chỉ đúng với cá nhân vài thành viên nhưng
không thể quy kết cho phái tân bảo thủ nói chung , và làm hòa bằng sự ủng hộ rộng
rãi chính sách Palestine của chính quyền Bush. Bên sau cử chỉ lễ độ đó, chưa hẵn
ông đã hết dè dặt .
Tuy nhiên, yếu tố gây chia rẽ thứ
hai có lẽ quan trọng hơn nhiều . Chuyến viếng thăm Âu châu vào mùa hè năm 2003,
Fukuyama giải thích, đã làm ông mở mắt trước sự bàng hoàng thất vọng ngay trong
các người cảm phục Hoa kỳ nhất, trước chủ nghĩa đơn phương của chính quyền Bush.
Sự thất vọng phản ảnh bởi chủ bút tờ Financial Times, một trụ cột của khối Đại
Tây Dương, thật đáng quan ngại. Liệu một chính sách đối ngoại đã đánh mất những
đồng minh thân cận nhất có đáng giá cho Hoa kỳ theo đuổi? Khác với Do Thái, sau
lời cải chính lúc đầu của Fukuyama, không còn đựơc nhắc tới nhiều trong America
at the Crossroads, Âu châu thì trái hẵn. Fukuyama đã lên tiếng báo động chính
quyền Bush về phản ứng mạnh mẻ của Âu châu. Ông tin sự rạn nứt do chiến tranh
Iraq không phải chỉ là một sự cải vả bình thường. Đó là một địa chấn (tectonic
shift) làm thay đổi liên minh Tây phương. Với hàng triệu người xuống đường, Âu
châu chưa bao giờ hồn nhiên biểu lộ một lập trường thống nhất trước một vấn đề
đơn độc như cuộc chiến Iraq. Chính vì vậy, Dominique Strauss-Kahn, nguyên Bộ
Trưởng Tài chánh Pháp, đã đặt tên các cuộc xuống đường đó là ngày khai sinh quốc
gia Âu châu (birth of the European nation). Chủ thuyết chống Hoa kỳ
(anti-Americanism) đã lan tràn khắp Đại Tây Dương và đang đe dọa sự thống nhất
của Tây phương .
Những lo ngại đó tuy rất phổ biến
nhưng không mấy thực tế. Sự chống đối cuộc chiến Iraq của Âu châu tuy có chiều
rộng nhưng không có chiều sâu. Sự chống đối lúc đầu rất rộng lớn, nhưng sau khi
cuộc xâm lăng đã xảy ra, chỉ còn lai rai, èo ọp . Các cuộc biểu tình chống chiếm
đóng rất hiếm hoi và rất thưa thớt, trái hẵn với làn sóng phản kháng trong cuộc
chiến Việt Nam trước đây. Chính phủ Anh tham gia cuộc tấn công bên cạnh Hoa kỳ
đã không bị trừng phạt ở phòng phiếu. Chính phủ Đức, ngay từ đầu chống cuộc xâm
chiếm, nhưng chẳng bao lâu, từ sau hậu trường, đã giúp Hoa kỳ qua việc cung cấp
thông tin liên quan những mục tiêu ở Baghdad và hợp tác với CIA trong việc bí mật
vận chuyển tù binh. Chính phủ Pháp, tuy bị Fukuyama lên án là đã phản
bội Hoa kỳ tại Hội Đồng Bảo An
Liên Hiệp Quốc, trong thực tế, đã thỏa thuận để Hoa kỳ tiến hành cuộc chiến
không cần một nghị quyết mới, và đã hợp tác chặt chẻ với Hoa kỳ trong việc thiết
lập những chế độ “thích ứng” ở Haiti và Lebanon. Xét cho cùng, tất cả đều thống
nhất trong lập trường đối với Iraq. Thực ra sự chống đối Hoa kỳ của Âu châu
mang tính hờn dỗi, giận lẩy hơn là căm tức, hoảng hốt. Hờn dỗi vì tự ái bị tổn
thương do sự thiếu tế nhị ngoại giao từ phía chính quyền Bush. Bất bình, phiền
trách ở đây chỉ mang tính kiểu cách hơn là thực chất hay căn bản (a matter of
style rather than substance).
Trên phương diện nầy, Krauthammer
đã tỏ ra sáng suốt hơn những người phê bình ông. Gạt bỏ mối lo ngại của
Fukuyama cho rằng chính sách ngoại giao của Hoa kỳ bị lâm nguy vì đã đánh mất
tính chính đáng quốc tế, Krauthammer đưa ra nhận xét, lâm nguy không phải vì
thiếu hậu thuẩn của Âu châu hay nghị quyết của Liên Hiệp Quốc, mà chính là vì sự
chống đối của người Iraq. Chính ý chí đề kháng kiên cường của dân Iraq đã đe dọa
chủ thuyết Bush (Bush Doctrine). Nếu không có phong trào kháng chiến của du
kích quân Iraq, dư luận Âu châu cũng chẳng mấy bận tâm với sự chiếm đóng Iraq
cũng như trước đây đã không mấy quan tâm đến sự chiếm đóng Panama.
Theo Perry Anderson, nếu sự hiểu
lầm phản ứng của Âu châu của Fukuyama mang tính ước lệ ( conventional), thì
quan điểm của ông về Hồi giáo kinh điển lại phi ước lệ (unconventional) một
cách đáng ngạc nhiên, khác xa quan điểm tân bảo thủ và dòng chính . So sánh với
những đối thủ lịch sử của chủ nghĩa dân chủ tư bản - Phát xít và Cộng sản - Al
Qaeda và các tổ chức liên hệ chỉ là một lực lượng nhỏ bé. Trừ phi nắm được vũ
khí có sức hủy diệt hàng loạt, những tổ chức nầy không đủ khả năng tác hại
nghiêm trọng xã hội Hoa kỳ, nói gì đến khả năng trở thành mối đe dọa toàn cầu
cho nền văn minh tự do. Tuyên chiến với các tổ chức khủng bố toàn cầu là một sự
phóng đại vô nghĩa các chiến dịch nhằm tiêu diệt những nhóm cuồng tín ôm ước
mơ một Caliphate mới - một quốc gia Hồi giáo đặt dưới quyền lãnh đạo thế tục lẫn
tôn giáo của một thừa kế của Muhammad. Hoảng sợ trước một đe dọa tương đối nhỏ
có thể dẫn dắt đến những toan tính sai lầm lớn lao cần tránh né của người Mỹ,
vì sau biến cố 11-9, hiểm họa khủng bố đối với Âu châu, với những cộng đồng Hồi
giáo nhập cư đông đảo , tương đối nghiêm trọng hơn là đối với Hoa kỳ.
Sự sáng suốt đã đến với Fukuyama
khá muộn màng tiếp theo sau những thư ngõ hiếu động và chủ chiến. Nhưng đó là
nét đặc trưng trong những tác phẩm của Fukuyama luôn bình thản, sáng sủa, mạch
lạc . Phán đoán của ông đã kéo chúng ta về với năng khiếu lý luận và đóng góp
tư tưởng của ông nói chung. Luận cứ nổi tiếng trong cuốn The End of History and
the Last man là với sự thất bại của chủ nghĩa Cộng sản tiếp theo sau chủ nghĩa
Phát xít, chủ nghĩa tư bản tự do như mô hình tổ chức xã hội đã vượt qua nhiều
thử thách lịch sử không còn có thể cải thiện hơn nữa. Thế giới vẫn còn đầy dẫy
xáo trộn, xung đột, khả dĩ đưa đến nhiều biến động bất ngờ, nhưng khó thể thay
đổi phán xét lịch sử vừa nói. Đã hẵn không có gì bảo đảm là nhân loại
từ khắp mọi chân trời có thể chóng vánh đi tới đích –một nền dân chủ hòa bình
thịnh vượng cơ sở trên quyền tư hữu, thị trường tự do,và bầu cử định kỳ; nhưng
những định chế nầy đã là trạm cuối trong quá trình tiến hóa lịch sử. Viễn ảnh
thấp thoáng của cánh cửa tiến hóa xã hội khép lại không hẵn là đơn thuần hoan lạc
hạnh phúc. Cùng đến ở trạm cuối chắc chắn còn có sự thiếu vắng lý tưởng với những
căng thẳng nhưng đầy hồi hộp, và có lẽ có cả sự nhàm chán. Sự nuối tiếc những
thời kỳ nhiều biến động và sôi nổi chắc cũng khó tránh .
Căn bản triết lý của cấu trúc nói
trên, như Fukuyama đã nói rõ, đã đến từ biện chứng nhận diện của Hegel
(dialectic of recognition) do Alexandre Kojève sửa đổi lại . Theo Kojève , sự đấu
tranh giữa hai giới chủ và nô lệ, nói rõ hơn, giữa các giai cấp xã hội, qua nhiều
thế kỹ, đã tiến đến gần một xã hội bình đẳng quyết định, một tình trạng thuần
nhất phổ qúat dẫn dắt lịch sử đến trạm dừng cuối: một quan niệm đồng nhất với
xã hội chủ nghĩa, và về sau với tư bản chủ nghĩa, luôn mang tính trớ trêu thần
bí. Fukuyama lựa chọn cơ cấu lý giải nầy nhưng xây dựng lại trên quan niệm siêu
hình về bản chất con người, một quan niệm vay mượn từ Plato nhưng xa lạ với
Kojève, đồng thời với nhản quan bảo thủ hơn do ảnh hưởng của thầy cũ Leo Strauss.
Kojève và Strauss trao đổi và chia sẻ nhiều tư duy trí thức nhưng lại xa cách
nhau trong chính trị và siêu hình. Strauss, một nhà tư tưởng cánh hữu vững chắc,
không thiện cảm với Hegel, nói gì đến Marx. Theo Strauss, sự suy diễn hay diễn
dịch các quan niệm tự do và bình đẳng từ Hegel và Marx của Kojève chỉ có thể
báo hiệu một thế giới chuyên chế. Strauss tin tưởng ở nhiều chế độ đặc thù khác
nhau cũng như ở các đẳng cấp tự nhiên.
Vì vậy, trong tư tưởng và tác phẩm
của Fukuyama, sự tổng hợp hai luồng ảnh hưởng từ Kojève và Strauss luôn có sự
căng thẳng, lủng củng. Trong những năm cuối của chiến tranh lạnh, sự lủng củng
nầy còn có thể ẩn dấu, bởi lẽ các quyền lợi phổ quát của chủ nghĩa tư bản dân
chủ còn được duy trì với sự đồng thuận, chưa mấy căng thẳng với một Pax
Americana; và chưa có mâu thuẩn đáng kể giữa thế giới tự do và địa vị bá chủ của
Hoa kỳ. Nhưng một khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ ở Nga và được trung hòa hóa ở
Trung Quốc, một tình hình mới xuất hiện. Một mặt, với sự vắng bóng một kẻ thù
chung, các xứ tư bản khác không còn đủ lý do để phải chấp nhận một cách bất đắc
dĩ quyền điều khiển của Hoa kỳ như trước. Nhưng đồng thời,
sự tan rã của Liên Bang Xô Viết đã giúp nối dài tầm với của Hoa kỳ ra khắp toàn
cầu. Như vậy, khách quan mà nói, vai trò lãnh đạo của Hoa kỳ không còn thiết yếu
với toàn hệ thống; nhưng về mặt chủ quan, với địa vị siêu cường duy nhất, tham
vọng của Hoa kỳ lại gia tăng hơn bao giờ hết. Trong những điều kiện mới mẻ đó,
sự đòi hỏi của hệ thống nói chung, đến một lúc nào đó, có thể không còn trùng hợp
với những quyền lợi của siêu cường duy nhất đang giữ vai trò lãnh đạo, là một
điều khó tránh. America at the Crossroad phải được hiểu trong bối cảnh vừa nói;
vì chính Fukuyama đã rời hàng ngũ tân bảo thủ đúng ngay thời điểm đổi thay tế nhị
đó. Phần chính của tác phẩm được dành để đả kích chủ thuyết biệt lệ Hoa kỳ (American
exceptionalism). Tác giả muốn nói đến học thuyết xem “Hoa kỳ không như các xứ
khác vì thế giới có thể tin Hoa kỳ luôn có nhiều phương cách sử dụng sức mạnh
quân sự một cách chính đáng và khôn ngoan , một điều các đại cường khác không
thể làm” . Theo Fukuyama, chính Kristol và Kagan đã ngông cuồng rêu rao như thế,
vì vậy, đã gieo mầm thù nghịch trong các đồng minh, và dẫn dắt đến những lỗi lầm
cao ngạo trong cuộc chiến Iraq.
Về phương diện chính trị,
Fukuyama đã được un đúc và luôn trung thành với lò luyện Leo Strauss. Về tinh
thần, dấu ấn của Kojève sâu đậm hơn, và ảnh hưởng rất nhiều đến phong cách cấu
trúc nội dung tác phẩm . Bị dồn vào thế phải lựa chọn giữa luận cứ ( logic) của
Kojève và Strauss, Fukuyama đã chọn lý trí thay vì tình cảm . Sở dĩ Fukuyama đã
quyết định rời hàng ngũ tân bảo thủ, đó là vì cuộc chiến Iraq đã phơi bày sự dị
biệt trong nguồn gốc tư tưởng của hai bên. Khác với các thành viên tân bảo thủ
khác, tư tưởng hướng đạo của Fukuyama mang nguồn gốc Âu châu. Thực vậy, Kojève,
trái với mong mỏi lúc ban đầu, đã xem sự hình thành một Âu châu siêu quốc gia
như lý do quyết định, khi chủ nghĩa tư bản toàn cầu, thay vì chủ nghĩa xã hội
thu hẹp trong biên giới nhỏ bé từng quốc gia, đã trở thành điểm đến
chung của nhân loại. Riêng với Strauss, từ lâu luôn trung thành với chủ nghĩa
Do thái (Zionism), các chế độ do bản chất luôn mang tính đặc thù. Strauss luôn
dửng dưng với các kế hoạch hay hệ thống toàn cầu. Mặc dù không mấy ấn tượng bởi
xã hội Hoa kỳ, ông luôn kính phục những Nhà Lập Quốc (Founders). Ông đã dựng
lên trường phái chủ nghĩa quốc gia gồm những tư tưởng gia về hiến pháp. Nói một
cách ngắn gọn ,sự lựa chọn của các thừa kế tân bảo thủ đã phản ảnh nguồn gốc tư
tưởng khác nhau của họ .
Tuy vậy cả hai phía vẫn chia sẻ
những ưu tư chung. Điều khiến họ không cùng chung chiến tuyến là phương cách
dung hòa hai luồng tư tưởng. Kristol và Krauthammer, tuy là những người Mỹ ái
quốc , nhưng họ cũng chẳng kém bất cứ ai trong quyết tâm truyền bá dân chủ tư bản
trên khắp thế giới. Về phương diện nầy, rất ít người chủ trương toàn cầu hóa có
lập trường diều hâu như họ. Ngược lại, Fukuyama có thể chỉ trích thuyết biệt lệ
Hoa kỳ (US exceptionalism), nhưng ông chắc chắn không bao giờ từ bỏ tinh thần
quốc gia ông đã thừa kế từ Strauss. Không phải vô cớ khi ông chọn tên The
American Interest (Quyền Lợi Hoa kỳ) cho tạp chí mới của ông. Krauthammer tự đặt
tên cho quan điểm của mình là Democratic Realism (chủ thuyết thực tiễn dân chủ)
trong khi Fukuyama lại gọi viễn kiến của mình là
Realistic Wilsonianism ( chủ thuyết Wilson thực tiễn). Phải chăng đây chỉ là một
sự phân biệt mà chẳng có dị biệt ? Không hẵn thế --thực ra sự đảo ngược danh từ
và tỉnh từ có nghĩa danh từ hàm ý một sự trung thành căn bản và tỉnh từ để chỉ
một ảnh hưởng thứ yếu. Đối với các thành viên tân bảo thủ nòng cốt, quyền lực của
Hoa kỳ là đầu máy hướng dẫn tự do trên toàn thế giới: không có và không thể có
sự thiếu nhất trí giữa đôi bên.Nhưng theo Fukuyama, sự trùng hợp hay nhất trí
đó không mang tính tự động. Đầu máy Hoa kỳ và tự do thế giới có thể rời xa
nhau; và nguyên nhân tách rời bắt nguồn từ chính sự tuyên bố hai bên không thể
tách rời nhờ ở đức tính bất vụ lợi và chính đáng của siêu cường Hoa kỳ --một sự xác quyết
không thuyết phục được ai. Fukuyama viết : “Ý tưởng Hoa kỳ luôn xử sự một cách
bất vụ lợi trên trường quốc tế là một điều chẳng mấy ai tin, vì phần lớn không
đúng sự thật và thực ra không thể đúng sự thật vì các nhà lãnh đạo Hoa kỳ phải
làm tròn trách nhiệm đối với nhân dân Hoa kỳ. Hoa kỳ chỉ có thể rộng rãi trong
việc cung cấp những sản phẩm công cho thế giới và thường rất rộng rãi khi có sự
trùng hợp giữa lý tưởng và quyền lợi riêng. Nhưng Hoa kỳ là một siêu cường với
những quyền lợi không dính dáng gì tới sản phẩm công toàn cầu” .
Phủ nhận sự thật hiển nhiên đó
thường đưa đến những chính sách tai hại cho quyền lợi Hoa kỳ và cũng không đem
đến tài sản công toàn cầu nào: hãy nhìn Baghdad.
Làm sao để dung hòa những dị biệt
đó? Fukuyama luôn tin Hoa kỳ có sứ mệnh phát huy dân chủ trên thế giới, và phải
dùng tất cả các phương tiện hữu hiệu có trong tay để thể hiện sứ mệnh đó. Ông
chỉ trích chính quyền Bush vì những chính sách Trung Đông chẳng những vô hiệu
mà còn phản tác dụng. Cổ súy thay đổi chế độ một nước bằng một sự pha trộn đúng
liều lượng các sức ép kinh tế và chính trị là một việc. Hành động quân sự từ
bên ngoài để thực hiện mục tiêu đó là một việc hoàn toàn khác, có thể đưa đến
thảm họa.
Trong thực tế, không có một đường
ranh rõ rệt chia cắt hai phương cách trong đường lối đế quốc. Fukuyama quên sự
thành công trong phương cách lật đổ chính quyền Sandinistas ở Nicaragua mà
Robert Kagan nhớ rõ—một sự toàn thắng của ý chí chính trị mà lúc đó Fukuyama đã
nhiệt liệt hoan nghênh. Ngày nay, sau khi cuộc chiến Iraq đã thực sự xẩy ra,
Fukuyama đã lo tránh xa những hình thức hiếu chiến như thế. Ông giải thích
không hề có một sự khao khát tự do phổ quát đủ bảo đảm đem lại dân chủ khi một
xứ được giải phóng khỏi ách chuyên chế. Tự do hiện đại cần được vun quén nuôi
dưởng, do đó, luôn đòi hỏi một trình độ phát triển kinh tế xã hội nào đó. Những
điều kiện nầy không thể tạo dựng trong một sớm một chiều, mà phải được chuẩn bị, un đúc cẩn thận qua nhiều năm
tháng. Sách lược tân tự do chỉ cơ sở trên các động lực của thị trường tự do sẽ
không đủ để đem lại ổn định, trật tự và thịnh vượng cần thiết . Muốn thành
công, sự hiện diện của một nhà nước mạnh (a strong state), có kỹ năng điều hành
tốt (good governance) là điều kiện thiết yếu . Hoa kỳ phải có một chính sách
sáng suốt, hợp lý, khôn ngoan, dành ưu tiên cho việc vun trồng một nhà nước như
thế trước khi nghĩ đến xây dựng dân chủ trong những vùng nhiều biến động trên
thế giới .
Trong quá trình xét lại, Fukuyama
đã làm biến dạng kiến trúc nguyên thủy của mình. The End of History and the
Last man, Fukuyama quả quyết, trong thực tế, là một công trình xây dựng lý thuyết
hiện đại hóa. Những điều ông muốn nói là ước vọng một mực sống ngày một cao hơn
-- thay vì tự do -- mang tính phổ quát; và mực sống ngày một cao hơn sẽ kiến tạo
một giai cấp trung lưu có khuynh hướng đòi hỏi quyền tham gia ngày một nhiều
hơn vào sinh hoạt chính trị, và dân chủ sẽ dần dà hình thành như một hệ quả của
quá trình vừa nói.
Phương cách đại chúng hóa một luận
cứ phức tạp trong triết lý lịch sử của tác giả không chỉ là một cố gắng đơn giản
hóa thông điệp của mình cho một số độc giả rộng lớn hơn; mà còn nhằm mục tiêu gạn
lọc, sửa đổi lại luận cứ nguyên thủy. Trong những công trình đem lại tên tuổi
cho Fukuyama, nhu cầu được nhận diện và sự thúc đẩy của lòng ham muốn –đằng sau
sự đấu tranh cho bình đẳng và tiến bộ của khoa học –là hai động cơ của lịch sử.
Sự kết nối giữa hai yếu tố chưa bao giờ hoàn hảo trong lý thuyết, do đó, đã nẩy
sinh nhiều lủng củng, rời rạc vào đoạn cuối của tác phẩm. Tuy nhiên trong cấu
trúc của tác phẩm nói chung, vai trò của hai yếu tố đã được tác giả dàn dựng
khá phân minh, không thể lầm lẫn: “sự ham muốn bên sau sự ham muốn”(the desire
that lay behind the desire) của kinh tế nhân (Homo economicus) là “ một động lực
hoàn toàn phi kinh tế, sự đấu tranh để được nhận diện”(a totally non-economic
drive, the struggle for recognition). Chính biện chứng chính trị được bung ra nầy
là “động cơ chính yếu của lịch sử nhân loại”(the primary motor of human
history). Vủ trụ tinh thần của Alexandre Kojève khác xa vủ trụ tinh thần của
các lý thuyết gia hiện đại hóa ( hay canh tân) như Daniel Lerner và Gabriel
Almond.
Nếu viễn kiến nầy bây giờ làm
Fukuyama bối rối, có lẽ là vì chính tự nó là một lý thuyết về xung đột nghiêm
trọng. Hegel và Kojève, mỗi người trong thời đại của mình (Jena, Stalingrad),
là những triết gia về chiến tranh. Di sản của họ mang tính quá tranh biện để có
thể giúp vạch một đường ranh giữa sự thận trọng trong việc điều khiển guồng máy
nhà nước như Fukuyama khuyến cáo và sự thịnh nộ dân chủ của các bạn cũ của ông
trong tuần báo Weekly Standard. Sự tẻ nhạt nhàm chán của lý thuyết hiện đại hóa
đem lại an toàn. Nhưng người ta cũng phải trả một giá khi tuột xuống hàng ngủ
trí thức “Nation-Building 101”, nhan đề, với ít nhiều oái oăm, của một trong những
bài Fukuyama viết gần đây (nhan đề “Nation-Building 101” ám chỉ nhiệm vụ tái thiết Iraq của sư đoàn bộ binh
101). Là một nhà khoa học xã hội nhiều kinh nghiệm, ngay trong sự phê bình
phương thức phát triển cơ sở trên thị trường tự do áp dụng trong các xứ nghèo
khó và trong lời kêu gọi cần có một nhà nước mạnh, người ta cũng tìm thấy dấu ấn
của Hegel: ý tưởng một nhà nước như nguồn cội của tự do duy lý. Tuy nhiên những
đề xuất rời rạc ở phần cuối tác phẩm America at the Crossroads -- dựa vào quyền
lực mềm nhiều hơn, tham vấn đồng minh nhiều hơn, tôn trọng các định chế quốc tế
-- chỉ là những sự thật hiển nhiên nhàm chán có thể bắt gặp trong báo giới có
ưu tư .
Vẫn theo Perry Anderson, những gì
có thể nói là khi đưa ra những đề xuất vụn vặt mang tính lưỡng đảng nầy cho những
chức quyền hoạch định chính sách đối ngoại, Fukuyama chỉ gián tiếp xác nhận lập
trường của Kerry và sự đồng tình với Brzezinsky, đồng chủ bút tạp chí The
American Interest với Fukuyama. Trong tác phẩm, tác giả đã không hề gợi ý một
thay đổi mảy may nào về sự duy trì và xây dựng những căn cứ quân sự trên khắp
thế giới, hay về sự bám chặt vùng Trung Đông, chứ chưa nói gì đến quan hệ cộng
sinh khắng khít với Do Thái –là những nguyên nhân đưa đến biến cố 11-9 .
Chỉ cần đọc tài liệu nghiên cứu
nghiêm túc của John Mearsheimer và Stephen Walt đăng trong London Review of
Books -- chứ không xuất bản ở Mỹ, một điều, tự nó, mang nhiều ý nghĩa -- người
ta thấy rõ hố cách biệt sâu thẳm giữa những đề xuất trên đây và những suy tư
chính chắn về chính sách đối ngoại của Hoa kỳ từ những nhà tư tưởng xứng danh
hiệu “thực tiễn”. Sau khi bắt đầu tác phẩm với lời lẽ Wilson, người đã phổ biến
thánh kinh dân chủ trên khắp địa cầu, Fukuyama đã kết thúc tác phẩm với giọng
điệu Bismarck, người biết tự chế khi chiến thắng, như những nguồn cảm hứng cho
“phương cách thay thế để Hoa kỳ kiến tạo lại quan hệ với thế giới bên ngoài” của
ông . Vị thủ tướng sắt máu, không thiếu óc hài hước thô bạo, nghĩ thế
nào khi được cặp đôi với vị tổng thống Mười Bốn Điểm là điều không khó tưởng tượng
(ám chỉ 14 điểm do Wilson áp đặt tại hội nghị hòa bình vào tháng giêng 1919) .
Anderson kết luận, với những
phương án của Fukuyama cũng như của nhiều người khác hiện nay, Hoa kỳ chẳng phải
ở ngã tư đường nào khác. Hoa kỳ luôn ở vị trí tìm cách làm vuông một vòng tròn
nhân đạo và đế quốc theo đúng ý mình.
© GS Nguyễn Trường
Irvine, CA, USA
08-7-2007
Chú thích và Tài liệu tham khảo:
A : Chú Thích
1. Leo Strauss (1899-1973) ,
nguyên quán Đức, gần Marburg , định cư ở Hoa kỳ từ 1937 , giáo sư Đại học
University of Chicago (1949-1968) . 2. Robert Kagan , đồng sáng lập viên
Project for the New American Century , hiện sống ở Bruxelles, đang cộng tác với
Carnegie Endowment for International Peace .
3. Alexandre Kojève (1902-1968) ,
sinh ở Nga , sau đệ nhị thế chiến làm việc bên cạnh Bộ Kinh tế Pháp .
4. Daniel Lerner , tác giả cuốn
The Passing of Traditional Society : Modernizing the Middle East (1950) .
5. Gabriel Almond , sau đệ nhị thế
chiến chuyên nghiên cứu những vấn đề liên quan đến Phát triển và Dân chủ .
6. James Mann , Rise of The
Vulcans –The History of Bush’s War Cabinet (2004) .
7. Perry Anderson , chủ bút bán
nguyệt san New-Left Review ; Bài Inside Man đăng trong tạp chí The Nation , số
ra ngày 24-4-2006 .
B : Tài Liệu Tham Khảo
Books
1. The End of History and the
Last Man . Free Press, 1992. 2. Trust : The Social Virtues and the Creation of
Prosperity . Free Press, 1995 .
3. The Great Disruption : Human
Nature and the Reconstruction of Social Order . Free Press , 1999 .
4. Our Posthuman Future :
Consequences of the Biotechnology Revolution . Farrar , Straus and Giroux ,
2002 .
5. State-Building : Governance
and World Order in the 21st Century . Cornell University Press , 2004 .
6. America at the Crossroads :
Democracy , Power , and the Neoconservative Legacy (Yale University Press ,
2006) .
7. America at the Crossroads :
Democracy ,Power ,And the Neoconservative Legacy (Yale University Press , 2006)
.
8. After the Neo Cons : Where the
Right went Wrong . Profile Books , 2006 . (N.B. Published in the US as America
at the Crossroads)
Essays
1. Women and the
Evolution of World Politics , Foreign Affairs Oct 1998
2. Social Capital and
Civil Society , paper prepared for delivery at the IMF Conference on
Second Generation Reforms , 1 Oct 1999
3. The Neoconservative
Moment , The Natinal Interest , Summer 2004
4. After Neoconservatism ,
The New York Times Magazine , 19 February 2006
5. Supporter’s Voice Now
Turns On Bush ,The New York Times Magazine , 14 March 2006
6. Why Shouldn’t I Change
My Mind ? , Los Angeles Times , 9 April 2006
C : External Links
1. Letter to President Clinton on
Iraq . Project for the New American Century . Retrieved on 5-13-2007.
2. Letter to President Bush on
the War on Terrorism . Project for the New American Century . Retrieved on
5-13-2007
3. “Fukuyama Withdraws Bush
Support” , Todáys Zaman (7-14-2004) . Retrieved on 5-13-2007 .
4. Andrew Billen . “Why I
won’t vote for George Bush” (7-14-2004) , Retrieved on 5-13-2007
Nguồn:http://vietsciences.free.fr/timhieu/xahoi-luatphap/Fukuyama-phaitanbaothu.htm