Đỗ Kim Thêm
Giới thiệu sách: Hannah Arendt - The
Origins of Totalitarianism
New York: Harcourt Brace, 1951
New York: Harcourt Brace, 1951
Vấn đề
Gần đây, sự sụp đổ của Trung Quốc được
học giới phương Tây đề cập và một học thuyết domino trong thời kỳ mới vẫn chưa
thành hình. Chừng nào chế độ độc tài của Việt Nam sẽ sụp đổ và với hình thức
nào là một câu hỏi quen thuộc của người Việt mà chưa có câu trả lời chính xác.
Dù nguy cơ của ĐCSVN thường được đặt ra, nhưng nguyên ủy cho sự tan rã chung
này cũng là vấn đề cần tìm hiểu: chế độ toàn trị do đâu mà có.
Sự thành hình của nhà nước toàn trị là
một khảo hướng lý thuyết đa dạng, nhưng sau khi chế độ Đức Quốc Xã đầu hàng thì
“The Orgins of Totalitarianism“ (1951) của Hannad Arendt được học giới
ca ngợi đây là một tác phẩm trứ danh, được liệt kê vào một trong số 100 danh phẩm
của thế kỷ XX và tác giả được vinh danh là một triết gia có ảnh hưởng sâu đậm
trong lịch sử tưởng chính trị cận đại. Bài viết sau đây sẽ giới thiệu danh phẩm
này.
Tác giả
Hannad Arendt (1906-1975) là người Do
Thái, nhưng sinh ở Linden gần Hannover (Đức) và trưởng thành ở Königsberg.
Arendt học Triết học, Thần học và Hy lạp (1924-28) tại các Đại học Marburg,
Heidelberg và Freiburg với các triết gia nổi danh Martin Heidegger và Karl
Jaspers. Luận án Tiến sĩ của bà là "Khái niệm về tình yêu của
Augustin". Vì gốc Do thái nên bà không được phép dạy học.
Khi Hitler cầm quyền bà bị giam và sau
đó cùng chồng là Günter Stern đào thoát sang Paris tháng 8 năm 1933. Tại Paris,
bà làm việc cho Jungend Aliyad, một tổ chức thanh niên tỵ nạn người Do Thái,
nhưng mất quyền công dân Đức và sống trong tình trạng không quốc tịch. Bà ly dị
vào năm 1937 và làm việc cho tổ chức Jewish Agency tại Paris. Bà tái giá với
Heinrich Blücher. Sau khi bị giam tại trại tập trung Gurs, miền nam nước Pháp,
bà và toàn gia đình sang tỵ nạn taị Hoa Kỳ năm 1941. Khởi đầu bà làm việc cho
tuần báo Aufbau, sau đó cho nhà xuất bản Schocken và phụ trách điều hành cho tổ
chức Jewish Cultural Reconstruction Agency.
Năm 1951 bà nhập tịch Mỹ sau 14 năm sống
không có quốc tịch và cho ra mắt tác phẩm The Origin of Totalitarism. Bà nổi
danh và được mời thỉnh giảng tại các Đại học Princeton, Harvard, Berkeley,
Chicago và New York. Từ năm 1967 bà là giáo sư chính thức tại New School for
Social Research, New York. Với nhiều trước tác quan trọng bà nhận được 10 bằng
Tiến sĩ danh dự của các đại học danh tiếng và nhiều giải thưởng cao qúy. Bà mất
ngày 4 tháng 15 năm 1975 tại New York.
Dù hai lần kết hôn với hai nhà trí thức
tên tuổi, nhưng người tinh muôn thuở của bà vẫn là Martin Heidegger. Chuyện
tình và cuộc đời tranh đấu của bà được soạn thành phim và gây thu hút dư luận.
Gần đây, các luận đề của bà được học giới quan tâm thảo luận và vinh danh các
đóng góp này.
Tác phẩm
The Orgirins of Totalitarianism do New
York Harcourt Brace xuất bản lần đầu vào năm 1951 là một tác phẩm có ba tựa đề
và viết bằng hai ngôn ngữ Anh và Đức.
Ấn bản Anh ngữ tại châu Âu do Secker
& Warburg, London xuất bản vào năm 1951 có tựa là The Burdens of
Our Time. Với tựa đề này bà muốn nhấn mạnh đến khía cạnh đạo đức và triết
lý, vì The Origins of Totalitarianism dễ gây ngộ nhận cho độc giả là bà nghiên
cứu về mối liên hệ nhân qủa, một khảo hướng thông thường của sử gia.
Ấn bản Đức ngữ của Europäische
Verlagsanstlt, Frankfurt a. M. năm 1955 là Elemente und Ursprünge
totaler Herrschaft do chính bà dịch và tăng bổ nội dung. Tựa đề này phản
ánh nội dung mà bà kỳ vọng. Ấn bản lần thứ ba năm 1966 được xem là hoàn chỉnh,
vì có số lượng tăng hơn 526 trang so với ấn bản 1951 và có lời giới thiệu trang
trọng của Karl Jaspers.
Nội dung
Dù với tựa đề nào thì nội dung của tác
phẩm cũng không thuần là một luận đề tư tưởng chính trị của một triết gia mà là
một bản cáo trạng đầy tâm huyết của một nạn nhân của chế độ Đức Quốc Xã trước một
tội ác có một không hai trong lịch sử của nhân loại. Bà xem đây là trách nhiệm
cao cả của mình vì những khái niệm về hình luật như tội giết người, mức độ quy
trách và hình phạt xét xử không thể nào diễn đạt được bất công của cả một chế độ
phi nhân.
Vì là một luận cương đấu tranh nên bà
không đề ra một khái niệm cơ bản về nhà nước toàn trị để làm khởi điểm cho nội
dung. Bà cho là các phương pháp của các sử gia thời hậu chiến không thể lý giải
đầy đủ về biến cố trong đại này, khi chỉ đề ra mối liên hệ nhân quả trong từng
biến cố riêng biệt, mà chế độ toàn trị là nguyên nhân chính cho mọi thảm hoạ.
Bà nêu lên những hình thức mới của một nhà nước toàn trị mà độc giả ngày nay phải
hiểu đó là một khái niệm chưa rõ nét trong bối cảnh chính trị của những năm đầu
của thập niên 1950 thời Chiến tranh Lạnh.
Trong ấn bản năm 1966 bà nhấn mạnh
không phải bất cứ chế độ độc đảng nào cũng là chế độ toàn trị mà chế độ phát
xít Ý và chính quyền của các quốc gia Đông Âu và Liên xô trước khi Stalin chết
là một thí dụ. Đặc điểm của chế độ toàn trị chỉ phát sinh trong thởi kỳ Đức Quốc
Xã với chủ trương tiêu diệt người Do thái và trong chế độ Stalin, chủ trương
triệt để về một xã hội lý tưởng không còn gia cấp và nhà nước.
Khác với các khảo hướng quen thuộc của
các sử gia, bà không những tìm hiểu điều kiện hình thành của chế độ Đức Quốc Xã
và Stalin, mà kết hợp hai hình thức độc tài này để giải thích về nguồn gốc của
một chế độ toàn trị. Để nắm quyền cai trị một đất nước suy tàn, chính quyền sử
dụng bạo lực không những chỉ trong sinh hoạt chính trị hàng ngày, mà còn chọn
khủng bố toàn thể dân tộc là phương tiện mà việc tiêu diệt người Do Thái là một
biến cố lịch sử đáng lý không thể xãy ra.
Bố cục
Tác phẩm có ba phần chính là phong
trào chống người Do Thái, chủ nghiã đế quốc và chế độ toàn trị.
Phần I trình bày ba chủ đề: Tại sao
phong trào chống Do Thái lại thành hình đúng vào thời điểm suy tàn mà không vào
thời hưng thịnh của chủ nghiã dân tộc tại các nước châu Âu? Đâu là vai trò của
cộng đồng người Do Thái trong đất nước và xã hội? Tại sao chủ nghĩa đế quốc kết
hợp đúng vào thời điểm bài Do Thái?
Điều kiện lịch sử vào thế kỷ XVIII và
XIX hình thành phong trào chống người Do Thái, khởi đầu là một hiện tượng xã hội
phổ biến không chỉ phát sinh tại châu Âu, nơi mà phân biệt sắc tộc mà còn lan
trọng, sau đó còn đến Liên Xô, nơi mà phân biệt gia cấp nặng nề.
Chương IV trình bày vụ kiện Dreyfus tại
Pháp vào cuối XIX. Dreyfus, một sĩ quan Pháp gốc Do Thái, bị vào tù vì vu cáo
làm gián điệp. Mặc dù Dreyfus đã được toà xét là vô tội, nhưng phong trào chống
Do Thái trong quân đội, giới tu sĩ Thiên chúa giáo lan tràn ra xã hội. Nhưng
tinh thần liêm khiết và dấn thân của giới trí thức Pháp, ý thức trọng pháp và
nhân quyền của dân Pháp, và đặc biệt nhất là chính giới tỏ ra chống đối chủ
nghiã Phát Xít của Ý trong nước là lý do chính làm cho mức tác hại của phong
trào bài Do Thái tại Pháp không quá trầm trọng như tại Đức, Áo, Hung và Đông
Âu.
Trong khi phong trào bài Do Thái khắp
châu Âu lên cao điểm, thì cộng đồng người Do Thaí cũng mất đoàn kết trước hiểm
hoạ và xem cộng đồng Do Thái tại Đức là một ngoại lệ trong lich sử. Dù cộng đồng
này là một thành phần sắc tộc nhỏ, nhưng chính giới và dân chúng tìm mọi cách
quy trách là tác nhân chính cho mọi tình trạng suy vi trong xã hội.
Thực ra, vai trò tài trợ của các nhà đại
tài phiệt Do Thái trong tất cả mọi sinh hoạt công trong chế độ phong kiến không
còn nhiều và không phải bóc lột kinh tế của giới Do Thái thể hiện trong hằng
ngày, mà sự giàu có và vai trò quyết định tối hậu trong mọi sinh hoạt quốc gia,
dù tiểm ẩn, nhưng đó là nguyên nhân làm cho sự thù ghét trong toàn xã hội bộc
phát.
Phần II bàn về chủ nghiã đế quốc như
là mối đe doạ cho toàn cầu vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Đó là một giai đoạn
chuẩn bị cho thảm họa sắp tới của chế độ toàn trị và dân tộc Do Thái bị ảnh hưởng
trong trong trào lưu này.
Chính giới phương Tây lập luận là các
chính sách phát triển kinh tế bị hạn chế do các luật lệ vốn có sẳn trong hệ thống
tư bản chủ nghĩa. Rào cản pháp luật này cần phá vở mà tăng trưởng kinh tế liên
tục và mở rộng sức mạnh khỏi biên giới quốc gia là mục tiêu của chủ nghĩa đế quốc.
Từ 1884-1914, khẩu hiệu của "mở rộng
vì lợi ích" đã được sử dụng để biện minh cho việc chinh phục nước ngoài,
vì đó là lợi ích của dân tộc và cũng là một phương châm kinh doanh cho các công
ty khai thác dã man người nước ngoài. Đóng vai trò tiên phong trong chính sách
này là một số các nhà tài phiệt Do Thái có óc phiêu lưu mạo hiểm.
Có hai hình thức của chủ nghiã đế quốc,
một tại châu Âu và một tại hải ngoại, mà Nam Phi và các nước thuộc điạ khác của
Anh và Pháp là thí dụ. Vì theo đuổi chính sách đế quốc ở hải ngoại với chiều hướng
kinh tế tư bản chủ nghiã mà chính sách kỳ thị chủng tộc hình thành. Giới thống
trị da trắng gốc người Hoà Lan tại Nam Phi không chấp nhận người da đen về mọi
mặt. Họ du nhập nguyên tắc cai trị chính quyền và tổ chức xã hội nước thuộc địa
dựa trên màu da. Từ đó, kỳ thị và bóc lột trở thành quy tắc chung trong xã hội.
Bà dùng rất nhiều các văn phẩm để chứng minh cho lập luận này.
Chủ nghĩa đế quốc trong châu Âu có những
đặc điểm khác, vừa dựa theo khái niệm chủ nghiã dân tộc và sắc tộc thiểu số của
một số quốc gia được thành lập muộn màng, mà các nước Đông Âu là thí dụ. Các nước
này không thuần chủng và cũng không hề có một ý chí thống nhất về các vấn để
chính trị. Do đó, để tạo đoàn kết quốc gia trong giai đoạn mới mà khái niệm về
một tập thể dân tộc như một loại ý thức hệ mới nảy sinh. Xã hội có hai thành phần
chính, một là giới lãnh đạo cực đoan, thiếu kinh nghiệm, quá giàu, hai là đa số
giới dân nghèo, họ sống ngoài lề xã hội và không có ý thức sinh hoạt theo đảng
phái hay hội đoàn trong một xã hội dân chủ. Cả hai giới nàycó nhu cầu phá vỡ
truyền thống xa xưa và cùng muốn liên kết nhau trong hoàn cảnh mới với hai đặc
thù.
Một là phong công trào công nghiệp hoá
tạo ra vô số người thất nghiệp và không có cơ hội chuyển hướng thích và họ bị chê
trách là sản phẩm thừa thải trong xã hội tư sản.
Hai là hậu quả của thế chiến thứ nhất
gây cho nạn nhân chiến cuộc lâm vào cảnh tị nạn hay mất quốc tịch. Vấn đề không
phải chỉ là họ mất nhân quyền mà chính là họ không còn có một mối quan hệ với
cuộc đời và tìm một điểm tựa để chuyển hướng. Do bối cảnh bất ổn cá nhân và bất
trắc kinh tế tăng lên mà một xã hội đang phân hoá theo gia cấp trở thành một xã
hội đại chúng lầm than và vong thân, họ sẳn sàng làm nô lệ mới cho chính quyền
nuôi mộng bành trướng chính trị.
Căn bản kết hợp là các chiều hướng thuộc
về chủ nghiã tập thể dân tộc và bành truớng đế quốc. Phong trào bài Do Thái là
một nỗ lực tuyên truyền được kết hợp trong trào lưu này. Tuyên truyền của chính
quyền là nền tảng để sách động quần chúng lầm than. Dù là mị dân nhưng tác động
này thành công. Do đó, một phong trào quần chúng trong xã hội thành hình và chiếm
mọi ưu thế trong sinh hoạt.
Phần III là trọng điểm của tác giả để
giải thích về nguồn gốc của một chế độ toàn trị mà Đệ Tam đế chế của Đức và
Bolchevik của Liên Xô là thí dụ.
Chế độ toàn trị thành hình trong một
nhà nước dân tộc suy tàn, tình trạng vô chính phủ đi trước và một xã hội đại
chúng bị phân hoá triệt để theo sau. Ngay khi nắm quyền Hitler đã ý thức về các
hậu qủa của khủng hoảng xã hội này, nên tìm cách tiếp tục hủy diệt mọi sinh hoạt
xã hội của người dân. Stalin, ngược lại, qua chủ trương xoá bỏ giai cấp cũng đi
đến một tình trạng toàn trị tương tự.
Xã hội giai cấp suy tàn khởi đầu và biến
dạng thành một xã hội đại chúng lầm than và vô tổ chức. Không có đại chúng tham
gia, tất nhiên sẽ không có một phong trào độc tài. Đó chính là điều kiện tiên
quyết cho việc hình thành một hình thức nhà nước mới. Nhưng phong trào này
không có trong khuôn khổ bình thường của một sinh hoạt chính đảng hay hội đoàn
theo hệ thống, mà là một tình trạng bạo loạn luôn biến động của buổi giao thời
mà mọi người như cát bay trong gió: Đó là một đại chúng gồm có các cá nhân đầy
lòng thù hận và nghi ngờ. Tình trạng thất nghiệp và lạm phát làm cho lý do tham
gia chống Do Thái của giới bình dân lên cao.
Vai trò của trí thức sách động cũng
quan trọng không kém. Đặc điểm chính là chính quyền tuyên truyền ý thức hệ giả
tạo và khủng bố toàn diện xã hội. Cả hai kết hợp nhau tạo ra một tình trạng bất
ổn thường trực. Cá nhân vừa không còn tự do và suy nghĩ, chỉ còn chấp nhận hợp
tác với chế độ là cách cuối cùng.
Bà mô tả khá chi tiết các trại tập
trung và cách huỷ diệt người Do Thái. Tất cả nạn nhân đều phải khuất phục truớc
cách toàn trị vô nhân đạo. Đây chính là một lò sát sinh để thử nghiệm xem chế độ
nhà nước độc tài được điều hành như thế nào và mức độ đối kháng của nạn nhân đến
đâu. Giết người một cách có hệ thống bất kể là ai và như là một loại côn trùng
hay là sinh vật thừa thải trong xã hội. Bà tố cáo là chế độ này đáng lý không
thể xãy ra.
Kết luận có hai khía cạnh quan trọng.
Một mặt, chế độ toàn trị đạt được quyền hành bằng cách tuyên truyền ý thức hệ
giả tạo và khủng bố toàn dân tộc một cách vô nhân đạo, dùng con người để thử
nghiệm về quyền lực đàn áp nhưng không nhận trách nhiệm về những bất công trước
lịch sử.
Mặt khác, chế độ độc tài không thể
tiêu diệt một dân tộc, một điều tất yếu vừa là nguồn hy vọng, nhưng nguy cơ này
cần phải đối phó. Ý thức cá nhân trong tinh thần trách nhiệm chính trị là giải
pháp. Dù quan điểm của người dân dị biệt trong mọi sinh họạt, nhưng khi tất cả
đồng thuận tạo ra một nền tảng chính trị chung để xây dựng một xã hội trong
tinh thần tự do, trách nhiệm, tương kính thì một hy vọng cho tương lai tốt đẹp
hơn có thể khởi đầu, mà quan trọng nhất là khi mà con người xem bình đẳng là
quyền duy nhất và không còn phân biệt theo chủng tộc, giai cấp, hoặc đảng phái.
Nếu đạt được lý tưởng này, chúng ta sẽ thực hiện chủ nghĩa cá nhân tự do với những
lý tưởng cao cả, tôn trọng phẩm giá của mỗi con người và chịu trách nhiệm chung
cho tất cả.
Nhận xét
Ấn bản Đức ngữ là một tác phẩm khó đọc
và bị chỉ trích với nhiều lý do. Về mặt hình thức, tác phẩm thiếu cân đối vì
nhiều luận điểm thiếu bằng chứng để thuyết phục. Có quá nhiều chú giải không
theo chuẩn mực dẫn luận thông thường, nhiều chổ dài hơn bản văn.
Vì nội dung sách được tăng bổ nhiều lần,
nên bố cục không còn mạch lạc như ấn bản Anh ngữ. Các chương cuối sách là những
tiểu luận chuyên biệt hơn là kết luận cho toàn tác phẩm. Giới phê bình nghiêm
túc không thể phân loại tác phẩm này vào lĩnh vực nào, triết học, sử học hay
chính trị học hay là một khảo cứu liên khoa đúng nghĩa và cũng không là một cáo
trạng cá nhân.
Tác phẩm thể hiện một cá tính độc lập
và một phong cách tư duy độc đáo của một triết gia dấn thân trong vấn đề tố cáo
tội ác của một nhà nước độc tài trước bất công của lịch sử. Đó là tấm gương can
đảm mà người Việt quan tâm thời cuộc cần so chiếu.
Tóm lại, tuyên truyền sách động về một
ý thức hệ giả tạo và khủng bố toàn dân trong một đất nước đang suy tàn là
nguyên nhân thành hình của chế độ. Do bất lực nội tại của chế độ mà tiến trình
tự hủy phát sinh tất yếu. Nhưng chế độ độc tài không thể hủy diệt toàn thể dân
tộc và ý thức hồi sinh một thể chế dân chủ và cộng hoà của toàn dân là một hy vọng
khởi đầu. Các lý giải này của Hannad Arendt về nhà nước độc tài của Đức và Nga
trước đây vẫn đúng cho chế độ của ĐCSVN hiện nay.
Nguồn:https://www.danluan.org/tin-tuc/20150704/do-kim-them-nguon-goc-cua-che-do-doc-tai