Trích từ sách Communism:
A History
Tác giả Richard Pipes
Dịch giả Phạm Minh Ngọc
Dịch giả Phạm Minh Ngọc
Chủ nghĩa cộng sản là một lí tưởng
không có tương lai: nền văn hoá chính trị phương Tây đã tập hợp lại trong cuộc
đấu tranh chống lại hệ tư tưởng cứng rắn, tuy có xuất xứ từ phương Tây, nhưng lại
được hoàn thiện ở môi trường ngoài phương Tây. Chủ nghĩa cộng sản đã hoà tan
vào xã hội dân chủ phương Tây và sau đó thì lặng lẽ rút khỏi vũ đài chính trị
Phương Tây không quan tâm nhiều đến
cuộc Cách mạng tháng Ba ở Nga: Neue Zürcher Zeitung, tờ báo
hàng đầu ở Thuỵ Sĩ, Lenin biết tin về các vụ lộn xộn ở trong nước qua tờ báo
này, chỉ đưa thông tin này trên cột thứ hai, coi như một tin không mấy quan trọng.
Châu Âu lúc đó đang trải qua một cuộc chiến tranh đẫm máu, chẳng có thì giờ để
ý đến các sự kiện ở nước Nga xa xôi, sau những thất bại trong năm 1915, đã
không còn được coi là một bên tham chiến nữa. Các phản ứng yếu ớt sau đó có thể
được coi là khích lệ vì người ta hi vọng rằng chính phủ lâm thời, được dân
chúng ủng hộ trong giai đoạn đầu, sẽ khởi động lại các hoạt động quân sự. Mĩ,
quốc gia luôn luôn chào đón các thành viên mới trong cộng đồng các quốc gia dân
chủ, là nước đầu tiên công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với chính phủ mới.
Thái độ ủng hộ đối với cách mạng ở
Nga không hề thay đổi ngay cả sau khi chính phủ lâm thời đã bị những người
Bolshevik lật đổ. Biết rõ những liên hệ của Lenin với đế chế Đức, các nước đồng
minh tỏ vẻ lo ngại khi phải liên hệ với ông ta và chế độ của ông ta, nhưng các
nước này quan tâm đến việc mở lại mặt trận phía Đông đến nỗi họ sẵn sàng nịnh bợ
bất kì chính phủ Nga nào, kể cả chính phủ Bolshevik. Thái độ ve vãn như thế chỉ
chấm dứt vào tháng 3 năm 1918, sau khi Nga kí với Đức hiệp định hoà bình ở
Brest-Litovsk, theo đó Nga sẽ rút khỏi cuộc chiến. Các nước đồng minh bắt đầu
giúp đỡ quân đội Bạch vệ, lực lượng vũ trang được thành lập ở miền Nam Nga và
Siberia với mục tiêu là lật đổ chế độ Bolshevik thân Đức và tái lập các hoạt động
quân sự chống lại các nước thuộc Khối Trung tâm. Sự giúp đỡ chủ yếu là về vật
chất. Được Lenin đồng ý, đồng minh đã gửi một số đơn vị đến thành phố Murmansk
và Arkhangelsk để ngăn chặn sự chiếm đóng của quân Đức. Quân Mĩ đổ bộ xuống
vùng Đông Siberia để ngăn chặn sự chiếm đóng khu vực rộng lớn này của quân Nhật.
Trừ một số vụ đụng độ lẻ tẻ, cả quân Anh lẫn quân Mĩ đều không tham gia vào các
hành động quân sự giữa Hồng quân và Bạch vệ. Huyền thoại về sự can thiệp sâu rộng
của các nước tư bản vào cuộc nội chiến là do Stalin bịa ra sau này như một phần
của chiến dịch tuyên truyền chống lại phương Tây.
Chiến tranh Thế giới I kết thúc
vào tháng 11 năm 1918, các nước đồng minh không còn lí do can thiệp vào công việc
của Nga nữa. Nếu người Anh còn tiếp tục giúp đỡ Bạch vệ thì đấy chủ yếu là do
yêu cầu của Winston Churchill, lúc đó là Tư lệnh Hải quân, ông là một trong số
ít người nhận thức được mối nguy hiểm mà chủ nghĩa cộng sản sẽ gây ra cho thế
giới; trong những năm 1930 ông cũng nhận thức chính xác như thế đối với những
hiểm nguy mà chủ nghĩa Quốc xã sẽ gây ra trong tương lai. Ông đã có ý tưởng làm
một cuộc thập tự chinh quốc tế nhằm loại những người cộng sản ra khỏi quyền lực.
Nhưng châu Âu vừa bị tan tác vì chiến tranh, ý tưởng này đã bị bỏ qua. Thủ tướng
Anh, ông David Lloyd-George, một người theo trường phái tự do đang cần sự giúp
đỡ của những người bảo thủ đã vào hùa với Churchill, nhưng chính ông ta lại sẵn
sàng đàm phán với Lenin, người mà ông ta cho là ít có khả năng đe đoạ các quyền
lợi của Anh hơn là sự phục hồi chế độ Sa hoàng. Cuối năm 1919, khi Bạch vệ đã sắp
thất bại thì Lloyd-George cũng hạ lệnh chấm dứt mọi sự trợ giúp đối với lực lượng
này. Churchill buộc phải chấp nhận, nhưng ông đã cảnh báo về mối nguy hiểm của
liên minh giữa Đức với nước Nga Xôviết và Nhật Bản như sau:
“Chúng ta có thể bỏ mặc nước
Nga, nhưng Đức và Nhật sẽ không làm như thế. Các chính phủ mới mà chúng ta hi vọng
sẽ xuất hiện ở Đông Âu sẽ bị đè bẹp khi họ nằm lọt giữa chế độ Bolshevik ở Nga
và nước Đức… Sau năm năm nữa, thậm chí còn sớm hơn, sẽ thấy rõ là chúng ta đã bị
tước hết các thành quả của chiến thắng”.
Năm 1921, nước Anh, một nước vẫn
có ý kiến quyết định trong các vấn đề thương mại quốc tế, bắt đầu đàm phán với
Nga và chẳng bao lâu sau đã quyết định công nhận nước này về mặt ngoại giao. Phần
còn lại của châu Âu lập tức theo gương Anh. Hợp chủng quốc Hoa Kì là siêu cường
duy nhất không chịu công nhận cái chính phủ coi mục đích của mình là tiêu diệt
hệ thống các quốc gia trên thế giới; mãi đến năm 1933 Hoa Kì mới chính thức
công nhận Liên Xô.
Chính phủ Liên Xô xây dựng quan hệ
quốc tế của mình trên hai bình diện: ngoại giao và hoạt động phá hoại. Trong những
năm 1920 các “đại diện chính trị” của Liên Xô đã thu hồi tất cả các sứ quán của
chính phủ Sa hoàng tại thủ đô của các nước “tư bản”, ở đây họ cũng làm việc với
một thái độ đúng đắn như các nhà ngoại giao của bất kì nước nào khác. Nhưng hoạt
động chính của họ lại được che giấu kĩ: trong tất cả các sứ quán đều có gián điệp
của Quốc tế Cộng sản với nhiệm vụ lật đổ các chính phủ mà Liên Xô đặt đại sứ
quán. Nhưng khi một nước nào đó phản đối thì bao giờ Moskva cũng điềm tĩnh
tuyên bố rằng đảng cộng sản và Quốc tế là các tổ chức xã hội, họ không chịu
trách nhiệm về hoạt động của các tổ chức này.
Nếu các nước đồng minh ủng hộ các
phong trào chống cộng ở Nga một cách miễn cưỡng và đầy ngờ vực thì Moskva lại
giúp đỡ các lực lượng phi dân chủ ở phương Tây với tất cả các phương tiện mà họ
có.
Quốc tế Ba hay là Comintern,
Trotsky gọi là “tổng hành dinh của cách mạng thế giới”, được thành lập ở Moskva
vào tháng 3 năm 1919, nhưng chỉ chính thức hình thành vào mùa hè năm 1920,
nghĩa là sau khi khi nội chiến kết thúc, chỉ khi đó cộng sản mới có điều kiện
quan tâm đến các vấn đề quốc tế mà thôi. Tinh thần của họ lúc đó rất cao: trên
đường tiến đến Warszawa Hồng quân gần như không gặp bất kì sự kháng cụ nào, có
cảm giác như họ sẽ thẳng tiến tới Đức và Anh, những nước mà theo lời Lenin là
điều kiện cách mạng đã chín muồi. Nghị quyết hội nghị II Quốc tế Cộng sản
(1920) bắt đầu bằng lời khẳng định rằng “giai cấp vô sản đứng trước một trận
chiến đấu quyết định. Thời đại chúng ta đang sống là thời đại của những cuộc nội
chiến. Giờ quyết định đã điểm [1] ”.
Trong bức điện mật gửi Stalin, lúc đó đang ở mặt trận Ba Lan, Lenin viết:
“Tình hình ở Quốc tế là rất tốt.
Zinoviev, Bukharin và tôi cho rằng cần phải ủng hộ ngay cuộc cách mạng ở
Italia. Ý kiến cá nhân của tôi là phải thành lập chính quyền Xôviết ở Hung, mà
có thể cả ở Tiệp và Rumania nữa. Cần phải suy nghĩ kĩ. Hãy thông báo cho biết kết
luận cụ thể của đồng chí. Các đồng chí cộng sản Đức cho rằng để chống lại chúng
ta, Đức có thể động viên một đội quân lên đến ba trăm ngàn vô sản lưu manh. [2] ”
Câu cuối cùng chứng tỏ rằng
Moskva dự định sau khi chiếm Ba Lan thì sẽ đưa quân sang Đức để giúp những người
cộng sản Đức giành chính quyền.
Các sự kiện sau đó chứng tỏ rằng
Lenin đã đánh giá sai tình hình châu Âu. Kinh nghiệm tháng 10 và tháng 11 năm
1917, khi Lenin phải thuyết phục những người giao động và thực hiện đảo chính,
đã cho ông bài học rằng thận trọng cũng đồng nghĩa với hèn nhát; bây giờ uy tín
của ông đã cao đến mức có thể lôi kéo được cả những người có thái độ hoài nghi
nhất.
Các nhà cách mạng nhiều nước châu
Âu và cả các châu lục khác đã tham dự hội nghị Quốc tế Cộng sản năm 1920, họ sẵn
sàng đoạn tuyệt với những người xã hội chủ nghĩa ôn hoà và chấp nhận sự lãnh đạo
của những người Bolshevik Nga, những người Mác-xít duy nhất thiết lập được nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Lenin không hề che giấu việc Comintern chỉ là một chi nhánh
của Đảng Cộng sản Nga, được tổ chức theo hình mẫu và thực hiện các chỉ thị của
đảng này. Hội nghị năm 1920 yêu cầu các đại biểu của nó phải buộc các đảng viên
“tuân thủ kỉ luật sắt của nhà binh” và thể hiện “niềm tin tuyệt đối” vào trung
ương, nghĩa là phải tin tưởng tuyệt đối vào Moskva. Nhiệm vụ trước mắt của họ
là thâm nhập vào các tổ chức quần chúng ở nước mình và nắm lấy quyền lãnh đạo
các tổ chức ấy. Để làm như thế với các tổ chức công đoàn, những người cộng sản,
theo lời Lenin, “trong trường hợp cần thiết phải thực hiện các mánh khoé, khôn
khéo, các thủ đoạn phi pháp, giữ im lặng, che giấu sự thật [3] ”.
Mục đích cuối cùng của các đảng thành viên là giúp đỡ Comintern tiến hành “khởi
nghĩa vũ trang” chống lại các chính phủ tư bản hiện hữu và thay chúng bằng các
chính phủ cộng sản. Kết quả cuối cùng sẽ là sự thành lập nước cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Xôviết toàn cầu.
Hội nghị đã thông qua một danh mục
gồm hai mươi mốt điều kiện để được kết nạp vào Comintern. Sau đây là những điều
kiện quan trọng nhất:
2. Bất cứ tổ chức nào muốn được
là thành viên Comintern đều phải… khai trừ những người theo phái cải cách và những
kẻ ủng hộ “trung tâm”;
3. Các đảng viên cộng sản có
trách nhiệm thành lập một bộ máy bí mật để có thể giúp đảng thực hiện nhiệm vụ
cách mạng trong trường hợp cần thiết;
14. Bất cứ đảng nào muốn được là
thành viên của Quốc tế Cộng sản đều phải giúp đỡ một cách vô điều kiện các nước
cộng hoà Xôviết trong cuộc đấu tranh chống lại các lực lượng phản cách mạng;
21. Các đảng viên từ chối trách
nhiệm và các luận điểm do Quốc tế Cộng sản đặt ra đều phải bị khai trừ khỏi đảng [4] ”.
Vì tất cả những gì Moskva không đồng
ý đều bị coi là “phản cách mạng”, nên có thể coi điều 14 là nguyên tắc theo đó
những người cộng sản tất cả các nước đều phải đặt quyền lợi và ước vọng của
Liên Xô lên trên quyền lợi của chính đất nước họ.
Được sự động viên nhiệt tình của
Lenin, Comintern đã tiến hành việc chia rẽ các phong trào xã hội chủ nghĩa trên
lục địa châu Âu và thành lập các đảng cộng sản do nó bí mật tài trợ và lãnh đạo.
Về lĩnh vực này, Comintern đã giành được thắng lợi. Nhưng nếu nói đến mục đích
cuối cùng thì Comintern đã thất bại thảm hại. Thứ nhất, lời tuyên bố của nó rằng
các nước tư bản đang đứng trước bờ vực của nội chiến tỏ ra là hoàn toàn sai,
chiến tranh không xảy ra ở bất cứ nước phương Tây nào, các nguy cơ như thế, nếu
có, đều được khắc phục một cách nhanh chóng. Thứ hai, tuy cộng sản đã có ảnh hưởng
to lớn trong các tổ chức công đoàn, nhất là tại các nước Thiên chúa giáo (như
Tây Ban Nha, Italia và Pháp) nhưng họ đã không thể giành được đa số ghế trong
quốc hội. Kết quả cộng sản liền trở thành lực lượng đối lập thường trực ở chính
những nơi họ đã giành được ảnh hưởng lớn, mà đây lại là lực lượng đối lập bị
cách li với xã hội và vì vậy mà cũng không có sức mạnh. Vì các đảng này hoạt động
theo các chỉ thị cứng nhắc từ Moskva và coi những người dân chủ xã hội là kẻ
thù chính nên họ chẳng những đã làm suy yếu không chỉ phong trào xã hội chủ
nghĩa mà còn làm suy yếu cả phong trào cộng sản nữa, và bằng cách đó đã tạo điều
kiện cho các lực lượng cánh hữu giành được quyền lực, nạn nhân của các chế độ
đó lại chính là những người cộng sản.
Rõ nhất là tại nước Đức. Ở đây,
cuối những năm 1920 có ba đảng không đội trời chung: Xã hội Dân chủ, Cộng sản
và Quốc xã. Moskva luôn tỏ ra có thiện cảm với Quốc xã và coi những người Dân
chủ Xã hội mà họ gọi là “phát xít xã hội” là kẻ thù chính của mình. Moskva cấm
Đảng Cộng sản Đức hợp tác với Đảng Dân chủ Xã hội. Trong cuộc bầu cử quốc hội
vào tháng 11 năm 1932 Đảng Dân chủ Xã hội nhận được 7 triệu phiếu, cộng sản được
6 triệu phiếu, tổng cộng hai đảng này hơn Quốc xã một triệu rưỡi phiếu. Họ chiếm
được 221 ghế trong quốc hội, trong khi Quốc xã chỉ có 196 ghế. Nếu liên kết với
nhau thì hai đảng cánh tả này đã đánh bại Hitler và hắn không thể nắm được ghế
thủ tướng. Như vậy là sự thoả thuận ngầm giữa cộng sản và Quốc xã đã phá tan nền
dân chủ ở Đức và đưa Hitler lên cầm quyền.
Trong những năm 1930, khi Liên Xô
trải qua những thử thách nguy hiểm nhất tức là quá trình tập thể hoá và đại khủng
bố thì hình ảnh của nó ở phương Tây lại được cải thiện, đấy là do hai sự kiện
đã làm phương Tây suy yếu và mất niềm tin vào chính mình: suy thoái kinh tế và
sự trỗi dậy của chủ nghĩa Quốc xã. Hiện tượng người lao động bị thất nghiệp
hàng loạt làm tê liệt các nước dân chủ công nghiệp hoá dường như đã khẳng định
lời tiên đoán của Marx rằng chủ nghĩa tư bản chắc chắn sẽ lâm vào khủng hoảng
sâu sắc và cuộc khủng hoảng này sẽ đưa nó đến chỗ diệt vong. Sự tương phải giữa
nước Nga cộng sản với một chương trình xây dựng kinh tế hoành tráng, mọi người
lao động đều có việc làm và phương Tây với nền công nghiệp đình đốn làm cho các
quan sát viên có tư tưởng tự do tin rằng số phận của chủ nghĩa tư bản đã được
quyết định. Chủ nghĩa cộng sản cũng giành được cảm tình ở nước ngoài vì nó ủng
hộ các chính sách như quyền thành lập công đoàn của công nhân và yêu cầu bình đẳng
của các dân tộc thiểu số (thí dụ người da đen ở Mĩ), là những yêu cầu bị cấm
đoán hoặc đàn áp nặng nề ở chính Liên Xô. Việc Liên Xô ủng hộ những người chống
phát xít trong cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha cũng có hiệu quả tương tự.
Dĩ nhiên là đa số các đảng viên cộng
sản châu Âu và những người có cảm tình với họ có biết những mặt tiêu cực của chế
độ cộng sản, nhưng họ lại tìm cách biện hộ cho nó bằng đủ những cách khác nhau:
hoàn cảnh bên ngoài, tàn dư của chế độ Sa hoàng, sự thù địch của “chủ nghĩa tư
bản” phương Tây hoặc coi đấy là những hiệu ứng phụ không thể tránh được của những
nỗ lực vô tiền khoáng hậu nhằm xây dựng một xã hội hoàn toàn mới trong lịch sử.
Nhà văn Arthur Koestler, gia nhập Đảng Cộng sản Đức năm 1932 và đã sống một năm
ở Liên Xô (đoạn tuyệt với cộng sản vào năm 1938) giải thích vì sao các đảng
viên và những người có cảm tình với họ lại có thể nhắm mắt trước nạn khủng bố
và nạn đói mà chế độ Xôviết đã cố tình tạo ra với chính nhân dân nước mình như
sau:
“Tôi đã học được cách đánh giá
tất cả mọi việc. Tôi coi tất cả những gì gây sốc đều là ‘tàn dư của quá khứ’,
còn tất cả những gì tôi thích đều là ‘mầm mống của tương lai’. Khi đã đưa vào
trong óc não bộ máy phân loại như thế thì một người châu Âu, vào năm 1932, có
thể sống ở Liên Xô và vẫn tiếp tục là người cộng sản được [5] ”.
Koestler so sánh việc vào Đảng với
việc cải đạo như sau:
“Nói rằng anh ‘nhìn thấy ánh
sáng’ thì vẫn chưa mô tả đầy đủ cái sự kinh ngạc của tâm hồn mà chỉ những kẻ cải
đạo mới hình dung nổi mà thôi… Dường như có một luồng ánh sáng mới tuôn trào từ
tất cả các hướng và thâm nhập vào đầu óc, toàn bộ thế giới quan đã có một hình
hài cố định, như khi đang giải một bài toán khó, ta bỗng thấy tất cả các phần rời
rạc bỗng liên kết liền lạc với nhau một cách thật tài tình. Bây giờ mọi câu hỏi
đều có đáp án, tất cả những mối ngờ vực và xung đột đều được bỏ lại phía sau…
Bây giờ không có gì có thể làm rối trí thế giới nội tâm và sự bình thản của kẻ
vừa cải đạo – ngoại trừ nỗi sợ hãi thỉnh thoảng lại xuất hiện là hắn có thể
đánh mất niềm tin và như thế cũng có nghĩa là đánh mất mục đích của cuộc đời và
lại rơi vào đêm đen vây bọc xung quanh [6] ”.
Ở Bắc Âu và Hoa Kì, nơi chủ nghĩa
xã hội cũng như chủ nghĩa cộng sản gần như không có cảm tình viên, Moskva lại
tìm được những người ủng hộ trong giới trí thức và “những người bạn đường”, đấy
là những người chia sẻ mục tiêu nhưng không ra nhập đảng. Đây là những người có
ý nghĩa rất quan trọng đối với cộng sản vì khác với các đảng viên, những người
luôn bị nghi ngờ là phát ngôn theo mệnh lệnh, những người này chỉ nói lên chính
kiến của mình. Lincoln Steffence là một thí dụ về cách tư duy của những người bạn
đường nói trên, năm 1919 ông này đã nói một câu nổi tiếng và thường được trích
dẫn về nước Nga Xôviết như sau: “Tôi đã nhìn thấy tương lai và nó đang hoạt
động”. Hoá ra ông ta viết câu ấy trên đoàn tầu đi từ Thuỵ Điển đến Moskva,
trước khi đặt chân đến đất Liên Xô. Sau này, khi đến Karlsbad, một khu nghỉ mát
nổi tiếng của Tiệp, ông ta lại viết cho một người bạn như sau: “Tôi là người
yêu nước Nga, tương lai ở đó. Nước Nga sẽ thắng và sẽ cứu thế giới. Tôi tin như
thế. Nhưng sống ở đó thì tôi không thích”.
Hai ông bà Sidney và Beatrice
Webb, hai nhà xã hội chủ nghĩa đáng kính người Anh, những người đã khởi đầu sự
nghiệp khoa học và chính trị với phong trào Fabian, có thể được coi là những
“người bạn đường” đặc trưng. Ban đầu hai ông bà Webb có thái độ thù địch đối với
chủ nghĩa cộng sản, nhưng họ đã hoàn toàn thay đổi quan điểm vào năm 1932. Họ
đã đến thăm Liên Xô trong ba tuần lễ và được đón tiếp một cách cực kì trọng thị.
Họ đã rất phấn chấn bởi những điều mắt thấy tai nghe, và theo lời họ thì họ đã
“mê ngay nước Nga”. Năm 1935, sau khi nghiên cứu các tài liệu do người Nga cung
cấp, họ đã cho xuất bản tác phẩm: Chủ nghĩa cộng sản Xôviết, một nền văn
minh mới? (lần xuất bản năm 1941 dấu chấm hỏi đã bị bỏ) gồm hai tập. Họ
cho rằng các tài liệu của Liên Xô có giá trị y như các tài liệu chính thức của
Anh, thậm chí còn vào tận đại sứ quán để kiểm tra “những sai sót có thể” và bằng
cách đó đã tạo ra một bản báo cáo chẳng ăn nhập gì với thực tế. Họ hoàn toàn
không hiểu được ý nghĩa tuyên truyền của các tài liệu được người ta cung cấp
cho. Chỉ xin đơn cử: trên cơ sở các tài liệu của Liên Xô họ phủ nhận việc
Stalin là một nhà độc tài; hơn thế nữa, họ khẳng định rằng ông ta tôn trọng quyền
lãnh đạo tập thể, theo họ thì quyền lực của Stalin còn ít hơn quyền lực của Tổng
thống Mĩ hay Thủ tướng Anh. Họ phớt lờ khủng bố, nạn đói và kiểm duyệt hoặc coi
đây là những hiện tượng cũng thường xảy ra trong các nước tư bản chủ nghĩa. Thế
mà Bernard Shaw, một chiến hữu trong phong trào Fabian, lại lớn tiếng chúc mừng
tác phẩm đồ sộ, dày đến 1200 trang này và coi đây là “sự phân tích thực sự khoa
học đầu tiên về nhà nước Liên Xô”.
Năm 1942, Beatrice Webb cho xuất
bản một tác phẩm ngắn hơn với tên gọi: Sự thật về nước Nga Xôviết,
trong đó, dựa vào hiến pháp năm 1936, bà đã gọi Liên Xô là nhà nước “dân chủ nhất
và cân bằng nhất trên thế giới”.
Hai ông bà Webb là những người rất
thông minh lại quen làm việc một cách khoa học, không thể không nhận ra sự phiến
diện trong các suy luận của mình về chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô. Vì sao họ
không tạo được một bức tranh khách quan hơn? Có lẽ đấy là do nhu cầu tâm lí: họ
đã có trước mắt một thế giới hoàn toàn mới trong khi nền văn minh phương Tây lại
đang tiến gần đến sự sụp đổ. Để khắc hoạ cái thế giới mới đó, họ đã khởi động
“bộ máy phân loại” mà Koestler nói tới bên trên, và cỗ máy này đã giúp họ loại
bỏ tất cả các thông tin trái chiều.
Dĩ nhiên là không phải tất cả các
trí thức phương Tây đều ngả theo xu hướng ấy. Điều thú vị là không phải các nhà
khoa học, dù là khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội, mà là các nhà văn, nhà
thơ và các nhà triết học đã nhìn rõ bức tranh phía sau cái mặt tiền loè loẹt đó
của chủ nghĩa cộng sản. Không lệ thuộc vào các khái niệm trừu tượng mà các nhà
khoa học vẫn dùng để giải thích hiện thực, các nhà văn, nhà thơ và triết gia đã
nhìn thấy hiện thực như chính nó vốn là.
Bertrand Russel, một triết gia lỗi
lạc người Anh, cùng đoàn đại biểu Đảng Lao động Anh đến thăm Liên Xô vào năm
1920. Ông chờ đợi gặp gỡ với cuộc thí nghiệm Xôviết với những tình cảm chân
thành nhất: số phận của chủ nghĩa tư bản, theo quan niệm của ông, đã được định
đoạt, trong khi “chủ nghĩa xã hội lại cần cho thế giới… Chủ nghĩa Bolshevik
xứng đáng được cả loài người tiến bộ bầy tỏ lòng biết ơn và cảm phục”. Đấy
là những điều mà sau này ông đã viết trong cuốn: Lí thuyết và thực tiễn
của chủ nghĩa Bolshevik. Nhưng đấy là những tình cảm mà “lí thuyết” gợi lên
trong ông. Còn “thực tiễn” mà đôi mắt tinh tường của ông đã nhìn ra được thì lại
tạo ra đầy sự hoài nghi: ông cay đắng nhận ra chủ nghĩa cực đoan pha màu sắc
tôn giáo, thái độ bất dung và tính chất giáo điều ở những người Bolshevik. Ông
nghi ngờ khả năng xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở một nước nghèo khổ như nước Nga
mà đa phần dân chúng có thái độ thù địch với chủ nghĩa cộng sản.
André Gide, nhà văn Pháp, một người
bạn đường điển hình khác, cũng nói đến “sự khâm phục” và “tình yêu” đối với
Liên Xô. Đối với ông, Liên Xô còn “hơn là vùng đất hứa”; đây là một Không tưởng
“đang trong quá trình chuyển hoá thành hiện thực”. Ông đến thăm Liên Xô vào mùa
hè năm 1936, trùng thời điểm diễn ra “phiên toà” ô nhục xét xử Kameniev và
Zinoviev. Sau khi về Pháp ông cho xuất bản một cuốn sách mỏng, mang tên: Trở
về từ Liên Xô. Trong tác phẩm rối rắm mà chẳng rút ra được một kết luận rõ
ràng nào, những lời ngợi ca và phê bình thì đối chọi nhau chan chát. Gide biện
hộ cho quyền phê phán Liên Xô là “xuất phát từ sự thán phục của tôi”. Khi ở
Liên Xô, ông viết, “tôi đã khóc vì mừng vui, trìu mến và yêu thương”. Nhưng dù
sao…
Gide công nhận rằng ông thấy buồn
vì mùa hè ở Moskva tất cả mọi người đều mặc áo trắng và trông ai cũng như ai. Vừa
ra khỏi khách sạn Metropol, nơi ông được bố trí ở một căn hộ sáu buồng, ông đã
thấy rất buồn khi chứng kiến cảnh người dân xếp hàng trước khi cửa hàng mở cửa
để mua những món hàng “kinh tởm”. Quần chúng thì ù lì, các văn nghệ sĩ thì thụ
động, kém hiểu biết thế giới bên ngoài và suy đồi, đấy là những phát hiện làm
ông vô cùng thất vọng. Sự xa hoa dành cho những người khách quí như ông tương
phản hoàn toàn với cảnh nghèo đói xung quanh cũng làm ông vô cùng bất
mãn.
Mặc dù Gide khẳng định tình yêu của
mình đối với Liên Xô, ông đã ngay lập tức trở thành đối tượng của những lời phê
phán đầy giận dữ; đầu tiên ông bị phê là “hời hợt”, “kết luận vội vàng, sau
này, khi được Moskva bật đèn xanh, người ta liền gọi ông là Giu-đa, là gián điệp
phát xít. Ông đã phản ứng bằng cuốn sách mang tên: Những suy nghĩ muộn
màng về Liên Xô, trong đó ông công khai phê phán những người cộng sản vì họ
đã biến nước Nga thành: đất nước “phản bội lại tất cả mọi hi vọng của chúng
ta”.
Những người xã hội châu Âu, bị cộng
sản phê phán một cách không thương tiếc và bị gọi là “xã hội-phát xít”, bất đắc
dĩ lắm mới đáp trả vì sợ rằng làm thế chỉ có lợi cho lực lượng phản cách mạng.
Quốc tế II, tồn tại lay lắt giữa hai cuộc thế chiến, không quan tâm đến những
người Nga lưu vong khi họ kêu gọi phải kịch liệt lên án việc đàn áp các chiến hữu
xã hội chủ nghĩa của họ ở Liên Xô. Hội nghị Quốc tế II họp năm 1923 tuyên bố rằng
bất kì sự can thiệp bên ngoài nào vào Liên Xô đều nhằm:
“Không phải là để sửa chữa sai
lầm mà nhằm đàn áp chính cuộc cách mạng. Nó không đưa đến việc thiết lập một nền
dân chủ đích thực mà chỉ nhằm thiết lập chính phủ của những tên phản động khát
máu và sẽ là công cụ bóc lột nhân dân Nga của chủ nghĩa đế quốc phương Tây.”
Nhiều người nghĩ rằng các doanh
nhân phương Tây sẽ là những người chống cộng quyết liệt nhất, nhưng trên thực tế
đa phần giữ thái độ trung lập hoặc có cảm tình với chính phủ Liên Xô. Trước hết,
họ cho rằng tư tưởng cộng sản chỉ là món ăn tinh thần, là thuốc phiện dành cho
quần chúng nhằm che đậy các nhu cầu vật chất bình thường của tầng lớp thượng
lưu mà thôi. Ngay cả nếu những người cộng sản tin vào những điều họ tuyên truyền
thì kinh nghiệm cũng sẽ nhanh chóng làm cho họ tỉnh ngộ. Năm 1920, Lloyd-George
đã nói ý đó nhằm biện hộ cho những cuộc đàm phán về thương mại với Moskva như
sau:
“Bằng vũ lực chúng ta đã không
buộc được nước Nga quay về với cách tư duy đúng đắn. Tôi tin rằng thông qua
buôn bán, chúng ta có thể làm được điều đó và cứu được nó. Các thương vụ, tự bản
thân chúng, sẽ tạo ra hiệu ứng làm người ta tỉnh ngộ. Các phép tính tiền cộng
trừ đơn giản sẽ nhanh chóng kết liễu những lí thuyết kì quái. [7] ”
Theo Henry Ford, ông này vốn nổi
tiếng là một người phản động và bài Do Thái, thì người Nga càng công nghiệp hoá
thì càng có thái độ tốt vì “các nguyên tắc cơ học và nguyên tắc đạo đức có
chung một nguồn gốc”.
Quyền lợi thương mại ích kỉ đã
làm cho người ta cố tình tạo ra sự mập mờ giữa ước muốn và hiện thực. Cộng đồng
thương mại quốc tế coi nước Nga Xôviết là một trong các thị trường tiềm năng to
lớn nhất thế giới và khi Moskva bắt đầu đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá
thì các doanh nhân ngoại quốc, vốn chịu nhiều thiệt hại vì vụ đại suy thoái, đã
lao vào thực hiện các đơn hàng cho các kế hoạch năm năm của Stalin. Một số nhà
máy lớn nhất của Liên Xô trong những năm 1930 được xây dựng với sự trợ giúp kĩ
thuật và chỉ đạo của các công ty phương Tây. Chính Ford đã xây dựng nhà máy ô
tô đầu tiên ở Nizhni Novgorod (Gorky), các công ty phương Tây đã xây dựng những
nhà máy luyện kim cực lớn ở thành phố Magnitogorsk trong vùng Ural.
*
Đảng Quốc xã chiếm được quyền lực
trên cơ sở một cương lĩnh mà trụ cột của nó là chủ nghĩa chống cộng và chủ
nghĩa bài Do Thái. Khác với Liên Xô, nước này luôn luôn che giấu sự dã man của
mình đằng sau bức tường kiểm duyệt và tuyên bố tuân thủ các lí tưởng nhân đạo
và dân chủ mà chính họ đã cố tình phá hoại, những người Quốc xã hoạt động giữa
lòng châu Âu, họ không thể và cũng không muốn che giấu bản chất của những kẻ dã
man cao thượng của mình. Hành động như vậy là tự chuốc lấy thái độ thù địch của
những người lãnh đạo dư luận xã hội ở phương Tây, và vì Liên Xô – ít nhất là
trên lời nói – có thái độ chống Quốc xã, còn các chính phủ phương Tây thì lại
tìm cách trấn an nó, trong trường hợp như thế rõ ràng là Moskva đã thu được rất
nhiều lợi ích. Những gián điệp lợi hại nhất của Liên Xô trước và trong Chiến
tranh Thế giới II chính là những người bị thái độ chống phát xít của Moskva mua
chuộc.
Quan hệ giữa chủ nghĩa Quốc xã và
chủ nghĩa cộng sản rất phức tạp, dù bề ngoài đây là hai phong trào không thể đội
trời chung với nhau. Hai phong trào này không chỉ chống đối mà còn hợp tác với
nhau.
Trước hết, họ có một kẻ thù
chung, đấy là các chế độ dân chủ tự do cam kết gắn bó với các quyền công dân,
tư hữu và hoà bình. Cả hai chế độ toàn trị đều coi con người là vật liệu để xây
dựng một trật tự xã hội mới và hình thành nên “con người mới”. Khác với Liên
Xô, Quốc xã Đức chấp nhận chế độ tư hữu, nhưng không coi đấy là quyền bất khả
xâm phạm mà có thể bãi bỏ bất cứ lúc nào và can thiệp một cách sâu rộng theo hướng
có lợi cho nhà nước. Cả hai chế độ đều coi thường chủ nghĩa hoà bình: Lenin coi
“khẩu hiệu hoà bình” là “khẩu hiệu của các cha cố và những kẻ nhỏ nhen, ti tiện
khác”. Sau khi giành được chính quyền, Lenin luôn luôn bác bỏ khả năng chung sống
giữ chủ nghĩa cộng sản và “chủ nghĩa đế quốc”: một trong hai hệ thống phải chiến
thắng, còn khi điều đó chưa diễn ra thì “những cuộc đụng độ kinh hoàng giữa nước
cộng hoà Xôviết và các nước tư bản là điều không thể tránh khỏi [8] ”.
Những lời ca ngợi chế độ quân phiệt của của Hitler và việc xây dựng các lực lượng
vũ trang Đức nhằm chuẩn bị chiến tranh cũng rõ ràng và công khai, không cần phải
đưa ra dẫn chứng ở đây.
Nhưng sự tương đồng còn nhiều hơn
thế. Hitler thu được lợi to: hắn dùng Liên Xô để doạ dẫm các cử tri Đức, song lại
dùng nước này như một hình mẫu trong việc xây dựng chế độ độc tài của chính
mình. Hắn đã lợi dụng nỗi sợ hãi của cử tri trước khả năng cướp chính quyền của
những người cộng sản trong những cuộc bầu cử quyết định năm 1932-1933. Sau khi
vu cho những người cộng sản đốt toà nhà quốc hội, hắn đã đòi quốc hội phải trao
cho hắn những quyền đặc biệt. Nghị định về việc bảo vệ nhà nước và nhân dân, có
hiệu lực cho đến khi Đế chế III sụp đổ vào năm 1945, đã đặt cơ sở pháp lí cho
chế độ độc tài của Hitler, hạn chế tự do cá nhân, tự do báo chí, tự do hội họp
và lập hội cũng như hạn chế quyền tư hữu và đặt cơ sở pháp lí cho việc tịch thu
tài sản bất cứ lúc nào. Đây là những biện pháp chưa từng có tiền lệ ở phương
Tây, chính thức trao cho lãnh tụ quyền lực vô giới hạn mà trên thực tế nhà cầm
quyền ở Liên Xô đã sử dụng.
Hitler nhìn thấy ở Liên Xô mô
hình nhà nước độc đảng để thực thi quyền lực mà nghị định tháng 3 năm 1933 đã
trao cho hắn ta. Các nhà nước như thế được gọi là “toàn trị”, thuật ngữ do nhà
độc tài Benito Mussolini, đưa ra để mô tả chế độ phát xít của mình. Chế độ toàn
trị coi việc xoá bỏ hoàn toàn sự phân biệt giữa nhà nước và công dân (xã hội),
xâm nhập và kiểm soát tất cả các mặt của đời sống xã hội là mục đích của mình.
Nó chỉ có thể đạt được mục đích như thế nếu có một đảng cầm quyền, độc quyền về
chính trị và dựa vào cảnh sát mật với quyền lực không giới hạn, để quản lí.
Trong một nhà nước như thế luật pháp không phải là phương tiện bảo vệ con người
mà là một phần của cơ chế quản lí nhà nước.
Thời gian gần đây một số nhà
chính trị học phương Tây đưa ra những quan điểm phủ nhận tính hiện thực của mô
hình toàn trị, họ cho rằng không nhà nước nào và không bao giờ có thể kiểm soát
hết được như mô hình này yêu cầu. Họ khẳng định rằng ngay cả dưới thời Stalin vẫn
tồn tại quyền lợi của các phe nhóm và ở mức độ nào đó người ta vẫn phải tính đến
dư luận xã hội. Dù các quan điểm như thế có đúng đắn đến đâu đi nữa thì chúng
cũng không thể phủ nhận được khái niệm về chủ nghĩa toàn trị. Tất cả các định
nghĩa chính trị đều là tương đối.
Như nhiều người đã nhận thấy, chế
độ dân chủ tức là chính quyền của nhân dân vẫn thường bị giới thượng lưu và những
người ủng hộ lũng đoạn. Cũng chưa bao giờ có thị trường tự do vô giới hạn: ngay
cả giữa thế kỉ XIX, khi sự can thiệp của nhà nước vào lĩnh vực kinh tế chỉ ở mức
độ tối thiểu thì người ta vẫn đặt ra những giới hạn và vẫn can thiệp vào lĩnh vực
kinh doanh tư. Cũng có thể áp dụng tiêu chuẩn như thế đối với mô hình toàn trị.
Các chế độ toàn trị có tham vọng
rất cao, không thể nào thực hiện được một cách trọn vẹn. Nhưng ngay cả khi chỉ
một phần những mục tiêu này được thực hiện thì chúng cũng tạo ra những điều kiện
hoàn toàn khác biệt với những chế độ độc tài nhất trong quá khứ:
“Vì chế độ toàn trị nhắm đến
các mục tiêu bất khả thi, nó cố gắng quản lí nhân tính và số phận của từng con
người nên nó chỉ có thể thực hiện được một phần. Tự bản chất, nó đã bao hàm những
mục tiêu không thể thực hiện được một cách hoàn toàn, cho nên nó chỉ có thể là
một xu hướng, một tham vọng mà thôi… Chế độ toàn trị không phải là một trật tự
được sắp xếp một cách kĩ lưỡng, không hoạt động hữu hiệu ở tất cả mọi mắt xích.
Dĩ nhiên là nó muốn được như thế và nó đã tiến gần tới mô hình lí tưởng ở một số
lĩnh vực nào đó, nhưng nếu nhìn tổng thể thì tham vọng quyền lực của nó chỉ được
hiện thực hoá một cách tương đối mơ hồ, với những mức độ khác nhau trong những
lĩnh vực và tại những thời gian khác nhau, trong đó những đặc trưng toàn trị và
phi toàn trị đan xen với nhau. Nhưng chính vì thế mà hậu quả của những tham vọng
quyền lực toàn trị càng nguy hiểm và càng nặng nề hơn: chúng vừa mù mờ, vừa nhiều,
vừa khó mô tả… Có sự biến dạng như thế là vì tính bất khả thi của tham vọng quyền
lực: đấy là đặc điểm của cuộc sống dưới chế độ toàn trị và làm cho người bên
ngoài cảm thấy khó hiểu [9] ”.
Sự khác nhau căn bản giữa chế độ
toàn trị cộng sản và “phát xít” là ở chỗ cộng sản tư duy một cách toàn cầu còn
phát xít thì chú ý đến dân tộc: các chế độ “phát xít’ cũng chấp nhận quan điểm
đấu tranh giai cấp, nhưng đây là cuộc đấu tranh giữa các dân tộc “có của” và
các dân tộc “không có của”. Điều này đã được Mussolini thể hiện rõ trong bài
phát biểu trước Hạ viện vào năm 1921, một năm trước khi hắn giành được quyền lực.
Hướng đến các đại biểu cộng sản, hắn nói:
“Giữa chúng tôi và những người
cộng sản không có sự gần gũi về chính trị nhưng có sự gần gũi về tri thức. Cũng
như các vị, chúng tôi cho rằng cần phải có một nhà nước tập quyền, thống nhất,
nhà nước đòi hỏi kỉ luật sắt, chỉ có một khác biệt: các vị rút ra kết luận này
từ khái niệm giai cấp, còn chúng tôi thì từ khái niệm dân tộc [10] ”.
Một trong những nghịch lí của lịch
sử là việc những người cộng sản tìm cách chống phá phương Tây lại dẫn đến kết
quả hoàn toàn ngược lại. Việc cố tình gây chia rẽ phong trào xã hội chủ nghĩa lại
làm suy yếu chính chủ nghĩa Marx. Trong khi đó Liên Xô lại có ảnh hưởng rất lớn
đối với chủ nghĩa “phát xít”: phát xít đã thổi phồng nguy cơ từ phía Liên Xô nhằm
đe doạ và tước đoạt quyền lợi của dân chúng, đồng thời lại xây dựng chế độ toàn
trị theo mô hình của Lenin và Stalin và cuối cùng chế độ này đã gần đạt được mục
tiêu là tiêu diệt chính nhà nhà nước Xô viết.
Mặc dù trong những năm 1930, Liên
Xô và hệ tư tưởng cộng sản đã thu phục được khá nhiều người ủng hộ ở phương
Tây, nhưng không có bằng chứng nào chứng tỏ rằng những người có cảm tình với
Liên Xô có thể trở thành một thế lực thực sự. Như đã nói bên trên, các đảng cộng
sản ở phương Tây bao giờ cũng là lực lượng bị cô lập, ngay cả ở những nơi họ có
thể đứng vững trên đôi chân của mình. Năm 1935, sợ hãi trước sự trỗi dậy của
các chế độ chống cộng và “phát xít”, Moskva thay đổi chính sách, không còn coi
các đảng xã hội chủ nghĩa là kẻ thù không đội trời chung nữa và ra lệnh cho các
đảng cộng sản phải liên minh với đảng xã hội và những nhóm chống phát xít khác.
Các chính phủ mau chóng yểu mệnh của Mặt trận Bình dân ở Pháp (1936-1937) và ở
Tây Ban Nha (1936-1939) không đủ sức sát nhập các đảng cộng sản vào dòng chủ
lưu của đời sống chính trị.
Trong khi tiến hành thiết lập
liên minh chống phát xít, Stalin vẫn giữ quan hệ đúng mực đối với Mussolini và
Hitler để rồi cuối cùng đã kí với Đức hiệp ước không tấn công lẫn nhau vào năm
1939, thực chất lúc đó Liên Xô đã ra nhập phe Trục.
Sự gần gũi của giữa các chế độ
toàn trị, dù chúng có theo chủ nghĩa quốc tế và chủ nghĩa cộng sản hay chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc và dân tộc chủ nghĩa, còn được thể hiện ở sự thán phục
mà lãnh tụ các chế độ này dành cho nhau. Khi quân đội Đức và Liên Xô còn đang
chiến đấu một mất một còn với nhau thì Hitler đã nói với những người thân cận về
“thiên tài” của Stalin và bàn đến việc liên kết với ông ta để tiêu diệt các nền
dân chủ phương Tây [11] .
Mao Trạch Đông, một người cộng sản cấp tiến đến nỗi ngay cả Liên Xô cũng bị ông
ta coi là kẻ phản bội, khi bị phê phán là đã giết quá nhiều đảng viên cộng sản
trong cuộc Cách mạng Văn hoá, đã trả lời như sau: “Xin hãy nhớ lại Chiến
tranh Thế giới II, xin hãy nhớ lại sự dã man của Hitler. Càng dã man thì nhiệt
tình cách mạng lại càng cao. [12] ”
Bất chấp tính mạng của người dân,
Stalin đã giành được chiến thắng trong Chiến tranh Thế giới II, nhưng ông ta
không làm chủ được toàn bộ châu Âu. Song phần lớn khu vực Đông Âu đã bị quân đội
của ông ta chiếm đóng và thiết lập ở đó các chế độ cộng sản. Trong hai ba năm đầu
sau cuộc chiến, Stalin để cho các nước đó, tuy vẫn nằm dưới sự kiểm soát của cộng
sản, được theo đuổi ở mức độ nào đó sự đa dạng về chính trị. Nhưng sau năm
1948, khi Josip Broz Tito, nhà lãnh đạo cộng sản Nam Tư, củng cố được nền độc lập
và đoạn tuyệt với Moskva, thì Stalin lập tức buộc các nước chư hầu Đông Âu phải
theo chế độ độc đảng. Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungaria, Đông Đức, Rumania về danh
nghĩa là các nước độc lập nhưng thực chất đã trở thành các nước vệ tinh, tay
sai của Liên Xô, hoàn toàn phụ thuộc vào Liên Xô, nhất là trong lĩnh vực đối
ngoại. Đế chế Xôviết đã mở rộng và biến thành Khối Xôviết.
Vì không đủ sức ngăn chặn, phương
Tây đành chấp nhận để Liên Xô thống trị Đông Âu. Phương Tây lẳng lặng công nhận
đây là khu vực ảnh hưởng của Liên Xô, nếu Moskva thoả mãn như thế thì quan hệ
giữa Đông và Tây đã có cơ hội bình ổn. Nhưng nếu những vùng đất bị chiếm đóng
này sau đó đã trở thành nguyên cớ của cái gọi là “chiến tranh lạnh” thì chỉ là
tại vì về bản chất chủ nghĩa cộng sản không thể sống một trong ổn định và hài
lòng: nó cần phải có những cuộc khủng hoảng, nó cần khuyếch trương thế lực.
Liên minh quân sự thời chiến đã
lung lay ngay khi Chiến tranh Thế giới thứ II bước vào giai đoạn cuối, tức là
ngay khi kết quả đã trở nên rõ ràng. Liên minh này thực sự tan rã vào năm
1945-1946, sau khi Liên Xô tuyên bố huỷ bỏ hiệp ước không tấn công lẫn nhau kí
vào năm 1925 với Thổ Nhĩ Kì và đưa ra cho nước này những đòi hỏi không thể chấp
nhận được về mặt lãnh thổ. Chẳng bao lâu sau cộng sản lại phát động cuộc nội
chiến tại Hy Lạp. Anh nhận trách nhiệm bảo vệ cả hai nước này, nhưng do bị chiến
tranh làm cho kiệt quệ Anh đã không thể theo đuổi chính sách như thế một cách
lâu dài. Năm 1947, theo sáng kiến của Tổng thống Harry Truman, nước Mĩ nhận
trách nhiệm kiềm chế Liên Xô, ban đầu là theo học thuyết Truman về việc giúp đỡ
Thổ Nhĩ Kì và Hy Lạp (tháng 3 năm 1947), sau đó là trên cơ sở Kế hoạch Marshall
(tháng 6-7 năm 1947), cung cấp một sự trợ giúp tài chính đáng kể cho việc tái
thiết Tây Âu. Tháng 4 năm 1949, Mĩ đi một bước chưa từng có trong lịch sử, tức
lập một liên minh phòng vệ nhằm chống kẻ thù xâm lược từ bên ngoài với sự tham
gia của mười nước Tây Âu và Canada (Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương hay NATO). Rõ
ràng kẻ thù bên ngoài ở đây chính là khối Xôviết. Tổng hành dinh khối NATO đặt ở
Paris, tướng Dwight Eisenhower, người Mĩ, là tổng tư lệnh đầu tiên của tổ chức
này. Năm 1950, sau khi quân đội cộng sản Bắc Triều Tiên tấn công Nam Triều
Tiên, lúc đó người ta đã nghi ngờ và nay thì chắc chắn là theo chỉ đạo của
Moskva, các nước đồng minh lập tức tuyên bố Tây Đức là nước độc lập có chủ quyền
và mời nước này tham gia NATO (tháng 5 năm 1955). Moskva đáp trả bằng cách
thành lập Khối quân sự Warszawa, gồm tám nước cộng sản châu Âu. Chiến tranh lạnh
đã được hợp thức hoá như thế.
Biết bao nhiêu mực đã đổ ra nhằm
tái tạo lịch sử chiến tranh lạnh. Một số nhà sử học cho là tại Mĩ, một số lại
cho rằng cả phương Đông và phương Tây đều có lỗi. Không thể phủ nhận rằng
phương Tây, trước hết là Mĩ, đứng đầu liên minh, đôi khi đã phản ứng quá mức
trước hiểm hoạ của khối cộng sản: dù mối đe doạ của khối cộng sản có như thế
nào đi chăng nữa nguy cơ của việc cộng sản chiếm được nước Mĩ có thể nói là bằng
không. Nhưng nay, khi sự cuồng nhiệt đã dịu bớt, có cảm tưởng rằng Moskva phải
chịu phần lớn trách nhiệm. Chính Moska đã tuyên bố công khai và rõ ràng ý định ủng
hộ các cuộc nội chiến và thiết lập chế độ cộng sản trên toàn thế giới; mục 17
trong các nguyên tắc kết nạp vào Comintern ghi rõ: “Quốc tế Cộng sản tuyên bố một
cuộc chiến tranh không khoan nhượng với toàn bộ thế giới tư bản…”. Bất cứ khi
nào có điều kiện Liên Xô đều cố gắng thực thi ý định này, ngay cả khi, để chiều
lòng các nước đồng minh, họ buộc phải giải tán Comintern.
Nếu cần tìm thêm chứng cứ nào nữa
thì chỉ xin nói rằng ngay sau khi Liên Xô tan rã, và nước Nga từ bỏ chủ nghĩa cộng
sản để bước vào con đường dân chủ thì chiến tranh lạnh cũng lập tức chấm dứt.
Boris Yeltsin, Tổng thống mới của nước Nga đã nói trươc Hạ viện Mĩ vào tháng 6
năm 1992 như sau:
“Thế giới có thể thở phào nhẹ
nhõm. Thần tượng cộng sản, kẻ gieo rắc động loạn, lòng thù hận và sự dã man
chưa từng có trên khắp thế giới, kẻ làm cho nhân loại phải sợ hãi đã sụp đổ rồi.
Nó đã sụp đổ và không bao giờ ngóc đầu lên được nữa. [13] ”
Ai phải chịu trách nhiệm về chiến
tranh lạnh? Có vẻ như, chí ít là đối với Yeltsin, đấy không còn là vấn đề nữa.
Chủ nghĩa cộng sản đã sản sinh ra
rất nhiều nhóm khủng bố, những nhóm này gần như, thậm chí chẳng có quan hệ gì với
chủ nghĩa Marx hay chủ nghĩa xã hội; chúng chỉ tự khoác lên mình các danh xưng
như thế hòng che đậy các hoạt động tội phạm: bắt cóc, giết người, tống tiền. Điển
hình là nhóm Baader-Meinhold ở Đức (sau này mới rõ là do tình báo Đông Đức bảo
trợ), các Binh đoàn Đỏ ở Italia, nhóm Hành động Trực tiếp ở Pháp và Hồng quân ở
Nhật hoạt động trong suốt những năm 1970. Hình thành từ các nhóm trí thức nhỏ,
với mục đích làm lung lay “chủ nghĩa tư bản”, các đảng này đã tiến hành các vụ
khủng bố nhắm vào các doanh nhân và các chính khách nổi tiếng. Sau này tất cả đều
bị tiêu diệt.
Các trào lưu vô chính phủ bột
phát, thể hiện nỗi tuyệt vọng của những kẻ cuồng tín trước đường lối có vẻ như
xu thời của lãnh đạo Liên Xô thời hậu Stalin đối với phương Tây tư bản chủ
nghĩa, lại được các lãnh tụ của thế giới thứ ba như Mao Trạch Đông và Che
Guevara ủng hộ. Trong khi đó dòng chủ lưu của đường lối chính trị cấp tiến châu
Âu lại đi theo hướng ngược lại, tức là làm cho chủ nghĩa cộng sản thích ứng với
thực tiễn của xã hội hiện đại. Trong những năm 1970 phong trào này được người
ta gọi là chủ nghĩa cộng sản châu Âu (Eurocommunism).
Ngay sau Chiến tranh Thế giới II
các đảng cộng sản châu Âu, lợi dụng uy tín rất cao của Liên Xô vì những đóng
góp to lớn cho chiến thắng, đã thu hút được rất nhiều ủng hộ viên mới. Tại nhiều
nước châu Âu, cộng sản đã từng tham gia vào các chính phủ liên hiệp. Nhưng ảnh
hưởng của họ đã suy giảm trong những năm 1950-1960. Điều đó là do một số nguyên
nhân sau đây: việc tố cáo những tội ác của Stalin do Khrushchev tiến hành, việc
đàn áp những cuộc thử nghiệm những mô hình cộng sản đặc thù của Tiệp và Hung,
đánh đồng chủ nghĩa cộng sản với phong trào bài Do Thái ở Ba Lan.
Chủ nghĩa cộng sản châu Âu, bằng
cách đoạn tuyệt với những cuộc đàn áp và tình trạng trì trệ về kinh tế ở Liên
Xô, là mưu toan làm cho chủ nghĩa cộng sản trở nên hấp dẫn hơn đối với cử tri.
Các đảng cộng sản Italia, Pháp và Tây Ban Nha có nhiều ảnh hưởng trong tầng lớp
trí thức, muốn thực hiện đường lối phù hợp với truyền thống chính trị châu Âu.
Năm 1976, Santiago Carrilo, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Tây Ban Nha đã thể hiện mục
tiêu của phong trào này như sau:
“Các đảng theo xu hướng ‘cộng
sản châu Âu’ đồng thuận về tính tất yếu của việc tiến lên chủ nghĩa xã hội theo
con đường dân chủ, đa đảng, đại nghị và các thiết chế đại diện khác, quyền lực
của nhân dân thông qua các cuộc phổ thông đầu phiếu được tiến hành theo định
kì, công đoàn độc lập với nhà nước, tự do đối lập, bảo vệ quyền con người, tự
do tôn giáo, tự do trong sáng tạo khoa học, văn học và nghệ thuật và sự tham
gia rộng rãi nhất của quần chúng trong mọi cấp và mọi lĩnh vực hoạt động xã hội.”
Thật là những ý tưởng tuyệt vời,
nhưng đối với Lenin thì đấy đều là những điều đáng bị rút phép thông công cả.
Vì vậy sẽ hoàn toàn không đúng nếu coi phong trào này là một sự “thể hiện mềm dẻo
của chủ nghĩa cộng sản”: những thử nghiệm ngắn hạn và bất thành nhằm đưa chủ
nghĩa cộng sản vào dòng chủ lưu của đời sống chính trị thực chất là sự đoạn tuyệt
với tất cả những điều mà chủ nghĩa cộng sản từng bảo vệ.
Chủ nghĩa cộng sản châu Âu chỉ là
một vụ bùng phát nhất thời. Trong những năm 1980 tất cả các đảng cộng sản châu
Âu lại bị hất ra bên lề. Những năm 1978-1979 chính là thời khắc hoàng kim của họ,
lúc đó họ đã nhận được 30,4% phiếu bầu ở Italia và 20,6% phiếu bầu ở Pháp.
Nhưng trong các nước công nghiệp phát triển nhất, số lượng cử tri ủng họ họ vẫn
là không đáng kể: 0,05% ở Anh và 0,3% ở Tây Đức[14] .
Xu thế suy giảm vẫn còn tiếp tục.
Sau khi Liên Xô tan rã, các đảng
cộng sản châu Âu cũng trải qua nhiều sự thay đổi và phân hoá. Các đảng và các
phái cứng rắn gán sự tan rã này cho sự thoả hiệp của Gorbachev với chủ nghĩa tư
bản và tiếp tục đi theo đường lối của Stalin. Một số khác đã quay lưng lại với
chủ nghĩa cộng sản truyền thống. Thí dụ, Đảng Cộng sản Italia, một đảng có nhiều
đảng viên và ít giáo điều nhất, đã lặng lẽ đổi tên là “Đảng Dân chủ của những
người cánh tả”. Phần lớn các đảng khác cũng đã chia tay với các khẩu hiệu và biểu
tượng của chủ nghĩa cộng sản.
Chủ nghĩa cộng sản là một lí tưởng
không có tương lai: nền văn hoá chính trị phương Tây đã tập hợp lại trong cuộc
đấu tranh chống lại hệ tư tưởng cứng rắn, tuy có xuất xứ từ phương Tây, nhưng lại
được hoàn thiện ở môi trường ngoài phương Tây. Chủ nghĩa cộng sản đã hoà tan
vào xã hội dân chủ phương Tây và sau đó thì lặng lẽ rút khỏi vũ đài chính trị.
Nguồn:http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=10936&rb=08