Hà Huy Toàn
Chủ nghĩa Marx biểu hiện thành nhiều
tác phẩm khác nhau được xây dựng rất công phu bởi cả Karl Marx (1818
– 1883) lẫn Friedrich Engels (1820 – 1895) nhưng K. Marx đóng
góp nhiều hơn khiến ông phải chịu trách nhiệm nhiều hơn. Tuy có quy mô đồ sộ
lên tới hàng chục tập sách dày cộp nhưng Chủ nghĩa Marx có nội
dung cơ bản có thể được trình bày khái quát như sau:
Muốn sống được, nhân loại cần phải ăn, mặc, ở, v.
v., tức là cần phải sử dụng các tư liệu tiêu dùng. Nhưng muốn
có các tư liệu đó để tiêu dùng, nhân loại phải tạo ra các tư liệu đó bằng lao
động, tức là phải hoạt động sản xuất. Vậy lao động hoặc hoạt động
sản xuất đóng vai trò quyết định đối với toàn bộ đời sống của
nhân loại.
Căn cứ vào đó, K. Marx cùng các đồng sự đã
quy mọi thứ về sản xuất khiến cả việc tiêu dùng lẫn
việcsinh đẻ cũng đều được quy về sản xuất, rồi K. Marx
xác quyết rằng lịch sử của nhân loại, xét đến cùng,chỉ
là quá trình thay thế phương thức sản xuất này bằng phương thức sản xuất khác
mà thôi, trong đó mỗi phương thức sản xuất luôn luôn có hai mặt
đối lập nhau: lực lượng sản xuất đối lập với quan hệ sản xuất; lực
lượng sản xuất bao gồm người lao động cùng với tư liệu
sản xuất, còn quan hệ sản xuất lại bao gồm các quan hệ giữa người với
người trong sản xuất. Sự đối lập giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất lúc
đầu chỉ có sự thống nhất giữa hai mặt đó nhưng dần
dần về sau do việc tích luỹ của cải nên sự đối lập giữa
lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất chuyển biến thành sự đối kháng giữa
người với người biểu hiện cụ thể thành sự đối kháng giai cấp giữa giai
cấp bóc lột với giai cấp bị bóc lột. Sự đối kháng này gia
tăng đến một mức độ nhất định sẽ bùng nổ thành cách mạng xã hội nhằm
thay thế phương thức sản xuất cũ bằng phương thức sản xuất mới; cứ như thế theo
chiều hướng tiến bộ:phương thức sản xuất sau bao giờ cũng tiến bộ hơn hơn
phương thức sản xuất trước về công nghệ,năng suất, phúc
lợi, v. v.. K. Marx xác quyết chắc chắn như đinh đóng cột rằng
quá trình đó diễn biến theo cái tất yếu khách quan được xác định
bao gồm các quy luật tồn tại độc lập với hoạt động nhận thức hoặc không
phụ thuộc vào hoạt động đó, tức là dù có hay không muốn, nhân
loại không thể thay đổi được hoặc không thể đảo ngược được xu thế đó.
Lao động phát triển sinh ra tư
hữu, tư hữu phát triển lạiphân hoá nhân loại thành người bóc lột với người
bị bóc lột; sự phân hoá này lại dẫn đến đấu tranh giai cấp giữagiai
cấp bóc lột với giai cấp bị bóc lột. Cuộc đấu tranh này lại
phát sinh nhà nước làm phương tiện chính trị cho
giai cấp bóc lột thống trị toàn diện giai cấp bị bóc lột. Cuộc
đấu tranh giai cấp chỉ được giải quyết bằng cách mạng xã hội, theo
đó các giai cấp cách mạng dùng bạo lực cách mạng vào
tiêu diệt giai cấp phản cách mạngcùng với nhà nước cũ để
xây dựng một nhà nước mớicho xã hội mới tiến bộ hơn xã hội cũ rồi lại tiếp
tục cuộc đấu tranh giai cấp ở trình độ cao hơn trước. Cứ
như thế đấu tranh giai cấp làm động lực trực tiếp cho toàn
bộ lịch sử của nhân loại. Đến thời đại tư bản, K. Marx cho rằngchính
tư hữu đã làm cho lao động bị tha hoá biểu hiện thành tình trạng bóc lột làm
cho cả người bóc lột lẫn kẻ bị bóc lột đều bị mất hết nhân tính, tức là kết
quả (tư hữu) chống lại nguyên nhân (lao động). Tin tưởng
chắc chắn như vậy, K. Marx tiếp tục xác quyết rằng muốn giải phóng lao động khỏi
sự tha hoá, cần phải xoá bỏ tư hữuhoặc tiêu diệt tư hữu để xác
lập công hữu, tức là cần phải thay thế tư hữu bằng công hữu, đồng
thời phải tiêu diệt mọi nhà nước vốn được giả định chỉ làm
phương tiện chính trị cho giai cấp bóc lột thống trị toàn diện giai cấp bị bóc
lột mà thôi. Nhưng muốn làm được việc đó lại cần phải xây dựng ý thức cộng
sản cho lao động biểu hiện thành giai cấp
công nhân trongnền sản xuất hàng hóa theo phương
thức tư bản làm cho giai cấp này tự nhận biết được mình có vai
trò cải tạo đối với thế giới hiện thực bao gồm cả
chính nó để nó làm cách mạng cộng sản: tiêu diệt cả tư hữu lẫn nhà nước
để xây dựng một xã hội công hữu không có cả giai cấp lẫn nhà nước!
Ý thức cộng sản – theo K. Marx – biểu
hiện thành chính Chủ nghĩa Marx cùng với các dự án
cách mạngdựa vào đó, tức là “chủ nghĩa xã hội khoa học”, theo đó
giai cấp công nhân cần phải được giác ngộ lý tưởng cộng sản rồi
dùng bạo lực cách mạng vào tiêu diệt xã hội tư sản,
bao gồm cả chế độ tư hữu lẫnkinh tế thị trường vốn
bị quy kết thành nguyên nhân làm cho lao động bị tha hoá, để xây dựng chế
độ công hữu hoặc chế độ cộng sản được giả định sẽ
bảo đảm cho lao động không bị tha hoá nữa. Muốn xây dựng được chế độ cộng sản,
K. Marx cho rằng giai cấp công nhân cần phải thiết lập được chuyên
chính vô sản bằng bạo lực cách mạng rồi dùng cái
chuyên chính này vào tiêu diệt mọi nguồn gốc sinh ra tư hữu. Đấy,
Chủ nghĩa Marx đã phơi bày ruột gan như thế đó! 1).
Để xây dựng được một hệ thống triết học
lấy “lao động” làm khái niệm trung tâm như vậy, K. Marx
đã dùng một phương pháp luận được gọi là “phép biện chứng
duy vật” vốn đối lập hẳn với phép biện chứng duy tâm đã được
xác lập bởi George Wilhelm Friedrich Hegel (1770 – 1831). K.
Marx chỉ lật ngược lại G. W. F. Hegel mà thôi.
Trước hết K. Marx phân chia triết
học thành hai loại đối lập nhau: chủ nghĩa
duy vật đối lập với chủ nghĩa duy tâm; đồng thời cũng phân chia phương
pháp luận triết học thành hai loại đối lập nhau: phép
biện chứng đối lập với phép siêu hình. Sự phân chia này hoàn toàn có dụng
ý sâu xa nhằm phân chia nhân loại thành các giai cấp đối địch
nhau rồi qua đó áp đặt tính chất giai cấp cho cả lĩnh vực tư
tưởng làm cho đám đệ tử vĩ cuồng của K. Marx không những
không thể lường được hậu quả tai ác phát sinh từ đó mà còn không
thể hình dung được rằng mọi khoa học đều theo đuổi chân lý!
Dựa vào những thành tựu khoa học chưa được kiểm chứng rõ ràng mà vẫn
còn hết sức bấp bênh ở thế kỷ XIX, K. Marx đã lựa chọn “chủ
nghĩa duy vật” làm thế giới quan cho mình đồng thời lấy “phép
biện chứng” làm phương pháp luận để xác lập “chủ nghĩa
duy vật biện chứng” với “phép biện chứng duy vật” rồi vận dụng nó
vào phân tích rạch ròi các chủ đề xã hội.
Phép biện chứng duy vật giả định chắc
chắn như đinh đóng cột rằng mọi sự vật đều luôn luôn biến đổilàm
cho người ta không thấy được một số hiện tượng chỉ tồn
tại cố định mà không bao giờ biến đổi như cái Tương
đối hoặc sự Tương đồng trong sự Khác biệt giữa các vật thể
chuyển động cũng như bản tính vị kỷ ở mọi cá nhân sống
vào mọi lúc, v. v.. Cái giả định này đã làm cho phép biện chứng
duy vật thể hiện nguyên hình thành phép siêu hình duy vật vốn
chỉ cho thấy vật chất luôn luôn biến đổi mà không hề cho thấy bất
cứ cái gì tồn tại cố định làm cho cái triết học này thua kém xa so với
các triết học khác ở Hy lạp vào thời đại cổ xưa. Với tính chất đó,
phép biện chứng duy vật về thực chất chỉ biểu hiện một
hình thức cực đoan theo kiểu duy vật cho phép
siêu hình mà thôi, làm cho Chủ nghĩa Marx vi phạm tất cả các
quy tắc logic để trở thành một hệ thống triết học đầy tư biện từ đầu đến
chân 2).
Quả thật, chínhBertrand Russell (1872 – 1970) – một trong các nhà
toán học vĩ đại nhất trong thế kỷ XX – đã nhận định chính xác rằng K. Marx có “tư
duy rất lộn xộn, đầy mâu thuẫn, lại được khuyến khích bởi
lòng thù hận”3).
Thật ra, mọi sự vật đều có hai
mặt đối lập nhau, hai mặt đó có thể thống nhất với nhau hoặc
cũng có thểđối kháng với nhau. Vấn đề quan trọng chỉ là làm thế
nào để bảo đảm sự cân bằng cần thiết giữa hai mặt đó
làm cho hai mặt đó thống nhất với nhau. Nhưng sự phân chia triết học thành hai
loại đối lập nhau về cả thế giới quan lẫn phương pháp luận như đã nói ở trên đã
dẫn đến việc phá vỡ sự cân bằng cần thiết giữa hai mặt đối lập
nhau trong đời sống xã hội biểu hiện cụ thể qua việc truy
bức các ý kiến khác biệt ở các nước lấy Chủ nghĩa Marx làm hệ
tư tưởng chính thống.
Khi phân chia triết học như vậy, K.
Marx chỉ muốn làm sâu sắc thêm G. W. F. Hegel mà thôi, ông ta
đã không ngờ lại có thể dẫn đến những hệ quả tiêu cực như thế. Những hệ quả này
đã chứng tỏ rằng K. Marx không hiểu được hết G. W. F. Hegel khiến ông ta chỉ
loại bỏ một phần G. W. F. Hegel về thế giới quan nhưng lại
tiếp nhận toàn bộ G. W. F. Hegel về phương pháp luận, tức
là phép biện chứng tư biện, để rồi tạo ra một hệ thống triết
học có nhiều cạm bẫy nguy hiểm với quá nhiều mâu thuẫn chết người!
Toàn bộ khoa học từ đầu thế kỷ
XX đến nay đã cho thấy rõ ràng rằng cả “vật chất” lẫn “tinh
thần” đều chỉ có ý nghĩa tương đối mà thôi. Vật chất
mà không có tinh thần sẽ không thể hình dung được cũng nhưtinh thần
mà không có vật chất sẽ không thể hình dung được. Vậy nếu quy thế
giới về “vật chất” thì thế giới sẽ biểu hiện thành “vật
chất” hoặc nếu quy thế giới về “tinh thần” thì thế
giới sẽ biểu hiện thành “tinh thần” tuỳ theo cái phương
pháp luận được dùng để nhận thức thế giới, hoặc có thể nói
như Immanuel Kant (1724 – 1804) đã từng nói: vẻ đẹp
không ngự trên đôi má hồng của người thiếu nữ mà nằm trong đôi mắt của kẻ si
tình 4),
khiến triết học sẽ chỉ còn lại thế giới quan khoa học cùng với phương
pháp luận khoa học để trở thành triết học khoa học!
Nhìn nhận Chủ nghĩa Marx bằng triết
học khoa học sẽ cho phép người ta thấy được Chủ nghĩa Marx cóquá
nhiều khuyết tật nghiêm trọng.
Thứ nhất, lập thuyết bằng phép
biện chứng duy vật đã làm cho K. Marx không hề biết bản tính vị
kỷ vừa tồn tại xuyên không gian vừa tồn tại vượt thời gian làm động lực tuyệt đối
cho toàn bộ lịch sử đòi hỏi xã hội phải được tổ chức theo chính
thể dân chủ mới có thể giải phóng được mọi cá nhân khỏi sự áp bức bóc
lột để nhân loại phải biết sống theo đạo đức vốn cũng
phải tồn tại cố định theo bản tính vị kỷ làm cho bản tính vị kỷ
trở thành bản tính tốt đẹp. Phép biện chứng duy vật đã làm
cho K. Marx không bao giờ biết được sự thể đó. Đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn
đến nhiều tai họa lớn cho bất cứ cộng đồng nào áp dụng Chủ nghĩa Marx 5).
Thứ hai, không giải thích được tại
sao nhân loại phải sử dụng các tư liệu tiêu dùng, như ăn, mặc, ở, v.
v., tức là không giải thích được cái gì làm nguyên
nhân sâu xa nhất cho hoạt động kinh tế. Do xem nhẹ
môn chính trị học nên mặc dù rất coi trọng môn kinh tế học,
K. Marx vẫn không sao giải thích được chính xác nhiều hiện tượng lịch sử,
trong đó có “Phương thức Sản xuất Á châu”; trái lại ông ta chỉ lập luận
vừa rất tư biện vừa rất võ đoán về các hiện tượng đó, tức là Chủ nghĩa Marx thiếu
tính chất phổ quát rồi chỉ trở thành một lý thuyết triết học rất
phiến diện 6).
Thứ ba, xác quyết kinh tế quyết định tất
cả đã dẫn đến một hệ tư tưởng tôn thờ các giá trị kinh tế mà hạ thấp hoặc
thậm chí chà đạp tất cả các giá trị khác, như tự do, đạo
đức, tâm linh, v. v., hệ tư tưởng này chắc chắn sẽ
cung cấp phương tiện tinh thần hết sức độc hại cho các
chế độ độc tài để các nhà độc tài nô dịch dân chúng về mặt
tinh thần, đồng thời cũng gây nên mâu thuẫn thù địch nhau giữa
các nhà cầm quyền thuộc mọi cấp bậc trong chế độ độc tài. Khi tranh giành nhau quyền
lợi kinh tế, người ta sẵn sàng cắn xé nhau y như thú vật 7).
Thứ tư, xác quyết tư hữu làm cho lao động
bị tha hoá đã dẫn đến các chính sách phản động nhất, bao gồm cả bạo
lực cách mạng lẫn chuyên chính vô sản, nhằm tiêu
diệt tư hữu, cũng tức là tiêu diệt luôn cả động lực mạnh mẽ nhất
thúc đẩy kinh tế phát triển. Việc tiêu diệt tư hữu biểu hiện thành việc cướp
bóc trắng trợn nhất ở các nước lấy Chủ nghĩa Marx làm hệ tư tưởng
chính thống. Việc cướp bóc trắng trợn như vậy cho thấy xác quyết này nguy
hiểm nhất trong Chủ nghĩa Marx 8).
Thứ năm, xác quyết đấu tranh
giai cấp làm động lực trực tiếp cho toàn bộ lịch
sử của nhân loại đã đẩy các nước lấy Chủ nghĩa Marx làm hệ tư tưởng
chính thống vào các cuộc nội chiến tương tàn mạo nhận cách mạng xã hội
chủ nghĩa với nhiều di hoạ vẫn còn nhức nhối đến nay về
cả kinh tế, chính trị, văn hoá– tư
tưởng, trong đó sự tổn thất về đạo đức đã tỏ ra nghiêm trọng
nhất làm cho cả cộng đồng bị sa đoạmà không tự biết. Đặc
biệt sự thù hận giữa người với người tỏ ra nguy hiểm nhất. Cách mạng
xã hội chủ nghĩa không những không tiêu diệt được nhà nước mà còn tạo ra một
nhà nước chuyên chế bạo ngược nhất từ xưa đến nay 9).
Thứ sáu, giải thích sai lạc các
nguyên nhân sinh ra ý thức mê hoặc, cụ thể là xác quyết chính tư hữu
làm cho lao động bị tha hoá đã sinh ra ý thức đó, để rồi chính Chủ nghĩa Marx
cũng lại trở thành một hệ tư tưởng chỉ thuộc về ý thức đó mà thôi, do chống
lại ý thức mê hoặc bằng phương pháp luận tư biện nên K. Marx chỉ tạo
ra được một hệ tư tưởng mê hoặc mà thôi làm cho nhiều
người không biết mình đang sống như thế nào ở đâu. Đặc biệt người
có học hoặc “trí thức xã hội chủ nghĩa” hễ suy tư triết
học lại xác quyết “duy vật” với “duy tâm” chỉ để củng cố
“khoa học mang tính chất giai cấp” thể hiện một phong cách tư
duy vừa rất lẩm cẩm vừa hết sức vĩ cuồng mà người Việt nam thường mô tả
bằng một cụm từ rất độc đáo: hâm hâm đơ đơ! Họ không thể
hình dung được rằng mọi khoa học đều theo đuổi chân lý mà chân
lý phải có giá trị như nhau đối với mọi người; từ đó suy ra rằng mọi
khoa học đều không có tính chất giai cấp! 10).
Thứ bảy, với các giải pháp chính trị
phản động nhất, Chủ nghĩa Marx đã xác lập một mâu thuẫn không thể giải
quyết được giữa mục đích với phương tiện: giải phóng nhân loại
bằng biện pháp chống lại nhân loại, đó là bạo lực cách mạng. Từ
đó không sao tránh khỏi việc áp bức nhân loại nhân danh giải phóng nhân
loại. Suy nghĩ bằng cái hệ tư tưởng này, người ta sẵn sàng làm nhiều
việc xấu xa nhất nhân danhmột mục đích tốt đẹp nhất, tức là lấy mục
đích biện minh cho phương tiện, y như chủ trương
chính trị phi đạo đức đã từng được xác lập bởi Niccolò Machiavelli (1469
– 1527). Tuy nhiên, N. Machiavelli còn biết hướng tới chính thể cộng
hoà, nhưng K. Marx lại chủ trương tiêu diệt cả chính thể đó 11).
Thứ tám, việc phân chia lịch sử của
nhân loại thành năm giai đoạn khác nhau: cộng sản
nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến, tư bản, cộng
sản văn minh, được thực hiện bởi trường phái marxist đã
làm cho Chủ nghĩa Marx trở thành một loại sử quan ấu trĩ nhất: vừa chủ
quan vừa hời hợt. Khoa học xã hội (triết học, luật học, chính trị học, v.
v.) đã chứng minh được rằng chế độ phong kiến chẳng qua vẫn chỉ thuộc về
chế độ nô lệ mà thôi, rằng chế độ nô lệ phát triển đến một mức độ
nhất định sẽ làm cho mỗi cá nhân nhất định hoặc mỗi
nhóm người nhất định bị đặt để vào một khuôn khổ biệt lập phải
sống bằng kinh tế tự túc dựa vào nông nghiệp nhỏ mà không
thể hoặc rất khó có thể sống bằng kinh tế đổi chác hoặc kinh tế thị trường, v.
v. 12).
Thứ chín, mặc dù cũng nhấn mạnh rằng tinh
thần có đời sống tương đối độc lập nhưng Chủ nghĩa Marx lại xác quyết
rằng ý thức xã hội chỉ phản ánh tồn tại xã hội mà thôi, rằng ý
thức hoặc tinh thần có nguồn gốc từ lao động,
tức là dành cho tinh thần một vị trí phụ thuộc vào kinh tế, từ đó lại
phủ nhận tinh thần có khả năng sáng tạo thế giới 13).
Thứ mười, Chủ nghĩa Marx đã
quan niệm sai lạc về cái tất yếu khách quan, theo đó cái tất yếu khách quan
bị quy thành các quy luật tồn tại bên ngoài hoạt động nhận thức, độc
lập với hoạt động nhận thứchoặc không phụ thuộc vào hoạt động đó,
dù hoạt động đó có diễn biến như thế nào theo xu hướng nào rồi được thúc đẩy bởi
động cơ nào cũng không làm thay đổi được các quy luật kia, tức là cái tất
yếu khách quan đã bị tách khỏi hoạt động nhận thức. Đây là quan niệm
độc hại nhất trong Chủ nghĩa Marx. Một quan niệm như vậy tất yếu phải
dẫn đến một hậu quả hai mặt: một mặt nó phủ nhận hoạt động nhận
thức có khả năng sáng tạo thế giới, cũng tức là khả năng cải biến xã hội; mặt
khác nó tạo ra cơ sở lý thuyết cho phép các nhà nước
phi pháp có thể biện minh cho mình, rằng mình tồn tại theo cái
tất yếu độc lập với mọi nhận thức, dù người ta có hay không muốn cũng không
thể thay đổi được sự thể đó. Dựa vào lý lẽ tư biện đó, chúng tiêu diệt
mọi ý chí đấu tranh chống chế độ độc tài đồng thời duy trì lâu
dài nỗi bất hạnh chung cho tất cả mọi người. Tai ác hơn nữa, quan niệm này
còn cho phép người ta có thể biện minh cho mọi tội ác được gây nên bởi chính
mình, rằng mọi sự kiện (cũng như mọi tội ác) đều tuân theo cái tất yếu độc lập
với hoạt động nhận thức hoặc không phụ thuộc vào hoạt động nhận thức dù hoạt động
đó có như thế nào cũng không thể tránh khỏi gây nên tội ác hoặc không thể thay
đổi được cái tất yếu kia. Vậy Chủ nghĩa Marx cũng chỉ thuộc về hệ tư tưởng
vong thân, tức là cái hệ tư tưởng làm cho người ta bị nô lệ vào cái
tất yếu mù quáng. Không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy những người
cộng sản đích thực đã tỏ ra hết sức thản nhiên khi biện
bạch cùn quịt cho những tội ác tày trời được gây nên bởi chính họ nhân danh cái
tất yếu lịch sử vốn hết sức mù mờ thường được viện dẫn
từ các tác phẩm lý luận được xây dựng công phu bởi cả K. Marx
lẫn F. Engels! Đó cũng chính là lý do logic đã giải thích được tại sao Chủ
nghĩa Marx lại trở thành nền tảng tư tưởng cho các nền độc tài cộng sản vốn có
tác dụng tai ác vượt xa mọi nền độc tài khác. Nhìn lại những sự kiện đẫm
máu, như Cách mạng Văn hoá, v. v., ở nước
Tàu hoặc Cải cách Điền địa, Nhân văn Giai phẩm, Xét
lại Chống Đảng, Nội chiến 1959 – 1975, Cải tạo Tư sản, v.
v., ở Việt nam, bất cứ người nào có lương tri cũng
hiểu được rằng các sự kiện đó cũng có nguyên nhân sâu xa trong đời
sống tinh thần hoặc có vô số khả năng rất hiện thực để
né tránh được các sự kiện đó nhưng những người cộng sản đích thực lại thản
nhiên cho rằng đấy là tất yếu lịch sử, rằng vì tất
yếu lịch sử nên không thể tránh được, rằng những
người đưa ra mệnh lệnh cũng như những kẻ thi hành mệnh lệnh đều chỉ thực hiện
cái tất yếu đó mà thôi (!) 14).
Tuy nhiên, toàn bộ khoa học từ đầu thế
kỷ XX đến nay đã quan niệm khác hẳn về cái tất yếu
khách quan, rằng các quy luật được xác lập bởi khoa học luôn luôn bị
quy định một phần bởi chính hành vi quan sát, hoặc cái tất yếu
khách quan chỉ tồn tại thông qua hoạt động nhận thức đồng thời chỉ
được xác nhận phổ quát bởi chính hoạt động đó. Chẳng hạn, muốn nhìn thấy một
electron, nhà quan sát phải soi sáng electron bằng một tia sáng;
nhưng khi được dùng để soi sáng electron, tia sáng lại truyền một phần
năng lượng từ nó sang electron làm cho electron phải thay đổi quỹ
đạo chuyển động từ quỹ đạo vốn cósang một quỹ đạo
khác được gọi là quỹ đạo thấy được, tức là quỹ đạo
thấy được hoàn toàn khác hẳn quỹ đạo vốn có; sự thay đổi này làm cho nhà
quan sát chỉ có thể nhìn thấy được quỹ đạo khác mà không thể nhìn thấy được quỹ
đạo vốn có; quỹ đạo vốn có như thế nào, nhà quan sát không
thể biết được màchỉ có thể đặt để niềm tin vào đó thôi;
trái lại, nhà quan sát chỉ có thể biết được quỹ đạo khác, quỹ đạo này
chỉ được xác lập bởi hành vi quan sát mà không phải tồn tại tự thân, tức là quỹ
đạo này không tồn tại tự thân hoàn toàn mà được quy định một phần bởi chính
hành vi quan sát vốn thuộc về hoạt động nhận thức 15).
Từ đó người ta rút ra được một kết luận triết học cho rằng cái
tất yếu khách quan luôn luôn bị quy định một phần bởi hoạt động nhận thức đồng
thời phải có giá trị phổ quát hoặc phải có giá trị như
nhau đối với mọi người, theo đó cái gì đúng với một người cũng phải
đúng với mọi người hoặc cái gì sai với một người cũng phải sai
với mọi người, tức là nếu cái gì đúng với người này mà lại sai với
người khác thì cái đó tuyệt đối không thể khách quan. Từ kết luận đó, người
ta lại rút ra được một nguyên tắc xử sự rất quan trọng đối với mọi người,
theo đó mỗi người phải chịu trách nhiệm với mọi hệ quả được gây nên bởi chính
mình. Nguyên tắc này làm cho nhân loại phải có sự hiểu biết về chính
mình mới có thể né tránh được sai lầm; sự hiểu biết về chính mình lại
làm cho nhân loại được tự do, đối lập hẳn với Chủ nghĩa Marx vốn làm cho nhân
loại bị nô lệ vào cái tất yếu mù quáng như đã nói ở trên kia!
Nhiều người đã biết được Chủ nghĩa
Marx cực kỳ phản động về mặt chính trị thể hiện lộ liễu qua cả bạo lực
cách mạng lẫn chuyên chính vô sản, nhưng rất ít
người hoặc thậm chí chẳng mấy ai biết được Chủ nghĩa
Marx cũng cực kỳ sai lầm về mặt khoa học thể hiện ẩn ngầm qua cái quan
niệm độc hại cùng cực về cái tất yếu khách quan.
Vân vân.
Tất cả các khuyết tật đó cũng như các
khuyết tật khác có thể có trong Chủ nghĩa Marx đều bắt nguồn từ “phép biện
chứng duy vật” được xác lập bởi chính K. Marx, cái phương pháp luận này tư
biện từ đầu đến chân mà không hề có một chút khoa học nào cả.
Phương pháp luận tư biện đương nhiên phải tuỳ tiện, phải lộn xộn, phải mâu thuẫn!
Phép biện chứng là phương pháp luận
triết học làm cho chủ thể nhận thức có thể thấy được thế giới
về cả hai mặt đối lập nhau: vừa vật chất vừa tinh thần, vừa
biến đổi vừa cố định, vừa xác định vừa bất định,vân vân.
Nhưng việc gán ghép khiên cưỡng tính chất duy vật cho phép
biện chứng để tạo ra “phép biện chứng duy vật” đã làm cho phép
biện chứng bị biến chất trái ngược thành phép siêu
hình, tức là cái phương pháp luận triết học chỉ cho phép chủ thể nhận
thức thấy được thế giới về một mặt nhất định mà thôi, cụ thể là chỉ
cho thấy một thế giới biến đổi mà không cho thấy một thế giới
cố định cũng như chỉ cho thấy một thế giới cố định mà không
cho thấy một thế giới biến đổi. Do quy thế giới về “vật
chất” đồng thờigiả định sai lạc rằng vật chất chỉ biến
đổi mà không cố định nên “phép biện chứng duy vật” đã
thể hiện nguyên hình thành phép siêu hình vốn chỉ cho phép chủ
thể nhận thức thấy được đối tượng nhận thức về một mặt nào đó, chẳng
hạn chỉ thấy được sự biến đổi mà không thấy được sự cố
định hoặc chỉ thấy được sự cố định mà không
thấy được sự biến đổi, v. v..
Trước K. Marx hơn hai ngàn năm,
Heraclitus đã từng nói rằng không ai tắm được hai lần trên một
dòng sông. K. Marx đã đi xa hơn theo chiều hướng cực
đoan bằng chủ nghĩa duy vật biện chứng với điểm
tận cùng biểu hiện thành một ý kiến triết học cho rằng: vận
động là thuộc tính cố hữu biểu hiện sinh mệnhcủa vật
chất. Đạt đến điểm đó, K. Marx đột ngột dừng lại mà không bao giờ tiến lên
nữa. Nếu tiến lên thì ông ta sẽ đi đến lý thuyết tương đối vốn
phát biểu rằng mọi biến đổi đều tương đối, rằng mọi cái đều
biến đổi nhưng có một cái duy nhất không biến đổi biểu hiện thành chính sự biến
đổi, rằng trong một thế giới biến đổi (hệ quy chiếu, v.
v.) với mọi cái luôn luôn biến đổi lại có một cái duy nhất không bao giờ
biến đổi biểu hiện thành cái Tương đối. Cái Tương đối chỉ được xác
lập hiện thực bởi hoạt động nhận thức đồng thời cũng
chỉ tồn tại hiện thực với chính hoạt động nhận thức làm cho nó chỉ
biểu hiện thuần tuý thànhmột sự kiện tư duy mà thôi. K.
Marx không thể hình dung được cái Tương đối theo ý nghĩa như vậy. Vì tự giới hạn
mình vào chủ nghĩa duy vật biện chứng nên một mặt, ông ta chỉ thấy được mọi cái
đều biến đổi vô tận mà không thể thấy được một cái duy nhất không bao
giờ biến đổi biểu hiện thành chính sự biến đổi, tức là ông ta thiếu hẳn năng
lực khái quát cho việc trừu tượng hoá mọi biến đổi
thành một cái cố định biểu hiện thành cái Tương đối hoặc ông
ta không tạo tác được cái Tương đối vốn không bao giờ biến đổi;
mặt khác ông ta không bao giờ thấy được hoạt động nhận thức có khả năng
sáng tạo. Nếu K. Marx có tin rằng hoạt động nhận thức có thể sáng tạo thế
giới thì ông ta không thể chứng minh được khả năng đó bằng khoa
học mà chỉ có thể xác quyết được khả năng đó bằng tư
biện thôi.
Được áp dụng vào đời sống xã hội,
chủ nghĩa duy vật biện chứng vốn giả định chắc chắn rằng mọi cái đều biến
đổi khôn cùng sẽ chỉ gây nên biến động tang thương mà
thôi, đổ vỡ nối tiếp đổ vỡ, thù hận nối tiếp thù hận, sợ hãi nối tiếp sợ hãi,
v. v.. Cái hiện thực đó không nói lên cái gì ngoài tâm thức triết học ở
chính K. Marx. Nếu Chúa tạo ra thế giới theo hình ảnh của mình thì K. Marx cũng
tạo ra thế giới theo hình ảnh của mình nhưng chỉ tiếc rằng K. Marx đã
chống lại Chúa để thế giới nô lệ chống lại thế giới tự do,
tức là chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ sai lầm mà còn nguy
hiểm nữa!
Xin nhắc lại Bertrand
Russell đã từng nhận xét rất đúng rằng K. Marx có “tư duy rất lộn xộn, đầy
mâu thuẫn, lại được khuyến khích bởi lòng thù hận”.
Nhiều tài liệu lịch sử đáng tin cậy
cho biết rằng K. Marx đã sống một cuộc sống rất bấp bênh, cuộc sống
này chắc chắn phải có ảnh hưởng rất lớn đến cách thức suy nghĩ để
K. Marx lập luận 16).
Ngay từ nhỏ, K. Marx đã tiếp nhận sâu rộng nhiều hệ tư tưởng chỉ có giá trị về nghệ
thuật hoặc tôn giáo mà khônghoặc rất
ít giá trị về khoa học, như chủ nghĩa lãng mạn chẳng
hạn, v. v., khiến K. Marx nuôi dưỡng nhiều định kiến thiển
cận nhất về giai cấp tư sản đồng thời dành hết tình
cảm lãng mạn cho giai cấp vô sản. K. Marx đã dành nhiều
ngôn từ hoa mỹ nhất cho giai cấp vô sản khiến độc giả
uyên bác cảm thấy rất phản cảm khi đọc ông ta! Hơn hai ngàn năm trước, Aristote
đã từng nhận định về nô lệ, nông nô, công nhân, v. v., tức là các giai
cấp bị bóc lột, bị áp bức, bị nô dịch trong chính
thể chuyên chế, rằng nếu một nông nô nào đó mà lãnh đạo đám đông lật
đổ được một chính quyền thối nát nào đó thì họ cũng sẽ chỉ tái lập một thể chế
như cũ, rằng đám đông nông nô hoặc làm nông nghiệp nhỏ không có khả
năng về kinh tế để trở thành một giai cấp tự nó hoặc một giai cấp cho nó, tức
là nó không thể có ý thức về vai trò của nó hoặc không có cơ sở kinh tế để thực
hiện một vai trò nào đó dù có ý thức về vai trò đó, rằng cá nhân nào
trong đám nông nô mà ngoi lên được cũng sẽ trở thành chủ nô hoặc quan văn cho
chế độ chuyên chế17).
Vậy mà K. Marx lại xác quyết rằng các giai cấp đó có khả năng cách mạng để cải
tạo thế giới hoặc thậm chí sáng tạo thế giới! Bệnh hoang
tưởng này đã làm cho Chủ nghĩa Marx có tính chất không tưởng rất trầm trọng.
Chủ nghĩa Marx chỉ thuộc về một
loại triết học tầm thường ở Tây phương nếu không muốn nói thật chính
xác rằng nó chỉ thuộc vào hàng cặn bã trong nền Văn minh Tây phương.
Sau Công xã Paris thất bại vào năm 1871, giai cấp công nhân ở cả Tây
Âu châu lẫn Bắc Mỹ châu đã nhận thấy Chủ nghĩa Marx vừa
sai lầm vừa nguy hiểm khiến Chủ nghĩa Marx bắt đầu bị đào thải ở đó. Tuy nhiên Chủ
nghĩa Marx lại trở nên “vĩ đại” ở Đông phương chính nhờ Vladimir
Ilich Lenin (1870 – 1924) cùng với Đảng Bolsheviks ở Nga.
Ngay ở Nga cũng chỉ có rất ít người
tin tưởng vào Chủ nghĩa Marx, số người này không đủ để làm cách mạng cộng
sản. V. I. Lenin cướp được chính quyền ở đó không phải nhờ Chủ nghĩa Marx
mà chỉ nhờMật vụ Đức. Trong Chiến tranh Thế giới Lần thứ Nhất từ
năm 1914 đến năm 1918, Đức muốn gây nên chính biến ở Nga để Nga phải rút khỏi
cuộc chiến tranh với Đức, Mật vụ Đức bèn liên lạc với V. I. Lenin rồi cung cấp phương
tiện chiến tranh cho Đảng Bolsheviks về làm chính biến ở Nga vào cuối
năm 191718).
Do bị tuyên truyền bịp bợm trong nhiều năm nên nhiều người vẫn quen gọi vụ
chính biến đó là “Cách mạng Tháng Mười Nga Vĩ đại”, nhưng thực tế lịch sử
đã cho thấy đó chỉ là một vụ đảo chính đẫm máu mà thôi, không
hơn mà cũng không kém! Vừa cướp được chính quyền bằng vụ đảo chính đó, V. I.
Lenin ngay lập tức đã dùng Chủ nghĩa Marx làm phương tiện tinh thần để thiết
lập nền chuyên chế cộng sản ở Nga rồi nô dịch dân chúng ở
đó bằng chính Chủ nghĩa Marx đồng thời xúc tiến việc xuất khẩu cách mạng ra
khắp thế giới làm cho nhiều người ngộ nhận rằng Chủ nghĩa Marx vừa
khoa học vừa cách mạng!
Để giữ được chính quyền cộng sản ở Nga
đồng thời áp đặt được Chủ nghĩa Marx cho dân chúng ở đó, Đảng Bolsheviks đã phải
sử dụng các biện pháp đẫm máu với một hệ thống nhà tù
dày đặc khắp nước Nga tạo nên Quần đảo GULAG 19).
Khoa học gì mà lại phải được áp dụng bằng các biện pháp đẫm máu như thế? Chưa kể
các nước khác cũng có nền chuyên chế cộng sản lấy Chủ
nghĩa Marx làm hệ tư tưởng chính thống, hệ quả thậm chí
còn thảm khốc hơn nhiều lần. Vậy Chủ nghĩa Marx chỉ vĩ đại theo ý nghĩa
tiêu cực mà thôi: nếu dùng nó để thiết lập một chế độ độc tài
thì sẽ thành công mỹ mãn nhưng nếu dùng nó để thiết lập một chế
độ dân chủ thì chắc chắn sẽ thất bại thê thảm!
Do được xác lập bằng phương pháp luận
tư biện vốn chỉ có mâu thuẫn đối kháng ngay từ nội tại nên Chủ nghĩa Marx có rất
nhiều mâu thuẫn đối kháng khiến bất cứ một nhà marxist nào dù trung thành đến
đâu với Chủ nghĩa Marx cũng không thể nào bảo vệ được Chủ nghĩa Marx về mọi
mặt mà chỉ có thể bảo vệ được Chủ nghĩa Marx về một mặt nào đó hoặc một
bộ phận nào đó thôi, từ đó sẽ không sao tránh khỏi xung đột khốc liệt
với các nhà marxist khác; tức là Chủ nghĩa Marx làm cho “nhà marxist” bị
phân hoá thành nhiều loại khác nhau, trong đó mỗi loại nhất định cứ ôm khư khư
một mặt nào đó hoặc một bộ phận nào đó trong Chủ nghĩa Marx để chống lại loại
khác vốn cũng ở vào tình trạng tương tự, khiến các nhà marxist càng trung thành
với Chủ nghĩa Marx càng xung khắc với nhau. Không có gì khó hiểu khi thấy các
nhà marxist thường không ưa nhau hoặc thậm chí còn thù ghét nhau.
Làm nền tảng tư tưởng cho chế
độ độc tài (các nền độc tài cộng sản), Chủ nghĩa Marx sẽ dẫn đến các hệ
quả tai ác nhất: những người cộng sản truy bức nhau tàn tệ, như Mao
Trạch Đông truy bức Lưu Thiếu Kỳ cũng như Joseph Stalin truy bức
Lev Davidovich Trotsky, v. v., hoặc các Đảng Cộng sản
cũng hiếp đáp nhau tương tự, như Đảng Cộng sản ở Liên bang Soviet
khuynh loát các Đảng Cộng sản ở tất cả các nước khác làm chư hầu cho Liên bang
Soviet, Đảng Cộng sản ở nước Tàu kích động Đảng Cộng sản ở Cambodia
gây hấn với Đảng Cộng sản ở Việt nam khiến Đảng Cộng sản ở Việt
nam phải đem quân sang Cambodia để lật đổ tên đồ tể khát máu có tên gọi là Pol
Pot, rồi Đảng Cộng sản ở nước Tàu lại đem quân xuống phía Nam để
“dạy cho Việt nam một bài học” vào năm 1979, v. v. 20).
Tóm lại Chủ nghĩa Marx đã gây nên các tai hoạ khủng khiếp nhất cho thế giới vào
thế kỷ XX.
Tôi xác tín rằng K. Marx không hề mong
muốn một kết cục như thế mà chắc chắn cũng không thể biết được một kết cục như
thế nhưng chỉ những kẻ nào ngu sy đần độn đến mức độ mà không thể cứu chữa được
mới tin tưởng rằng Chủ nghĩa Marx vừa khoa học vừa cách mạng!
Nhiều học giả ở khắp nơi (trong đó có Simon
Sebag Montefiore) tố cáo K. Marx đã xây dựng một lý thuyết triết học
chủ trương sát nhân, rằng “chưa có lý thuyết triết học nào đã từng biện
hộ cho nhiều vụ sát nhân đến như thế!” 21).
Nhưng tôi lại nghĩ khác. Tôi nghĩ rằng K. Marx làm triết học với động
cơ trong sáng nhằm giải thoát nhân loại khỏi tình trạng dã man.
Đó là một trong những lý tưởng xã hội đáng được trân trọng nhất.
Tuy nhiên, vì K. Marx đặt ra vấn đề quá phiến diện (xuất phát
từ lao động để giải phóng lao động bằng chính lao
động hoặc giả định lao động tự ý thức rồi tự
giải phóng mình bằng bạo lực cách mạng!) rồi lại giải quyết
vấn đề đó bằng một phương pháp luận tư biện (mà ông ta ngộ nhận
nó có tính chất khoa học rồi quy nó thành “phép biện chứng duy vật khoa học”
với thực chất lại chẳng hề có một chút khoa học nào cả!), nên K. Marx chỉ tạo
ra được một thứ triết học tư biện từ đầu đến chân. Chính vì có tính
chất tư biện như vậy nên Chủ nghĩa Marx đã trở thành một thứ triết học
dễ bị lạm dụng hơn bất cứ một thứ triết học nào khác, cho phép những
kẻ có đầu óc tối tăm lạm dụng dễ dàng vào việc tạo ra vô số lý
thuyết nguỵ khoa học nhằm nô dịch đồng loại về cả thể xác lẫn tinh thần.
Chủ nghĩa Marx chủ trương giải
phóng nhân loại bằng bạo lực chuyên chế (bao gồm cả bạo
lực cách mạng lẫn chuyên chính vô sản), tức là lấy giải
phóng nhân loại làm mục đích đồng thời lấy bạo
lực chuyên chế làm phương tiện để thực hiện hoặc theo
đuổi mục đích. Nhưng vì không lường được bản tính vị kỷ vốn có ở mọi cá nhân sống
vào mọi lúc khiến bạo lực chuyên chế chỉ có thể áp bức nhân loại, tức là phương
tiện mâu thuẫn với mục đích, nên Chủ nghĩa Marx không những không đạt được
hoặc không thực hiện được mục đích mà còn tạo ra hệ quả trái ngược với mục đích
để bị vong thân, tức làmâu thuẫn giữa mục đích với phương tiện làm cho Chủ
nghĩa Marx trở thành một hệ tư tưởng vong thân.
Rất nhiều người thiển cận thảm thương
đã hồ đồ đồng nhất Chủ nghĩa Marx với Chúa giáo (Christianity),
bao gồm Công giáo (Catholicism), Chính giáo (Orthodoxism), Tin
lành (Protestantism), v. v. 22),
rằng Chủ nghĩa Marx cũng gây nên “núi xương sông máu” như Chúa giáo.
Họ không hiểu rằng đối với tội ác nhân danh ý thức hệ như thế, Chúa giáo phải
làm nạn nhân đối lập hẳn với Chủ nghĩa Marx lại chỉ làmtác
nhân. Chúa giáo phải làm nạn nhân cho những tội ác tày trời được gây
nên bởi nền chuyên chế thần quyền mạo nhận Chúa giáo nhưng Chủ
nghĩa Marx lại chỉ làm tác nhân cho những tội ác tày trời được gây nên bởi nền
chuyên chính vô sản lấy Chủ nghĩa Marx làm hệ tư tưởng chính thức. Nền
chuyên chế thần quyền đã thực hiện sai lạc Chúa giáo dẫn
đến những tội ác tày trời nhưng nền chuyên chính vô sản đã thực hiện
đúng đắn Chủ nghĩa Marx dẫn đến những tội ác tày trời. Chúa giáo
luôn luôn được bảo vệ thành công bởi những trí tuệ siêu phàm, như Nicolaus
Copernicus (1473 – 1543), Galileo Galilei (1564 –
1642), Isaac Newton (1642 – 1727), Albert Einstein (1879
– 1955), v. v., chưa kể các học giả uyên bác về xã hội học,
như Alexis De Tocqueville (1805 – 1859) cũng như Friedrich
August von Hayek (1899 – 1992), v. v. 23),
những trí tuệ đó đã giải thoát thành công Chúa giáo khỏi những giáo điều chuyên
chế được tạo nên bởi các nền chuyên chế thần quyền. Nhưng Chủ nghĩa Marx lại
luôn luôn bị bác bỏ thành công bởi những trí tuệ siêu phàm từ giữa thế kỷ XIX đến
nay, trong đó có Albert Einstein24).
Nhân loại phải quay trở về Chúa giáo mới có thể tiến lên được
nhưng nhất định phải từ bỏ Chủ nghĩa Marx mới có thể tiến lên
được 25).
Người ta có thể bào chữa đúng đắn cho Chúa giáo bằng nhiều lý do khác nhau
nhưng không thể biện bạch đúng đắn cho Chủ nghĩa Marx bằng bất cứ lý do nào.
Thật ra, Chủ nghĩa Marx chỉ tỏ ra chân
thực với chính thể chuyên chế, vì chính thể chuyên chế luôn luôn có mâu
thuẫn đối kháng nên Chủ nghĩa Marx cũng luôn luôn có mâu thuẫn đó, nếu
chính thể chuyên chế có mâu thuẫn đối kháng ở điểm nào thì Chủ nghĩa Marx sẽ có
ngay mâu thuẫn đối kháng ở chính điểm đó. Đó chính là cái bí mật to lớn nhất nằm
sâu thẳm trong Chủ nghĩa Marx.
HÀ HUY TOÀN
GHI CHÚ:
Tiểu luận này được công bố nhằm kỷ niệm:
70 năm kết thúc Chiến tranh Thế giới Lần thứ Hai; 70 năm Cách mạng Tháng Tám
1945; 40 năm kết thúc Chiến tranh Việt nam.
_____________________
1) Xin
hãy xem: Marxists Internet Archives. Phần Việt ngữ (https://www.marxists.org/vietnamese/).
Tính đến ngày 11 Tháng Tám 2015, phần này vẫn chưa có Tư bản luận được
viết công phu bởi Karl Marx. Vì học thuyết kinh tế của K. Marx cấu
thành nội dung chủ yếu cho Chủ nghĩa Marx nên nhất thiết phải
nghiên cứu Tư bản luận mới có thể hiểu đúng về Chủ nghĩa Marx. Vậy độc giả có
thể xem Karl Marx: Tư bản. Việt ngữ. Nhà xuất bản Sự thật, Hà nội.
Quyển thứ nhất: tập I, 1959; tập II, 1960; tập III, 1960. Quyển thứ hai: tập I,
1961; tập II, 1961. Quyển thứ ba: tập I, 1962; tập II, 1962; tập III, 1963. Khi
viết về sự xung đột giai cấp, K. Marx đã dựa vào nhiều tài liệu
tham khảo đã bị quên lãng được viết từ những năm 1820 đến những
năm 1830 (Ludwig von Mises: Liberalismus. Bản dịch Việt ngữ: Chủ
nghĩa Tự do Truyền thống. Nhà xuất bản Tri thức, Hà nội 2013. Trang 328).
2) Khi
nghiên cứu Tư bản luận vào thập niên 1990, tôi nhận thấy K. Marx đã vi phạm tất
cả các quy tắc logic: quy tắc đồng nhất, quy tắc nhất quán, quy
tắc khách quan, quy tắc loại trừ, quy tắc bao hàm, v.
v.. Sự thể đó biểu hiện rõ ràng nhất qua lý thuyết về giá trị, tiền
công và lợi tức. Xin hãy xem thêm Nguyễn Đình Cống: Chống
ngụy biện và nhầm lẫn về Chủ nghĩa Marx – Lenin. Bauxite
Việt nam (http://www.boxitvn.net/bai/36463).
3) Tôi
trích dẫn lại B. Russell từ Simon Sebag Montefiore: Quái vật mang tên
Karl Marx. Talawas (http://vcomtech.net/xahoi/nhanvat/nguyentruong/quaivatmangtenmarx.html).
4) Có
thể xem “Những câu nói hay bằng Anh văn” tại Diễm mục như họa(https://yunakyo.wordpress.com/nhung-cau-noi-hay-bang-tieng-anh/).
Quý độc giả có thể tìm kiếm câu trích dẫn trong các tác phẩm triết học được tạo
tác bởi I. Kant.
5) Bản
tính vị kỷ (ích kỷ, tư lợi và tham lam) vốn
có ở mọi cá nhân sống vào mọi lúc. Bản tính đó vừa
tốt đẹp vừa xấu xa, nó chỉ xấu xa khi thúc đẩy người ta
làm điều xấu xa hoặc nó chỉ tốt đẹp khi thúc đẩy người ta làm
điều tốt đẹp, điều tốt đẹp làm lợi cho nhân loại đối lập với điều xấu
xa vốn chỉ gây hại cho nhân loại. Căn cứ vào đó, tôi có thể xác định
chính xác bản chất cho nhân loại bằng bản tính vị kỷ khiến các
cá nhân phải phục vụ lẫn nhau để thỏa mãn mình mới tồn tại được. Nhưng Chủ
nghĩa Marx không nhận thấy sự thật hiển nhiên như vậy về bản tính vị kỷ khiến
Chủ nghĩa Marx xác định sai lạc bản chất cho nhân loại bằng tổng
hòa các quan hệ xã hội mà không nhận thấy mọi quan hệ xã hội đều bắt
nguồn từ bản tính vị kỷ đồng thời chỉ biểu hiện chính bản tính đó. Chính vì
không nhận thấy bản tính vị kỷ nên Chủ nghĩa Marx không thể giải thích được nguồn
gốc sinh ra tư hữu, lại càng không thể giải thích được nguồn
gốc sinh ra cả nhà nước lẫn pháp luật.
6) Chủ
nghĩa Marx có tham vọng giải thích tất cả để trở thành một triết lý phổ
quát nhưng vì không nhận thấy bản tính vị kỷ vốn có ở mọi cá
nhân sống vào mọi lúc mà chỉ lấy lao động hoặc kinh
tế vốn chỉ chiếm một bộ phận nhất định trong đời
sống xã hội làm phạm trù trung tâm cho mình nên khi
được áp dụng vào đời sống xã hội, Chủ nghĩa Marx tỏ ra bất lực trước nhiều vấn
đề thực tế khiến nó không thể trở thành một triết lý phổ quát mà chỉ có thể trở
thành một triết lý phiến diện.
7) Do
lập luận bằng quyết định luận kinh tế nên Chủ nghĩa Marx đã biến
nhân loại thành các giá trị kinh tế hoàn toàn phi nhân tính.
Có thể xem thêm George Orwen: Animal Farm – A Fairy
Story, 1945. Ấn bản Việt ngữ: Chuyện ở Nông trại. Nhà xuất bản
Hội Nhà văn, Hà nội 2013. Có thể tìm thấy ấn bản Việt ngữ trên Internet (http://www.truyenngan.com.vn/tieu-thuyet/tieu-thuyet-phuong-tay/634-chuyen-o-nong-trai.html).
8) Xin
hãy xem Anatoly Tille: Liên bang Soviet – Nhà nước
Phong kiến Trá hình. Talawas (http://www.talawas.org/).
9) Anatoly
Tille: Liên bang Soviet – Nhà nước Phong kiến Trá hình.
Talawas (http://www.talawas.org/);
Nguyễn Minh Cần: Đảng Cộng sản Việt nam qua những biến động trong phong
trào cộng sản quốc tế. Nhà xuất bản Tuổi Xanh, 2001; Lữ Phương: Chủ
nghĩa Marx và cách mạng vô sản Việt nam. Hội thảo Việt (http://www.viet-studies.info/LuPhuong.htm).
Vân vân.
10) Có
thể xem thêm Lữ Phương: Chủ nghĩa Marx và cách mạng vô sản Việt nam.
Hội thảo Việt (http://www.viet-studies.info/LuPhuong.htm).
11) Niccolò
Machiavelli: The Prince. Harmondsworth: Penguin, 1975; The
Discourses. Harmondsworth: Penguin, 1983. David Held lược thuật hai tác
phẩm đó trong “Models of Democracy” (Các Mô hình Dân chủ). Ấn bản
Việt ngữ: Các Mô hình Quản lý Nhà nước Hiện đại. Nhà
xuất bản Tri thức, Hà nội 2013, từ trang 85 đến trang 87. D. Held cũng
lược thuật Chủ nghĩa Marx về mặt chính trị trong
tác phẩm này. Ấn bản Việt ngữ như trên, từ trang 175 đến trang 217. Trong đó
D. Held đã kết luận chính xác rằng: “Lịch sử của Chủ nghĩa Marx –
được thể hiện bằng những xung đột sâu sắc giữa việc xác định các
mục tiêu chính trị phù hợp với việc triển khai chiến lược chính trị
trong những điều kiện lịch sử, thường khác xa với dự đoán của K.
Marx – cho thấy đây là một trò mạo hiểm lành ít dữ nhiều”
(trang 217). Trong một danh sách đặc biệt liệt kê các tác gia
vĩ đại nhất đã góp phần quan trọng vào làm thay đổi thế giới, N. Machiavelli đã
được đặt để vào vị trí đầu tiên, việc này không hề ngẫu nhiên
(Robert B. Downs: Books That Changed The World. Bản dịch Việt ngữ: Những
tác phẩm làm biến đổi thế giới. Nhà xuất bản Văn đàn, Sài gòn 1970. Ấn phẩm
đó đã được xào nấu cẩu thả thành “Những luận thuyết nổi tiếng
thế giới” bởi Vũ Đình Phòng và Lê Huy Hòa. Việt
ngữ. Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà nội 1999. Tác gia đầu tiên được trình
bày trong tác phẩm này chính là N. Machiavelli). Độc giả nào biết Việt ngữ có
thể xem thêm Niccolò Machiavelli: Quân vương. Nhà xuất bản Tri thức,
Hà nội 2007; Karl Marx và Friedrich Engels: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.
Marxists Internet Archives (https://www.marxists.org/vietnamese/marx-engels/1840s/tuyen/index.htm);
Anatoly Tille: Liên bang Soviet – Nhà nước Phong kiến
Trá hình. Talawas (http://www.talawas.org/);
Nguyễn Minh Cần: Đảng Cộng sản Việt nam qua những biến động trong phong
trào cộng sản quốc tế. Nhà xuất bản Tuổi Xanh, 2001; Lữ Phương: Chủ
nghĩa Marx và cách mạng vô sản Việt nam. Hội thảo Việt (http://www.viet-studies.info/LuPhuong.htm).
12) Có
thể xem thêm Lữ Phương: Chủ nghĩa Marx và cách mạng vô sản Việt nam.
Hội thảo Việt (http://www.viet-studies.info/LuPhuong.htm).
13) Xem chú
thích 11.
14) Xin
hãy xem tất cả các giáo trình triết học về Chủ nghĩa
Marx – Lenin đang được phổ biến rộng khắp tại Việt
nam hiện nay. Ngoài ra, rất nên xem các video clips: Câu chuyện Soviet(https://www.youtube.com/watch?v=9_IeHiE1SMc), Cửu
bình (https://www.youtube.com/watch?v=TcdkbFNn5m4),
và v. v..
15) Caroline
F. Wate, K. M. Panikkar và J. M. Romein: Lịch sử Văn minh Nhân loại Thế
kỷ XX. Ấn bản Việt ngữ. Nhà xuất bản Văn hoá – Thông tin, Hà nội 1999. Xin
hãy xem tất cả các chương nói về những thành tựu khoa học (đặc
biệt những phát minh vật lý) trong thế kỷ XX.
16) Dương
Nhất Phàm: Truyền thông Trung quốc tiết lộ những bí mật đầy thống khổ của
Marx những năm cuối đời. Việt Đại Kỷ nguyên, ngày 19 Tháng Sáu 2015 (http://vietdaikynguyen.com/v3/61392-truyen-thong-trung-quoc-dai-luc-tiet-lo-ve-nhung-bi-mat-day-thong-kho-cua-marx-trong-nhung-nam-cuoi-doi/).
17) Tôi
trích dẫn Aristote từ Vũ Quang Việt: Thử tìm hiểu quan niệm về dân chủ, quyền
lực chính trị và cơ sở kinh tế của chúng. Tạp chí Thời đại Mới (http://www.tapchithoidai.org/200401_VQViet.htm).
18) Xin
hãy xem video clip: Ai đã trả tiền cho Lenin? (http://www.dailymotion.com/video/xeyust_ai-da-trả-tiền-cho-lenin_shortfilms).
Ngoài ra, có thể xem thêm: “Ai đã trả tiền cho Lenin?” tại Blog Nguyễn
Thành An (https://nguyenthanhan.wordpress.com/2010/10/05/ai-da-trả-tiền-cho-lenin/).
19) Simon
Sebag Montefiore: Quái vật mang tên Karl Marx. Talawas (http://vcomtech.net/xahoi/nhanvat/nguyentruong/quaivatmangtenmarx.html).
Xin hãy xem thêm thông tin về Quần đảo Gulag tại Bách
khoa Toàn thư Mở bằng Việt ngữ (https://vi.wikipedia.org/wiki/
Quần_đảo_Gulag).
20) Grant
Evans – Kelvin Rowley: Cuộc chiến tranh giữa những người anh em đỏ – Chân
lý thuộc về ai?. Bản dịch Việt ngữ. Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà nội
1986. Có thể tìm thấy bản dịch này trên Internet (http://reds.vn/index.php/thu-vien/tu-lieu/1446-red-brotherhood-at-war).
Dù lập luận thế nào tác phẩm này cũng phát lộ một sự thật hiển nhiên: chân lý không
thuộc về phong trào cộng sản mà chỉ thuộc về các lực lượng dân
chủ.
21) Xem
chú thích 3.
22) Về tên
gọi cho tôn giáo này, tôi xin giải thích rõ ràng hơn như sau: vì Kinh
thánh nói Chúa ở mọi nơi vào mọi lúc nên Christianity trong Anh
văn hoặc nguyên gốc latin cần phải được chuyển dịch
sang Việt ngữ thành Chúa giáo mới thật
sát nghĩa, nếu chuyển dịch Christianity thành Thiên Chúa giáo thì
“Thiên Chúa giáo” không thể hiện được hết ý nghĩa đích thực cho
Christianity; vì Thiên Chúa chỉ có nghĩa làChúa Trời nên
danh xưng này dễ làm cho người ta hiểu sai rằng Chúa
chỉ có ở trên Trời, hiểu như vậy rất sai lạc so với Kinh thánh. Tức là
trong quan hệ ý nghĩa với Christianity, Chúa giáo sát
nghĩa hơn nhiều so với Thiên Chúa giáo: nếu Thiên Chúa giáo chỉ
cho thấy Chúa ở trên Trời thì Chúa giáo lại phải cho thấy Chúa
ở mọi nơi vào mọi lúc (cả trên Trời lẫn dưới
Đất, cả trong Ta lẫn ngoài Ta, cả Không
gianlẫn Thời gian, v. v.). Đó chính là lý
do thực tế để tôi chỉ nói Chúa giáo mà không nói Thiên
Chúa giáo nhưnhiều người vẫn nói sai như vậy, nói như vậy vừa sai
lạc vừa dài dòng, thừa chữ nhưng thiếu
nghĩa.
23) A.
De Tocqueville đã giải thích được tại sao cách mạng dân chủ xảy ra trước hết ở
các nước nào theo Chúa giáo (Alexis De Tocqueville: De la Démocratie en
Amérique. G. F. Flammarion, 1981. Bản dịch Việt ngữ được thực hiện bởi Phạm
Toàn: Nền Dân trị ở Mỹ. Nhà xuất bản Tri thức, Hà nội 2013. Phần
III, từ trang 469 đến trang 557). F. A. von Hayek đã chứng minh được rằng chủ
nghĩa cá nhân, vốn phải làm nền tảng tinh thần cho chính thể dân chủ, chỉ có thể
xuất sinh từ chính Chúa giáo (Friedrich August von Hayek: The Road To
Serfdom (Con đường Dẫn đến Nô lệ). Bản dịch Việt ngữ được thực hiện bởi
Phạm Nguyên Trường: Đường Về Nô lệ. Nhà xuất bản Tri thức, Hà nội
2008. Trang 71).
24) Albert
Einstein: Thế giới như tôi thấy. Việt ngữ. Nhà xuất bản Tri thức,
Hà nội 2011. Từ trang 20 đến trang 23. A. Einstein viết tiểu luận này tại
Berlin vào năm 1930 khi đã nhận thấy được rõ ràng hệ quả tai hại
từ chế độ độc tài ở Ý và Nga, trước cả Friedrich
August von Hayek phải mãi đến thập niên 1940 mới nhận
thấy được sự tương đồng tự nhiên giữa chế độ soviet với chế
độ fascist (xin hãy xem: “The Road To Serfdom” được viết bởi F.
A. Hayek. Việt ngữ: Đường về Nô lệ. Nhà xuất bản Tri thức, Hà nội
2008).
25) Jean
– Jacques Rousseau đã từng đả kích kịch liệt Chúa giáo bằng những lời lẽ cay
nghiệt như sau: “Chúng ta sẽ tự đánh lừa khi nói về nền Cộng hòa Chúa giáo. Hai
từ “nền Cộng hòa” và “Chúa giáo” loại
trừ lẫn nhau. Chúa giáo chỉ chuyên truyền dạy tính nô lệ và phụ thuộc. Tư
tưởng Chúa giáo rất thuận với chế độ độc tài. Các tín đồ Chúa giáo (Christians) sinh
ra để bị nô dịch; họ biết vậy mà không hề mủi lòng,vì cuộc sống
ngắn ngủi trên đời này đối với họ không giá trị gì cho lắm” (Jean – Jacques
Rousseau: Du Contrat Social. Genève 1762. Bản dịch Việt ngữ được thực
hiện bởi Thanh Đạm: Bàn về Khế ước Xã hội. Nhà xuất bản Thành phố Hồ
Chí Minh, Sài gòn 1992. Trang 193. Nhà xuất bản Lý luận Chính trị trực thuộc Học
viện Chính trị Quốc gia tại Hà nội cũng đã tái xuất bản bản dịch này vào năm
2006. Từ trang 239 đến trang 240 (nên xem lại cả Chương VIII trong Quyển
Bốn từ trang 229 đến trang 243). Việc đả kích kịch liệt Chúa giáo bằng
những lời lẽ cay nghiệt như vậy đã gây nên những hậu quả tai ác cho nước
Pháp từ cuối thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX thể
hiện qua những biến động dữ dội, như Cách mạng 1789 – 1794, Chiến
tranh Âu châu được gây ra bởi Napoléon Bonapartes (1769
– 1821) sau khi khôi phục nền chuyên chế phong kiến cho nước Pháp vào năm 1799, Cách
mạng Tháng Bảy 1830, Cách mạng Tháng Hai 1848, Công xã
Paris 1871, v. v., khiến nước Pháp đổ máu quá nhiều. Sau những
biến động đó, nước Pháp vội vã khôi phục vai trò chính đáng cho Chúa giáo, đa số
trí thức bắt đầu từ bỏ J. J. Rousseau để quay trở về với Chúa bằng một sự thức
tỉnh cần thiết.
Nguồn: https://www.danluan.org/tin-tuc/20150814/ha-huy-toan-chu-nghia-marx