Brian Z.Tamanaha, St. John’s
University – School of Law
Lê Duy chuyển
ngữ
Cho tới tận bây giờ, những cuộc
tranh cãi về chủ đề “pháp quyền” vẫn còn đang nảy lửa. Chủ yếu, các nhà học giả
cũng như các nhà hoạch định chính sách vẫn còn có những ý kiến khác nhau về định
nghĩa của từ pháp quyền, các nhân tố hoặc những yêu cầu của nó, lợi ích mà nó
mang lại cũng như những giới hạn, liệu nó có phải là điều tốt mọi lúc, mọi nơi
và còn nhiều những câu hỏi phức tạp khác. Đây là những vấn đề rất cơ bản và nền
tảng, tuy nhiên chúng có thể gây ra lung túng cho những người không phải là
chuyên gia mà muốn nắm được những hiểu biết cơ bản về khái niệm quan trọng này.
Bài viết này sẽ cung cấp một cái nhìn tổng quát về các khía cạnh của pháp quyền. Tuy
nhiên, đây không thể xem là một tài liệu đầy đủ và cũng không thể trả lời hết
những câu hỏi khó về pháp quyền, do đó chúng ta sẽ không bàn về bất cứ tranh
cãi mang tính triết học cũng như lý thuyết về pháp quyền trong bài này. Thay
vào đó, bài nghiên cứu là một dẫn nhập có tính thực tiễn, giải quyết những vấn
đề rất cơ bản, hướng tới những hoàn cảnh và mối quan tâm của các xã hội đang
phát triển pháp quyền. Những chủ đề thảo luận sẽ được trình bày theo thứ tự
sau: Định nghĩa, các chức năng, những lợi ích, các nhân tố. Một vài
điểm quan trọng sẽ được trình bày ở mỗi chủ đề trên, theo sau là một số nhận xét
phụ về những giới hạn và các mối lo ngại. Sau khi trình bày hết những chủ
đề này sẽ có một đoạn giới thiệu ngắn gọn về tại sao một số khái niệm nhất định
thường gắn bó với pháp quyền không được nhắc đến. Sau cùng sẽ kết thúc bằng một
vài lý do để chúng ta phải cẩn trọng về pháp quyền. Như dẫn nhập, tính hữu dụng
của bài nghiên cứu này hi vọng là sẽ làm độc giả hài lòng mà không cảm thấy
nhàm chán với sự đơn giản hóa các khái niệm cũng như thiếu đi các sắc thái cảm
xúc của bài viết.
Định nghĩa hẹp về pháp quyền
Ngay tại cái gốc, vấn đề cốt lõi
của pháp quyền, là nó yêu cầu các quan chức nhà nước cũng như toàn bộ công dân
phải bó buộc và hành xử phù hợp với pháp luật. Yêu cầu cơ bản này mang tới một
số các đặc điểm tối thiểu như sau: luật pháp phải được lập ra trước, được công
bố cho toàn dân, phải tổng quát, rõ ràng, ổn định và chắc chắn, và phải được áp
dụng đối với tất cả những ai phù hợp với các thuật ngữ của nó. Nếu thiếu vắng bất
cứ một đặc điểm này, pháp quyền sẽ không còn là pháp quyền nữa.
Đây là định nghĩa “chính thức”
hay định nghĩa “hẹp” về pháp quyền. Những định nghĩa lớn lao hay “rộng hơn” về
pháp quyền cũng tồn tại và nó có thể bao gồm việc xem xét tới những quyền cơ bản,
dân chủ, những tiêu chí của công bằng hay lẽ phải. Định nghĩa hẹp được sử dụng ở
đây bởi vì nó gói gọn mọi đặc điểm cơ bản chung mà hầu như tất cả những định
nghĩa hiện có về pháp quyền đều có. Định nghĩa này có thể dùng ở phổ rộng đối với
các hệ thống cũng như xã hội khác nhau.
Hai Chức năng của
pháp quyền, cùng với những vấn đề khác
1. Một trong hai Chức
năng của pháp quyền là Áp đặt những giới hạn pháp lý đối với
các quan chức chính phủ, qua hai cách: A) Tuân thủ pháp luật hiện hành; và
B) Áp đặt những giới hạn pháp lý lên quyền lập pháp.
Từ xưa tới nay, chúng ta luôn có
một nỗi sợ về sự đàn áp vô tội vạ bởi vua chúa cũng như bởi chính phủ. Pháp quyền
đáp lại mối lo ngại này bằng việc áp đặt những giới hạn lên các quan chức nhà
nước.
Loại giới hạn pháp lý đầu tiên là nhân
viên chính phủ phải tuân thủ luật pháp hiện hành tại bất cứ thời điểm nào trong
bất cứ một hành động nào được đưa ra xem xét. Việc giới hạn đầu tiên này có
hai khía cạnh: hành động của nhà nước phải có sự cho phép hợp pháp (thiếu đi sự
cho phép này thì hành động trên được xem là không thỏa đáng); và không một hành
động nào của chính phủ có thể mâu thuẫn với sự ngăn cấm hay giới hạn pháp lý
nào đó. Mặc dù khía cạnh thứ nhất có thể có ngoại lệ hoặc có tính linh động,
nhưng khía cạnh thứ hai thì không. Nếu nhân viên chính phủ muốn theo đuổi một
hành động mà vi phạm luật pháp hiện hành thì luật pháp phải được thay đổi tuân
theo những thủ tục pháp lý trước khi hành động trên có thể được thực hiện.
Vấn đề nền tảng với loại giới hạn
đầu tiên này là sự thi hành luật pháp. Nó đòi hỏi chính phủ phải tự trói buộc
chính họ. Hobbes xem đây là một điều không thể cả về mặt logic cũng như mặt thực
dụng, “nếu như bạn bị giới hạn bởi chính bạn thì có nghĩa là bạn không bị giới
hạn”3. Giải pháp cho vấn đề này nằm ở sự riêng biệt của các cơ quan
chính phủ, và bằng việc phân biệt rõ giữa người thuộc chính phủ với ban phòng
mà người đó làm việc. Do đó, các nhân viên chính phủ không giới hạn bản thân họ,
mà thay vào đó là một mô hình những thành viên của bộ phận này trong chính phủ
giới hạn những thành viên của bộ phận khác.
Loại giới hạn thứ hai được áp
đặt ngay lên bản thân luật pháp, dựng lên những bức tường giới hạn đối với quyền
lập pháp của chính phủ. Theo loại giới hạn thứ hai này, một số hành động bị
cấm không thể được phép hợp pháp hóa, thậm chí ngay cả cơ quan lập pháp cũng
không được. Những giới hạn pháp lý loại này được vượt lên trên (kiểm soát) mọi
kiểu lập pháp thông thường. Những ví dụ thường thấy nhất thuộc loại này gồm: 1)
những giới hạn bị áp đặt bởi hiến pháp; 2) những giới hạn pháp lý đa quốc gia
hoặc quốc tế; 3) những giới hạn tới từ quyền con người; 4) những giới hạn từ
tôn giáo và các quyền căn bản. Bằng những cách và nghĩa khác nhau, những kiểu
luật lệ này vượt lên trên và áp đặt lên việc lập pháp thông thường.
Hai loại giới hạn đầu tiên vừa được
mô tả ở trên có chung một điểm, đó là những giới hạn mà chúng áp đặt có thể được
thay đổi bởi những cơ quan pháp lý, tuy nhiên chúng có điểm khác biệt là việc
thay đổi thường không thể tạo ra trong một quá trình thông thường bởi chính
chính phủ bị giới hạn đó áp đặt lên. Những giới hạn từ hiến pháp hoặc do các
công ước quốc tế thường khó bị thay đổi bởi vì những ngưỡng cao hơn phải được
vượt qua hay những thay đổi phải được thực hiện bởi một cơ quan lập pháp khác.
Ví dụ, các tu chính án hiến pháp có thể đòi hỏi một số phiếu siêu đa số (2/3 hoặc
3/5) trong khi những việc lập pháp thông thường khác chỉ yêu cầu đa số đơn thuần.
Hoặc là tu chính án phải được thực hiện bởi một cơ quan đặc biệt với một sắc lệnh
hiến pháp. Những thay đổi trong các công ước quốc tế cần phải được thực hiện bởi
các cơ quan quốc tế, và do đó vượt ra khỏi quyền hạn của bất kỳ một chính quyền
nào. Những rào cản này nâng cao tính hiệu quả của các giới hạn pháp lý.
Trái lại, loại giới hạn thứ ba và
thứ tư thường được hiểu là vượt lên trên mọi cơ quan pháp luật của một nước hay
thậm chí cả thế giới. Những bản tuyên ngôn nhân quyền trong khi được đề cập
chính thức đã được luật pháp xác thực xem như tồn tại trước hoặc bên ngoài những
văn kiện đề cập về chúng, do đó những tuyên ngôn này sống sót được thậm chí
ngay cả khi những văn kiện đó bị thay đổi hay xóa bỏ. Những quy luật tự nhiên
hay tôn giáo tương tự được xem như tồn tại độc lập với mọi cơ quan lập pháp của
con người (tuy là nhà chùa hay nhà thờ có thể tác động vào các quy tắc tôn
giáo). Với đặc tính này, những quy luật tự nhiên hay quy tắc tôn giáo thiết lập
những giới hạn lên luật pháp nhà nước mà không một chính phủ hay cơ quan lập
pháp nào có thể thay đổi.
Một vài vấn đề liên đới khác thường
xuất hiện đối với loại giới hạn pháp lý thứ hai này. Chúng gây ra nhiều tranh
cãi vì những rắc rối mà chúng gây ra cho các quan chức chính phủ trong lúc họ
thực thi nhiệm vụ. Chúng ta có thể điểm qua những vấn đề sau:
* Trong những xã hội dân chủ, sự
gạt bỏ hoặc giới hạn việc lập pháp dân chủ là một điều khó chấp nhận; đối với
các chính quyền độc đoán, việc này cản trở cơ quan hành luật trong việc sử dụng
luật pháp. Trong cả hai trường hợp, khi có một động lực đủ lớn thì chính phủ sẽ
tìm cách đi vòng hoặc bỏ qua những giới hạn pháp lý cấp trên
này.
* Những câu hỏi rất khó sẽ
xuất hiện đối với phạm vi, ý nghĩa và cách áp dụng những giới hạn pháp lý này
vào thực tế.
* Một vấn đề cực kỳ quan trọng đó
là việc quy định một cơ quan hay một người có tiếng nói quyết định đối với những
giới hạn này – thường là tòa án, nhưng không nhất thiết phải như vậy. Trong lý
thuyết, cơ quan diễn giải những giới hạn pháp lý không nên trao cho cùng một cơ
quan có quyền lập pháp, vì điều đó có thể dẫn tới việc những giới hạn này bị hiểu
sai. Khi sức mạnh này được trao cho tòa án, và các điều khoản được diễn giải
không có giới hạn và những quyết định có sự ảnh hưởng chính trị, việc phản
đối có thể gia tăng rằng các tòa án đang tham gia luật hóa chính trị cho đến
khi quyết định của họ bị hạn chế hoặc làm họ quan trọng hơn các cơ quan chính
trị khác.
* Song song với loại giới hạn đầu
tiên được nói ở trên, một vấn đề cũng quan trọng không kém là liệu những giới hạn
được áp đặt bởi những quyết định này có thể có hiệu lực hay không. Vấn đề này
xuất hiện bởi vì luật pháp tạo ra giới hạn lên sức mạnh lập pháp của chính phủ.
Khi mà những giới hạn này là nội tại đối với hệ thống pháp luật – ví dụ như những
giới hạn tới từ hiến pháp chẳng hạn – thì sự phân lập chức năng được trình bày ở
trên có thể giải quyết vấn đề. Khi mà những giới hạn đó tới từ bên ngoài – ví dụ
như các công ước quốc tế, nhân quyền, quy luật tự nhiên, giới hạn tôn giáo –
thì sự hợp tác của chính phủ bị giới hạn cần phải được đảm bảo, có thể là tự
nguyện hoặc thông qua quá trình đe dọa trừng phạt. Những chuẩn mực
về nhân quyền hay tôn giáo xuất hiện để đối trọng lại với thực tế là chính phủ
có thể phớt lờ những giới hạn của chúng mà không phải chịu trừng phạt.
2. Chức năng thứ hai của pháp quyền
là Duy trì trật tự và hành vi hợp tác cũng như giải quyết các vấn đề giữa
dân chúng với nhau.
Khía cạnh này của pháp quyền tạo
nên nền tảng của pháp luật chi phối những hành vi xã hội. Nhân dân phải cư xử
tuân thủ theo pháp luật. Mọi sự vượt quá giới hạn của pháp luật hay những gián
đoạn xã hội – dù được đối xử như tội phạm hình sự hay dân sự (mỗi xã hội thì có
một định nghĩa khác nhau) cũng buộc sẽ dẫn tới một phúc đáp từ cơ quan pháp lý
bắt người đó phải thực thi những yêu cầu pháp lý và giải quyết những tranh cãi phù
hợp với những chuẩn mực pháp lý.
Để thỏa mãn chức năng thứ hai này
không cần phải bắt buộc toàn bộ những hành vi trong xã hội phải tuân thủ theo
luật pháp. Điều này là không thể và cũng không phải là điều chúng ta muốn. Rất
nhiều những trật tự chuẩn mực tồn tại bên trong mỗi xã hội, gồm có những phong
tục, tập quán, quy tắc đạo đức, quy tắc tôn giáo, gia quy, quan định và còn nhiều
những luật bất thành văn khác nữa trong cuộc sống thường nhật. Thỉnh thoảng, những
lề thói này chồng chéo lên nhau, nhưng thông thường thì chúng khác nhau về các
mặt định hướng, sự mở rộng, quy mô, mức độ, và hiệu quả. Sự hiện diện, quy mô
cũng như mức độ của pháp luật nhà nước thay đổi theo xã hội hay vùng miền. Một
vài xã hội hay vùng miền bị thống trị chặt chẽ bởi luật pháp, đó là những xã hội
mà các mâu thuẫn đã được giải quyết thông qua các cơ quan pháp lý trong đó các
cơ quan này đã có quá trình phát triển tốt. Ở những xã hội hay vùng miền khác,
pháp luật nhà nước chỉ có một chức năng hạn chế hoặc không đáng kể
trong việc sắp xếp trật tự xã hội – thường xảy ra khi luật nhà nước ở đây tương
đối yếu – và những mâu thuẫn được giải quyết chủ yếu thông qua các tổ chức xã hội.
Để phù hợp với pháp quyền, luật pháp không cần phải bao quát mọi thứ, nhưng những
loại luật pháp bao quát phải gắn liền với quyền lợi chung của công dân.
Những lợi ích chính của pháp quyền
và các vấn đề liên quan đến mỗi lợi ích
1. Cải thiện Độ chắc chắn,
Khẳ năng đoán trước, và Sự an toàn trên Hai Vũ Đài: Giữa công dân và
chính quyền (theo chiều dọc) và giữa công dân với nhau (theo chiều ngang).
Với sự lưu tâm tới chính phủ, mỗi
công dân thừa hưởng lợi ích từ việc được biết trước việc chính phủ sẽ phản ứng
thế nào đối với hành động của mình. Đây là một khía cạnh rất quan trọng của tự
do, khi công dân biết tất cả những hành động mình có thể làm được mà không sợ bị
chính quyền can thiệp hay ngăn cản. Bất kể điều gì không bị cấm đoán bởi luật
pháp thì đều có thể thực hiện mà không phải lo ngại điều gì. Thiếu đi sự đảm bảo
này, con người sẽ luôn luôn hành động một cách liều lĩnh.
Mặc dù khả đoán trước là điều rất
nghiêm trọng đối với sự tự do, nhưng điều quan trọng là nhận ra rằng lợi ích
này chính nó cũng không đảm bảo cho các công dân bất kỳ một hành động tự do
nào. Quy mô của hành động được cho phép có thể rất hẹp hoặc bị áp chế nhưng vẫn
tuân thủ với pháp quyền theo nghĩa hẹp đã được định nghĩa ở lúc đầu.
Với sự lưu tâm tới người khác,
người dân có thể tương tác với nhau và biết trước rằng luật pháp được áp dụng
vào hành động của họ có mang đến rắc rối hay không. Sự tiên đoán đó làm cho họ
có nhiều sự lựa chọn hơn và cam kết cư xử tốt hơn với nhau. Điều này bao gồm
hành động một cách chuẩn mực về sự quan tâm và trách nhiệm khi tương tác với
người khác hoặc với tài sản của họ, và cả ngay trong khi tương tác với những
người lạ mặt hoặc quen biết thông thường.
Khi đánh giá lợi ích theo chiều dọc
cũng như theo chiều ngang vừa mới được mô tả ở trên, điều quan trọng cần phải
nhớ rằng cả hai lợi ích trên đều mặc định một kiến thức chắc chắn và khả năng
thấy trước được việc luật pháp tác động lên một phần của các công dân. Tuy
nhiên trong thực tế, công dân không có đủ hiểu biết về luật pháp hoặc không
quan tâm suy nghĩ về nó trước khi họ hành động.
2. Giới hạn sự lộng hành của
Quan chức Nhà nước, Giảm thiểu sự cố ý cũng như tự ý.
Một mối lo ngại chung của công dân
là quan chức nhà nước trong khi làm nhiệm vụ có thể bị ảnh hưởng một cách không
thể chấp nhận được từ một sự lưu tâm không thích đáng – vì định kiến, vì sự bộc
phát, vì sự tự ý, vì cảm xúc mạnh, hay vì bất cứ một lý do nào mà làm sai lệnh
đi khả năng đưa ra quyết định cũng như hành động của con người. Pháp quyền giới
hạn những yếu tố này bằng cách áp đặt cho quan chức nhà nước nguyên tắc phải thực
thi tuân thủ và phù hợp với những luật lệ pháp lý. Luật pháp thực thi theo hai
cách để đạt được điều này. Đầu tiên, quan chức nhà nước cần phải tham vấn và
tuân theo pháp luật trước khi và trong khi hành động. Thứ hai, luật pháp cung cấp
cho toàn dân những yêu cầu và chuẩn mực hiện hành mà có thể dùng để ngăn cản
quan chức nhà nước đang hoặc sau khi thi hành nhiệm vụ.
Trong nhiều hoàn cảnh, hậu quả
chính tới từ lợi ích thứ hai này, các nhân viên nhà nước cần phải thực hiện nhiệm
vụ mà không thể tuân thủ theo pháp luật để có thể đạt được kết quả tốt hơn. Những
luật lệ mang tính tổng quan không thể nhìn thấy hết được mọi khả năng cũng như
tình huống trong thực tế, và chúng cũng có thể trở nên lỗi thời khi quan điểm
cũng như tình hình xã hội thay đổi. Sự áp dụng của luật pháp hiện hành vào một
hoàn cảnh chưa được tiên đoán hoặc vào một tình thế bị thay đổi có thể gây nguy
hiểm cũng như những hậu quả không công bằng hoặc dẫn tới những hệ lụy xã hội
không ai mong muốn. Trong những tình huống đó, cho phép những người thực thi
nhiệm vụ được sử dụng kiến thức, chuyên môn, hoặc phán đoán của họ để có thể
đưa ra kết quả tốt hơn là ép buộc họ tuân thủ theo pháp luật. Hơn nữa, trong một
số trường hợp, việc khăng khăng tuân thủ theo pháp luật có thể gia tăng mâu thuẫn,
trong khi sự thỏa hiệp mà vi phạm pháp luật có thể đạt được một sự đồng thuận.
Khi đối mặt với những tình huống kiểu này hoặc nhiều kiểu khác, tuân thủ theo
pháp quyền có thể gây ra điều tệ hại. Tiềm ẩn đằng sau lợi ích này của pháp quyền
là mối lo đối với sự lạm dụng tiềm tàng trong tay của các quan chức nhà nước,
nhưng mọi chính thể muốn tồn tại được phải cho phép ở một mức độ nào đó niềm
tin và sự tự do ra quyết định của họ.
3. Một trật tự xã hội yên ổn được
duy trì thông qua luật pháp
Một trật tự xã hội yên ổn được
đánh dấu bởi sự biến mất của bạo lực thường xuyên, và sự yên tâm về môi trường
sống xung quanh ở một mức độ đáng kể. Đây là những điều kiện tối thiểu cần thiết
đối với một chính thể xã hội có thể tồn tại được.
Mối quan hệ giữa trật tự xã hội với
luật pháp rất phức tạp và có tính biến đổi cao. Cân lưu tâm rằng luật pháp được
ghi trong sách không nhất thiết tương ứng hoặc phản ánh đúng hay duy trì được
trật tự xã hội (hoặc không phải lúc nào các nhân viên và cơ quan pháp lý cũng
luôn luôn thực hiện luật pháp được ghi trong sách). Hơn nữa, phần lớn trên các
vũ đài xã hội, phong tục tập quán định hình mạnh mẽ và kiểm soát những thứ xảy
ra hàng ngày; những hành động tuân theo pháp luật có thể chẳng liên quan mấy tới
hàng tá các hành động trong xã hội. Vì những lý do này cho nên không được mặc định
rằng luật pháp là nguồn gốc chính của trật tự xã hội.
Thêm nữa, luật pháp cũng như các
cơ quan pháp lý có thể áp đặt hoặc trấn áp những trật tự xã hội như trong các
xã hội chuyên chế. Mặc dù những loại xã hội đó không có bạo lực thường xuyên,
và do đó được xem như là “yên ổn” và có sự ổn định, nhưng trật tự xã hội vẫn có
thể phải chịu đựng sự cấm đoán không thể chấp nhận được.
Hai trường hợp khá hóc búa cần phải
được xem xét. Khi luật pháp đã được mang về từ một nơi nào đó để áp
dụng – có thể là bị áp đặt hoặc là tự mượn về – những chuẩn mực xã hội và chuẩn
mực pháp lý đó có thể mâu thuẫn với nhau, phản ảnh sự khác nhau về xã hội, văn
hóa hoặc các quan điểm về đạo đức. Một mâu thuẫn nữa cũng có thể xảy ra đó là
khi một xã hội bao gồm những nhóm khác biệt với nhau (về văn hóa, dân tộc, tôn
giáo) mà luật pháp thì lại chỉ đại diện cho một nhóm. Trong cả hai trường hợp
trên, những chuẩn mực và giá trị của luật pháp sẽ không trùng khớp với những
chuẩn mực và giá trị của nhiều công dân. Trong một vài hoàn cảnh (thường là hậu
thuộc địa), ngôn ngữ của pháp luật thường khác với thổ ngữ của những nhóm trong
xã hội này, điều này làm gia tăng mâu thuẫn và họ thường nhìn luật pháp với anh
mắt lạ lẫm và khó hiểu. Trong nhiều trường hợp như thế này, luật pháp chỉ đóng
vai trò rất yếu đối với việc bảo đảm trật tự xã hội.
4. Sự phát triển
kinh tế được hỗ trợ bởi Tính ổn định, Tính dự đoán trước, và Tính an
toàn, bởi hai lý do cơ bản.
Như đã trình bày ở phần đầu, pháp
quyền cải thiện tính ổn định, tính dễ đoán trước, và tính an toàn. Ngoài việc
nâng cao tự do, nhiều người cho rằng các nền kinh tế thị trường hưởng thành quả
từ những tính chất ở trên thông qua hai điểm khác nhau: điểm thứ nhất liên quan
tới sự giao kèo và điểm thứ hai liên quan tới tài sản.
Đầu tiên, những cá thể kinh tế có
thể dự đoán tốt hơn những chi phí và lợi ích của những thương vụ trong tương
lai, điều này giúp họ đưa ra những quyết định hiệu quả hơn. Một người có thể cảm
thấy yên tâm hơn khi thực hiện một bản hợp đồng cho họ những sự đảm bảo khi mà
đối tác không thực hiện đúng cam kết thì sẽ phải chịu trách nhiệm theo những gì
hợp đồng đã nêu ra. Việc này khích lệ việc làm ăn với những người lạ từ xa và
thúc đẩy phạm vi cũng như tần suất các vụ buôn bán dẫn tới sự tăng trưởng kinh
tế.
Thứ hai, sự đảm bảo quyền tài sản
(cũng như con người) được đảm bảo bởi luật pháp, mang lại cho người dân sự yên
tâm rằng hoa quả do họ làm ra sẽ được bảo vệ khỏi sự chiếm đoạt của người khác.
Sự đảm bảo này giải phóng người lao động khỏi việc mất thời gian và công sức
cho việc bảo vệ tài sản mà thay vào đó tập trung hơn cho việc sản xuất cũng như
thừa hưởng thành quả của mình.
Những lợi ích kinh tế này được
pháp quyền đảm bảo và xác định trong mối liên hệ với chủ nghĩa tư bản ở mức độ
địa phương cũng như toàn cầu. Mỗi người trong chúng ta cần phải xem xét cả luật
pháp và mối quan hệ giữa luật pháp với hệ thống trao đổi kinh tế trong trường hợp
cho trước để có thể xác định được là liệu những nhận xét này đúng hay sai và nếu
đúng thì đúng tới mức nào. Khi mà luật pháp và những cơ quan pháp lý đã lỗi
thời, không hiệu quả, tốn kém, hoặc không tin cậy, những vụ buôn bán và sự phát
triển kinh tế có thể bị ngăn cản bởi hệ thống pháp luật, và những cá thể kinh tế
có thể muốn sử dụng những cơ quan khác khi gặp phải mâu thuẫn, tránh khỏi đụng
chạm tới pháp luật một cách triệt để. Hơn nữa, trong một vài trường hợp, một số
cơ chế khác như nguyên tắc trong thương thảo hoặc mối quan hệ xã hội, làm ăn
lâu dài có thể tạo điều kiện hiệu quả cho việc dự đoán và an toàn đối với những
thương vụ, làm cho luật pháp trở nên thứ yếu hoặc không cần tới.
5. Nền tảng của
sự công bằng đòi hỏi luật pháp phải được áp dụng một cách bình đẳng đối
với tất cả mọi người theo như điều lệ của nó.
Sự bình đẳng trong việc áp dụng
luật pháp – một khía cạnh của pháp quyền – là một thành tố cơ bản của sự công bằng.
Dưới pháp luật, vua chúa đều phải được đối xử như thường dân và việc chức vụ của
một ai đó có ảnh hưởng tới việc phán xét họ luôn được xem như một sự bất công.
Không ai được phép ưu ái hay đối xử bất công trước pháp luật. Yêu cầu này không
ngăn cản pháp luật khỏi việc đưa ra những sự khác biệt đối với người hoặc nhóm
người, ví dụ như trong những hệ thống pháp luật mà có sự phân biệt đối xử nam
và nữ; nó chỉ yêu cầu luật pháp được áp dụng tuân theo các điều luật của nó mà
không quan tâm tới ai đang liên quan (bất kể đó là tổng thống hay dân thường,
ngôi sao hay người bình thường, giàu hay nghèo).
Khía cạnh thiết yếu này của sự
công bằng có thể có những hệ lụy, đặc biệt là trong những trường hợp chứa đựng
những sự bất bình đẳng xã hội đáng kể. Áp dụng luật pháp công bằng với tất cả mọi
người theo các điều khoản đã được quy định có thể có những hậu quả đến từ một
phía hoặc duy trì mãi mãi một trật tự xã hội bất công. Ví dụ, một luật pháp cấm
đoán người giàu và người nghèo không được ngủ trên ghế ở công viên được xem như
là áp dụng công bằng đối với tất cả mọi người nhưng nó sẽ mang tới những hệ quả
tồi tệ đối với những người nghèo.
Những thành
tố cơ bản trong việc thiết lập nền tảng pháp quyền và những vấn đề tương ứng
1. Chia sẻ định hướng rộng rãi
trong xã hội – giữa các công dân với quan chức nhà nước – rằng Luật pháp thực sự
thống trị và nên thống trị.
Để pháp quyền được tồn tại, mọi
người cần tin tưởng vào nó và tuân thủ nó. Họ cần xem đó như là một bộ phận tồn
tại cần thiết, hợp lý trong hệ thống pháp lý – chính trị của họ. Thái độ này bản
thân nó không phải là một điều luật. Nó là một quan niệm chính trị chung được
thêm vào trong hệ thống tín ngưỡng văn hóa. Khi niềm tin này được phổ biến,
pháp quyền có thể có sức bật và sống sót qua nhiều thế hệ, vượt qua được cả sự
miệt thị của các quan chức nhà nước. Tuy nhiên, khi mà niềm tin này không được
phổ biến thì phá quyền có thể trở nên rất yếu và gần như không có tiếng nói.
Tín ngưỡng là những đối tượng
không được xếp vào sự kiểm soát của con người, cho nên việc in sâu pháp quyền
vào tín ngưỡng khi mà nó chưa tồn tại ở trong đó là một điều rất khó khăn. Một
vấn đề đó là trong nhiều xã hội, chính phủ không được tin tưởng và luật pháp
làm cho người dân sợ hãi và tránh xa. Điều này thường xảy ra trong những xã hội
nơi mà luật pháp đã có một quá trình lịch sử dài hoặc ngắn trong việc áp chế
chuyên quyền, hoặc là trong những xã hội mà quan chức nhà nước thường bị xem là
tham nhũng và yếu kém, hoặc cũng có thể ở trong những xã hội luật pháp bị xem
như không công bằng hoặc chỉ là dành cho một nhóm người ở tầng lớp thượng lưu.
Trong những trường hợp mà luật pháp và hệ thống pháp lý đã được chuyển giao từ
một nơi nào đó khác – như đã được nói ở trên, thì nhiều người sẽ không đồng cảm
với (thậm không không thèm đếm xỉa tới) luật pháp, làm cho việc phát triển định
hướng văn hóa trở nên khó khăn hơn, dù chẳng có thể thay đổi theo thời gian.
Hơn nữa, khi mà một xã hội bao gồm nhiều sự khác biệt văn hóa, tôn giáo, hoặc
các nhóm dân tộc mà luật pháp nơi đó chỉ áp dụng cho một nhóm người thì những
nhóm khác có thể xem luật pháp khi đó như một mối đe dọa, và thường thì họ sẽ
không thích thú với ý tưởng rằng luật pháp nên thống trị.
Đây là một thành tố thiết yếu của
pháp quyền, nhưng nó lại là điều khó khăn nhất để đạt được. Trên hết tất cả, để
niềm tin này được tồn tại thì người dân cần đồng cảm với luật pháp và xem nó
như là một thứ xứng đáng để thống trị. Niềm tin vào pháp luật của đại đa số
không dễ mà có, và nó đòi hỏi nhiều thời gian để trở thành những gì được xem là
tương đương với cách nhìn văn hóa về luật thông qua xã hội hóa.
2. Sự hiện diện của một bộ máy tư
pháp [tòa án] độc lập
Một bộ máy tư pháp độc lập (còn được
gọi là tòa án độc lập) là một điều cực kỳ quan trọng đối với cả hai chức năng của
pháp quyền: đó là phương thức quan trọng để gắn kết quan chức nhà nước với pháp
luật (theo chiều dọc) và để giải quyết những mẫu thuẫn giữa công dân với nhau
(theo chiều ngang). Phân xử giữa các cá nhân cũng như các nhóm người cần phải
cam kết với việc hiểu cũng như áp dụng luật pháp đối với tất cả mọi người (cả
quan chức nhà nước) dựa theo những điều đã đồng ý, một cách công bằng và không
có thiên vị hoặc tác động từ bên ngoài nào.
Một bộ máy tư pháp độc lập tương
đối rất khó để thành lập cũng như duy trì. Tối thiểu, nó đòi hỏi sự phân bổ đầy
đủ tài nguyên: cơ quan làm việc, nhân viên tài năng, sự truy cập vào tài nguyên
pháp lý, lương bổng hợp lý, và sự đảm bảo công việc. Bời vì bộ máy tư pháp thường
không có quyền chỉ đạo trực tiếp vào lực lượng cảnh sát hoặc bất cứ cơ quan thực
thi pháp luật nào, một điều kiện thiết yếu đối với sự độc lập của bộ máy tư
pháp này là những nhân viên nhà nước khác cần phải tôn trọng sự độc lập của họ
và tuân thủ theo lệnh của tòa án. Quay lại thành tố đầu tiên ở trên, để một bộ
máy tư pháp được tồn tại độc lập thì cần phải có văn hóa dân tộc mạnh mẽ rằng
tòa án không nên bị can thiệp và những quyết định pháp lý của họ phải được tuân
thủ. Một bộ máy tư pháp độc lập cũng bị phụ thuộc vào sự tồn tại của nghề pháp
lý cam kết vào việc duy trì luật pháp. Những quan tòa được chiêu mộ từ nghề này
và phải được truyền thụ những giá trị của pháp quyền; nghề này cần phải hỗ trợ
tích cực bộ máy tư pháp và sẵn sàng bảo vệ nó tới cùng khi hệ thống này bị đe dọa.
3. Sự tồn tại của ngành nghề pháp
lý và truyền thống pháp lý mạnh mẽ nhằm cam kết vào việc giữ gìn Pháp quyền.
Một ngành nghề pháp lý và truyền
thống pháp lý mạnh mẽ được phát triển tốt cam kết vào việc giữ gìn
luật pháp là cần thiết vì một vài lý do sau: để phát triển một bộ máy pháp luật
một cách mạch lạc và phù hợp nhằm đạt được tính dễ tiên đoán và tính ổn định
trong pháp luật; để cung cấp dịch vụ pháp lý thiết yếu nhằm đảm bảo sự tuân thủ
theo pháp luật (theo diều dọc lẫn chiều ngang); để bổ sung những vị trí pháp lý
(gồm quản lý, công tốt viên, và quan tòa) với tôn chỉ là luật pháp cần phải thống
trị; và để bảo vệ pháp quyền khi hệ thống này bị đe dọa. Nếu thiếu đi những luật
sư cam kết với luật pháp và pháp quyền thì sẽ không thể có được pháp quyền, vì
kiến thức, hành động, và những sự định hướng của các luật sư chính là những
nhân tố truyền tải luật pháp trong xã hội – họ chính là nhóm người mà những hoạt
động của họ trực tiếp cấu thành nên luật pháp. Xây dựng nghề nghiệp pháp lý và
truyền thống pháp lý mạnh mẽ đòi hỏi một hệ thống giáo dục pháp lý truyền tải
kiến thức pháp luật và in sâu những giá trị pháp lý vào những người mà chúng
đào tạo, và việc này phải thu hút và tái sản xuất những người muốn cam kết vào
luật pháp cũng như phát triển kiến thức pháp luật.
Một vấn đề tiềm tàng đối với
thành tố này tồn tại trong những xã hội – nơi mà chỉ có những người giàu có hoặc
chỉ môt nhóm người được lựa chọn mới được học kiến thức pháp luật hoặc chỉ họ mới
được ngồi vào những chiếc ghế trên chính trường bởi vì điều này gây nên rủi ro
trong việc phát triển và áp dụng luật pháp chỉ để nhằm phục vụ lợi ích của nhóm
người đó bằng sức lực của nhóm người khác. Điều này tạo nên sự bất công trong
pháp luật. Khi đó người dân sẽ hiểu luật pháp một cách lệch lạc và điều này
trái với thành tố đầu tiên, kiềm hãm niềm tin chung về pháp luật nên việc pháp
luật thống trị sẽ trở nên rất khó khăn.
Không có một thành tố nào trong
ba thành tố kể trên dễ dàng đạt được nếu thiếu sót một trong ba nguyên tắc đó,
nhưng tình hình trở nên phức tạp hơn vì mỗi thành tố này lại phụ thuộc vào các
thành tố khác theo nhiều cách khác nhau. Chúng khác biệt nhưng cũng móc ngoặc
vào nhau, và mỗi cái thì lại phụ thuộc vào một kim tự tháp các điều kiện hỗ trợ
từ kinh tế, chính trị, và văn hóa. Đây là những bức tường xã hội, văn hóa và thể
chế của pháp quyền, và chúng không phải hoàn toàn do con người thiết kế và kiểm
soát. Tất cả những điều này làm cho chúng trở nên khó khăn vô cùng trong việc đặt
những thành tố của pháp quyền vào đúng vị trí và lại càng bất khả thi để thực
hiện điều đó một cách nhanh chóng. Có thể phải cần tới một quá trình dài, thậm
chí một vài thế hệ, để: xây dựng niềm tin chung trong lòng người dân rằng pháp
luật thực sự và nên thống trị; xây dựng một bộ máy tư pháp độc lập; và xây dựng
một nghề nghiệp pháp lý cũng như truyền thống pháp lý cam kết vào việc gìn giữ
pháp quyền. Tin tốt đó là khi những điều này xảy ra, tính chất liên kết sẽ làm
cho pháp quyền trở nên tràn đầy nhựa sống.
Những điều
không được đề cập đến trong khía cạnh cốt lõi của pháp quyền
1. Dân chủ là một
cơ chế lựa chọn lãnh đạo. Nhiều xã hội sử dụng các phương thức dân chủ để xác định
xem ai là người có quyền lập pháp (bỏ phiếu cho những nhà lập pháp) và để tạo
ra luật pháp hợp lệ (bỏ phiếu cho những dự luật). Dân chủ cũng đóng vai trò như
là một lý tưởng hợp pháp hóa mà thiết lập một sức mạnh có tính bắt buộc của luật
pháp: bởi vì người dân hoặc các đại diện của họ tạo nên pháp luật (ít nhất theo
lý thuyết là như thế), do đó họ đồng ý và tuân thủ theo pháp luật. Tuy nhiên,
trong định nghĩa hẹp của pháp quyền không hề đòi hỏi phải có dân chủ. Các hệ thống
không dân chủ cũng có thể thỏa mãn được mọi thứ được nêu ra trong Chương này.
2. Quan niệm hẹp về pháp quyền
không áp đặt bất cứ yêu cầu nào với việc lưu ý tới nội dung của
luật pháp. Tính cởi mở này cùng với sự lưu tâm tới nội dung của nó cho phép
pháp quyền có thể phù hợp với mọi kiểu văn hóa, xã hội, và hệ thống chính trị.
Nó không cụ thể hóa loại xã hội nào thì cần phải có loại luật pháp nào; nó cũng
không chỉ ra những giới hạn cụ thể nào đối với pháp luật. Nó chỉ yêu cầu quan
chức nhà nước và người dân tuân thủ và phải hành động phù hợp với pháp luật, bất
kể điều gì luật pháp yêu cầu. Điều này cũng đồng nghĩa với việc những luật lệ
đàn áp hay vô đạo đức cũng có thể được thực thi – ví dụ như áp đặt nô lệ, phân
biết chủng tộc, và phân biệt tôn giáo cũng như đẳng cấp, mà không chạm vào những
yêu cầu của pháp quyền.
3. Những gì trình bày về pháp trị
ở chương này không đòi hỏi nó phải có một chính thể bảo vệ nhân quyền.
Sự thực thi nhân quyền có thể là một khía cạnh của pháp quyền ở tại mỗi một hệ
thống, như đã nói trước đây, tất cả những thành tố được đề cập ở đây có thể được
thiết lập mà không nhất thiết phải bảo vệ nhân quyền.
Một số những học giả đã viết về
pháp quyền bao gồm một hoặc nhiều trong số ba khía cạnh này. Một hướng tiếp cận
hẹp hơn được áp dụng ở đây bởi vì nó đều có chung một cách nhìn và áp dụng được
vào nhiều hệ thống nhất. Nhiều xã hội không muốn đi theo những giá trị tự do và
một số thì không thích dân chủ. Một nhà nước và xã hội có thể phát triển theo định
nghĩa hẹp này của pháp quyền mà không nhất thiết phải áp dụng những sự sắp đặt
chính trị hay những giá trị của của nên tự do dân chủ.
Về nền tảng, pháp quyền chính là
nhân viên nhà nước và công dân hành động phù hợp với những luật lệ. Đây là một
ý tưởng nền tảng với những ngụ ý nhiều sắc thái, những nó không thể giải quyết
mọi vấn đề hay là nơi chứa tất cả mọi thứ có giá trị.
Những lý do để thận trọng về pháp
quyền
Một trong những lý do đó là pháp quyền, như đã trình bày ở trên, không nhất thiết
đòi hỏi dân chủ, hay tôn trọng nhân quyền, hoặc là yêu cầu bất cứ nội dung cụ
thể nào trong pháp luật. Phát triển pháp quyền không thể đảm bảo được rằng luật
pháp hay hệ thống pháp lý đó trở nên tốt hoặc xứng đáng để người dân tuân theo.
Trong trương hợp mà luật pháp tạo cơ hội cho một trật tự chuyên chế, hoặc khi
luật pháp áp đặt những giá trị xa lạ hoặc thù hằn lên dân chúng, hoặc khi luật
pháp được dùng bởi một nhóm người bên trong xã hội để đàn áp nhóm khác thì lúc
đó luật pháp bị xem như một vũ khí đáng sợ. Lòng trung thực đối với pháp quyền
trong những trường hợp này có thể đẩy mạnh việc đàn áp một cách hợp pháp. Cần
nhớ trong đầu rằng pháp quyền là cần thiết nhưng không đủ đề tạo nên một bộ máy
pháp lý công bằng và bình đẳng.
Lý do thứ hai để cảnh giác đó là
sự ủng hộ đối với pháp quyền có thể bao phủ sự ủng hộ đối với quy mô của luật
pháp để vương xa hơn vào lĩnh vực xã hội, kinh tế và chính trị. Điều
ám chỉ lây lan này của pháp luật – thỉnh thoảng được gọi là
the hội thẩm hóa thế giới cuộc sống – không tuân theo bản thân pháp quyền. Để đảm
bảo quan chức nhà nước tuân thủ theo luật pháp và để bảo vệ mọi người tuân thủ
theo pháp luật không hề có ý rằng luật pháp phải hoặc nên thống trị mọi thứ. Mức
độ phù hợp của luật pháp chỉ có thể được xác định thông qua sự kiểm định các điều
kiện trên mỗi phạm vi. Như đã nói ở phần trước, trong nhiều trường
hợp, quy mô cũng như sự áp dụng luật pháp có thể gây nên tác hại đối với những
mối quan hệ xã hội và đối với bản thân của luật pháp (bằng việc thúc đẩy sự chống
đối hung hăng đối với luật pháp). Cụ thể, khi những chuẩn mực pháp lý hoặc những
cơ quan pháp luật mâu thuẫn với các chuẩn mực xã hội hoặc các tổ chức, chúng
ta nên cẩn thận đối với những đối tượng và chức năng mà pháp luật đảm trách.
Lý do thứ ba để cảnh giác về pháp
quyền đó là rủi ro khi nó có thể thoái hóa thành quyền thống trị bởi quan tòa
hoặc luật sư. Chúng ta đã chứng kiến ở nhiều hệ thống ngày càng gia tăng từ quan
tòa trong việc đưa ra quyết định đã vi phạm theo thẩm quyền chính trị, đặc biệt
là khi giải thích các điều khoản rộng hơn như đảm bảo nhân quyền. Khi điều này
xảy ra, cơ quan tư pháp có thể trở thành đối tượng tất công chính trị và những ảnh
hưởng chính trị, điều này dẫn tới việc có bàn tay chính trị nhúng vào sự bổ nhiệm
cũng như quyết định tư pháp. Do đó, tư pháp hóa chính trị dẫn thẳng tới sự
chính trị hóa bộ máy tư pháp, và từ đó làm giảm đi sự độc lập của bộ máy tư
pháp, dẫn tới sự yếu kém của pháp quyền. Cần phải có một sự cân bằng mỏng manh
mà tại đó quan tòa cố gắng tuân thủ pháp luật nhưng đồng thời đưa ra những quyết
định với nhận thức về chức năng (bị giới hạn) đúng đắn của tòa án trong một
chính thể rộng hơn.
Lý do cuối cùng để cảnh giác về pháp
quyền – hoặc chính xác hơn là lo lắng về việc bàn về pháp quyền – đó là
nhiều sự lạm dụng pháp luật đã được thực hiện ở cấp nhà nước và các cán bộ nhà
nước, những người luôn miệng nói tuân thủ pháp quyền. Pháp quyền là một lý tưởn
hợp pháp mạnh mẽ. Nó cung cấp chỗ trú ngụ cho những kẻ chính trị gia luôn mồm
nói ủng hộ pháp quyền nhưng thực ra lại vi phạm nó. Hành vi này làm nhơ bẩn lý
tưởng pháp quyền, vì người dân sẽ dần đi tới quan điểm giễu cợt khi nói về pháp
quyền. Giải pháp duy nhất cho vấn đề này là phải cẩn trọng gán buộc những nhân
viên chính phủ với trách nhiệm đối với các hành động của họ để tương ứng với
chuẩn mực pháp lý, và không bị lừa bởi những điệu bộ giả tạo.
(hết)
© Bản tiếng
Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC 2013
Nguồn: http://phiatruoc.info/dan-nhap-ngan-gon-ve-phap-quyen-nhung-ly-do-de-than-trong-ve-phap-quyen/