James G. Hershberg
Phạm Minh Ngọc dịch
Tờ The Economist đưa ra một
câu trả lời cực kì ngắn gọn. Sau khi Ronald Reagan tạ thế, tờ báo này đưa ảnh của
ông lên trang bìa với dòng chữ: Người chiến thắng chủ nghĩa cộng sản. Những
người khác cũng nói hệt như thế. Một buổi phát thanh mà tôi có nghe bắt đầu như
sau: “Người ta tin rằng ông là người chiến thắng Chiến tranh Lạnh”. Sau đó vài
phút, một nhà chính trị học ghi nhận hai thắng lợi chính của Reagan: giành chiến
thắng trong Chiến tranh Lạnh và tiêu diệt Liên Xô. Sau đó là hàng loạt những
người sùng bái và bình luận viên tiếp tục tung ra những lời ngợi ca Reagan vì
chiến thắng “đế chế của cái Ác”.
Xin đợi cho một chút. Mọi chuyện không phải đơn giản như thế đâu.
Chắc chắn là chính sách của Reagan đã góp phần vào việc phá hủy đế chế của Điện
Kremlin mà đỉnh điểm của nó là các cuộc cách mạng chống cộng ở Đông Âu hồi năm
1989 và sự sụp đổ Liên Xô hai năm sau đó. Nhưng gán cho vị Tổng thống thứ 40 của
Hoa Kì toàn bộ công lao như các phương tiện truyền thông và các nhà viết tiểu sử
của ông đang làm thì cũng chẳng khác gì gán cho cầu thủ tiền đạo đã đưa bóng
vào lưới đối phương tất cả công lao của trận thắng, thế là ta đã quên công của
người đưa bóng cho anh ta, ta đã quên công của thủ môn cũng như công của những
người mang trên vai mình tất cả gánh nặng của trận đấu.
Các nhà sử học luôn tỏ vẻ coi thường những người qui giản những hiện tượng phức
tạp vào những nguyên nhân đơn lẻ. Liên Xô sụp đổ không phải vì có một anh hùng
cụ thể nào, nhưng nếu tôi phải chọn một người có vai trò to lớn nhất thì đấy
không phải là Reagan, chính sách của ông ta nói chung vẫn đi theo đường lối
ngăn chặn truyền thống của Chiến tranh Lạnh mà các Tổng thống từ Truman đến
Carter đã làm.
Mikhail Gorbachev, một người đã trải qua tất cả các nấc thang thăng tiến của Đảng
Cộng sản Liên Xô rồi bỗng nhiên quay hẳn sang hướng khác để trở thành nhà cải
cách cấp tiến, rõ ràng là người có vai trò quan trọng hơn. Bị tác động bởi thời
kì “tan băng” ngắn ngủi do Khrushchev khởi xướng hồi những năm 1950, trước khi
Reagan được bầu làm Tổng thống, Gorbachev đã nhận ra rằng Liên Xô là một hệ thống
trì trệ, cần phải cải tổ gấp. Gorbachev cũng đã làm một việc đáng gọi là dị
giáo khi ông từ bỏ mục tiêu cách mạng thế giới và cuộc đấu tranh giai cấp trên
bình diện quốc tế và chấp nhận “các giá trị nhân bản chung của loài người”.
Nhưng quan trọng hơn là ông đã từ chối sử dụng lực lượng vũ trang hùng hậu có
trong tay nhằm giữ cho Đảng quyền kiểm soát các nước Đông Âu, cũng như kiểm
soát các nước cộng hoà có xu hướng dân tộc chủ nghĩa ngay trong lòng Liên Xô,
điều mà những người tiền nhiệm của ông là Yuri Andropov và Konstantin
Chernenko, nếu họ chưa kịp đi về thế giới bên kia, chắc chắn sẽ làm.
Nhưng cũng chẳng nên qui tất cả công trạng cho một mình Gorbachev. Liên Xô tan
rã chủ yếu là do các nguyên nhân bên trong chứ không phải bên ngoài. Trong một
bài báo viết vào năm 1947 trên tờ Foreign Affairs, George F.
Kennan cho rằng “siêu cường Liên Xô cũng như chủ nghĩa tư bản đều mang trong
lòng nó mầm mống của sự tan rã, nhưng mầm mống ở Liên Xô sẽ lớn nhanh hơn”. Đầu
những năm 1950, mặc cho những lo lắng về các vụ thử hạt nhân của Liên Xô, mặc
cho chiến thắng của cộng sản ở Trung Quốc và sự ngóc đầu dậy của chủ nghĩa
McCarthy, James B. Conant, Hiệu trưởng Đại học Harvard (Harvard University
President) đã tiên đoán rằng khoảng năm 1980 “sự phi lí và hệ thống tĩnh tại của
Liên Xô sẽ làm cho nó ngừng hẳn”. Kể ra ông cũng không sai nhiều lắm.
Thực chất là Reagan đã theo đúng đường lối kiềm chế mà cả hai Đảng Cộng hoà và
Dân chủ đều theo đuổi. Vâng, ông có cung cấp vũ khí cho các lực lượng chống cộng
thuộc Thế giới Thứ ba và thường xuyên tuyên bố rằng ông tin tưởng vào tự do và
dân chủ, nhưng các Tổng thống khác trước ông cũng đã làm như thế. Khi xảy ra khủng
hoảng Reagan cũng chẳng sẵn sàng liều lĩnh khởi động Chiến tranh Thế giới III
hơn những người tiền nhiệm của ông. Ông không dám đối đầu trực tiếp khi Điện
Kremlin tiến hành các vụ đàn áp ở Trung Âu (cũng là việc đáng thông cảm thôi!).
Phản ứng của Reagan khi bị kết án là đã giúp đỡ Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan -
những lời nói hoa mĩ, bày tỏ cảm tình và những biện pháp cấm vận nửa vời chống
lại việc thiết quân luật ở Ba Lan tháng 12 năm 1981 cũng chẳng hơn gì phản ứng
của Eisenhower đối với vụ đàn áp của Liên Xô ở Đông Đức (1953), ở Hungary
(1956) và phản ứng của Kennedy đối với việc xây Bức tường Berlin (1961) hay phản
ứng của Johnson đối việc Liên Xô đổ quân vào Tiệp Khắc (1968).
"Mr. Gorbachev, xin hãy phá bỏ bức tường này đi!" - lời kêu gọi của
Reagan năm 1987 đã trở thành đề tại thời sự cũng như đề tài của lịch sử nữa.
Nhưng dù những lời đó có gây xúc động lòng người đến đâu, người dân Đông Âu dưới
chế độ cộng sản, qua kinh nghiệm cay đắng của mình, biết rằng cả kị binh bay lẫn
những lời có cánh của Tổng thống Mĩ đều không thể giải phóng được họ. Đạo diễn
các chương trình truyền hình kỉ niệm đặc biệt có thể lồng hình ảnh Reagan đang
gào thét trước bức tường vào cảnh dân Berlin nhảy múa trên những đống gạch vụn
của nó hai năm sau đó, nhưng nói rằng hai sự kiện này gắn bó nhân quả với nhau
thì nghĩa là ta đã cố tình biến lịch sử thành truyện cổ tích hay ít nhất cũng
đơn giản hoá nó một cách quá đáng.
Năm 1989, nhân dân Đông Âu đã nhận thức được rằng họ phải tự đứng lên giành lấy
quyền tự do. Người ta phải mang mạng sống của mình ra để kiểm tra giới hạn của
học thuyết mới của Gorbachev (các nước cộng sản khác có thể “đi theo con đường
của mình”) và đã phát hiện ra rằng học thuyết của Gorbachev đã hoàn toàn thay
thế cho lí luận của Brezhnev, tức là cái lí luận biện hộ cho việc đưa quân can
thiệp, không cho các nước đào thoát khỏi “cộng đồng xã hội chủ nghĩa”. Những
người tuần hành ở thành phố Leipzig vào tháng 10 năm đó không thể nào biết được
họ có tránh khỏi số phận của những người biểu tình ở Thiên An Môn mấy tháng trước
đó hay không. Nhiều nhà lãnh đạo Đông Đức lúc đó sẵn sàng làm theo các đồng chí
Trung Quốc!
Liệu những thách thức mà Reagan đưa ra trên khắp thế giới có đẩy nhanh tiến
trình sụp đổ của Liên Xô hay không? Reagan đã giúp đỡ các mujaheddin (chiến sĩ
thánh chiến) ở Afghanistan làm cho Liên Xô nhanh chóng thất bại và như vậy là
làm cho tình trạng bên trong Liên Xô càng căng thẳng thêm, nhưng dự án này đã
khởi sự ngay dưới thời Carter và được cả hai đảng ủng hộ. Còn việc Reagan ủng hộ
lực lượng Contras trong cuộc đấu tranh chống chế độ Sandinist ở Nicaragua lại tạo
ra một vụ bê bối nghiêm trọng cho chính quyền của ông và lái dư luận khỏi những
sự kiện quan trọng đang diễn ra trong thế giới cộng sản, thí dụ như Trung Quốc.
Những người hâm mộ Reagan khẳng định rằng chính cuộc chạy đua vũ trang trong những
năm 1980 đã làm Điện Kremlin phá sản. “Bằng cách tăng cường lực lượng phòng vệ
chứ không phải tiến hành xâm lược, Ronald Reagan đã làm cho Liên Xô sụp đổ”,
ông Bob Dole, một cựu thượng nghị sĩ Đảng Cộng hoà, ứng cử viên Tổng thống đã
tuyên bố trên tờ the New York Times như thế. Biên bản các cuộc
họp của Bộ Chính trị ghi nhận nỗi lo lắng thực sự (mặc dù vô căn cứ) về việc
xây dựng tên lửa phòng vệ trong chương trình “Chiến tranh giữa các vì sao” và
những nhà lãnh đạo sáng suốt của Liên Xô nhận thức được sự cách biệt ngày càng
gia tăng về quân sự và công nghệ giữa phương Tây, nhất là Mĩ với Liên Xô. Điều
đó càng làm cho Gorbachev thêm quyết tâm loại bỏ sự thù địch của Chiến tranh Lạnh,
quyết tâm tìm cách tiếp cận với hàng hoá và công nghệ của phương Tây và chuyển
các nguồn lực từ lĩnh vực quân sự sang nền kinh tế phục vụ dân sinh.
Gorbachev còn nhận ra sự phi lí của cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân. Đến giữa
những năm 1980 các siêu cường đã sở hữu tổng cộng hơn 70.000 đầu đạn hạt nhân.
Ông hiểu rằng có thể đưa ra những đề nghị hấp dẫn để khởi đầu đàm phán về hạn
chế vũ khí, cho phép thực hiện việc giám sát tại chỗ hay trao đổi về tên lửa tầm
trung mà không ảnh hưởng đến vũ khí đánh chặn chiến lược của Liên Xô.
Như vậy là cuộc chạy đua vũ trang trong những năm 1980 không làm cho Liên Xô sụp
đổ. Nền kinh tế Liên Xô, vì nhiều lí do khác nhau, đã bị thối rữa ngay từ bên
trong. Những ưu tiên sai lầm của Điện Kremlin - giữ một bộ máy quân sự khổng lồ
trong khi nền kinh tế và đời sống nhân dân thua xa phương Tây – là một tác nhân
làm cho đế chế Liên Xô tan rã. Nhưng những ưu tiên như thế đã diễn ra hàng chục
năm rồi. Bước ngoặt diễn ra không phải dưới thời Reagan mà là do những ý muốn
điên rồ của Stalin ngay sau Chiến tranh Thế giới II. Mặc dù đất nước còn bị tàn
phá ngổn ngang, lãnh tụ quyết định xây dựng kho vũ khí hạt nhân và giành danh
hiệu siêu cường. Từ đó trở đi lực lượng vũ trang luôn luôn nhận được những thứ
tốt nhất và đã làm biến dạng nền kinh tế.
Việc chú mục vào quân sự còn làm cho người ta đánh giá sai vai trò của quyền lực
“mềm” trong việc lật nhào nhà nước Xôviết. Hàng ngàn tỉ dollar mà phương Tây
chi cho vũ khí và chiến lược ngăn chặn cuối cùng lại hoá ra không quan trọng bằng
lối sống phương Tây, tức là lĩnh vực chẳng có liên quan gì đến chính sách quốc
gia - nhạc, phim ảnh, thời trang (quần bò xanh), hàng tiêu dùng, “Coca-Cola
hoá” - và một tương lai tự do hơn, giầu có hơn, no đủ hơn. Lối sống phương Tây,
nhờ đài phát thanh, TV, Hollywood, văn học samizdat, máy fax
v.v… bắt đầu thâm nhập vào thế giới cộng sản, tạo ra một trường hấp dẫn mới.
Tôi không bao giờ quên sự háo hức của các thanh niên Nga khi họ giở tờ tạp chí Time mà
tôi mang theo trong chuyến đi đến đó vào những năm 1980, tôi cũng không thể
quên hình ảnh người dân Moskva ăn bánh Big Mac trong cửa hàng McDonald đầu tiên
mở tại quảng trường Pushkin.
Sự trớ trêu của số phận là chính những người mà Reagan không ưa hồi ông còn làm
Thống đốc bang California như những thanh niên hippies, những người chống chiến
tranh Việt Nam, những nhà hoạt động trong phong trào gọi là “counter-culture” hồi
những năm 1960 đã làm ra các bản nhạc, đã đề xuất ra các tư tưởng và tính cách
lập dị lôi cuốn giới trẻ có học trong thế giới cộng sản, lại là những người có
công lớn trong việc làm cho chế độ cộng sản sụp đổ. Những người có điều kiện tiếp
xúc với phương Tây, kể cả con cái của giới tinh hoa trong bộ máy và các chuyên
gia cao cấp, lại thích Lennon [1] hơn
Lenin, thích Mick [2] hơn
Marx.
Xin hãy hỏi ngay Pavel Palazchenko, một phiên dịch viên hói đầu và có ria mép,
ngồi cạnh Reagan và Gorbachev mỗi khi họ gặp nhau. Trong những năm 1960 ông học
ở một trường đại học ngoại ngữ danh tiếng ở Moskva. Sau này ông viết trong cuốn
hồi kí xuất bản hồi năm 1997, cuốn hồi kí rất hay nhưng ít được chú ý, rằng “hệ
tư tưởng ngu xuẩn đến mức không làm cho người ta cười được”. Để giải trí, ông
cùng bạn bè góp tiền mua rượu và mời các bạn gái uống say (lúc đó rượu còn rẻ).
“Và chúng tôi nghe Beatles”, ông nói.
"Chúng tôi thuộc những bài hát đó… Tôi có giọng thế này phần lớn là nhờ
Beatles chứ không phải thày giáo dạy phát âm đâu. Nhưng tôi và những người bạn
đồng trang lứa của mình còn nợ họ một vài thứ nữa. Trong những năm đen tối dưới
thới Brezhnev (1964-1982) họ không chỉ là nhạc giải trí. Họ đã giúp chúng tôi tạo
ra thế giới của riêng mình, một thế giới khác hẳn với thế giới chán phèo và vô
nghĩa của những nghi lễ càng ngày càng giống thời Stalin hơn… Tôi tin rằng thời
đó ít người trong chúng tôi tìm được hứng khởi nhờ các tác phẩm của Andrei
Sakharov (một nhà vật lí và bất đồng chính kiến nổi tiếng) vì chúng tôi chưa đủ
sức hiểu được tư tưởng của ông. Beatles đã giúp chúng tôi lặng lẽ chia tay ‘hệ
thống’, trong khi vẫn thực hiện phần lớn các yêu cầu của nó.”
Không phải tất cả các nhà lãnh đạo Liên Xô đều nhận ra những ảnh hưởng có tính
cách phá hoại như thế. Tháng 12 năm 1980, một tháng sau khi Reagan được bầu làm
Tổng thống, Andropov, người đứng đầu KGB lúc ấy đã gửi cho Ban Chấp hành Trung
ương một báo cáo mật. Đấy không phải là báo cáo về cuộc bầu cử mà là báo cáo về
vụ sát hại John Lennon. Andropov nói rằng “Trong nhiều trường đại học ở Moskva
đã xuất hiện những tờ rơi kêu gọi tổ chức diễu hành tưởng niệm cựu thành viên
Beatles”. "KGB đã thi hành những biện pháp cần thiết nhằm xác định danh
tính những kẻ tổ chức vụ tụ tập và vẫn kiểm soát được tình hình”, ông ta hứa với
lãnh đạo Đảng như thế.
Nhưng hoá ta KGB không kiểm soát được tình hình. Cuối những năm 1980 các sân khấu
rock bí mật bắt đầu xuất hiện trên mảnh đất của “chủ nghĩa xã hội hiện thực”.
Sau khi toàn bộ ngôi nhà xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ, những nhân vật đối lập cũ
trong khối Warszawa, như Vaclav Havel đã chào đón (và đôi khi dựng tượng) cho
những người như Frank Zappa, Pink Floyd, Lou Reed và James Dean.
Reagan đã xô những bức tượng vốn đã rung rinh của Marx và Lenin, nhưng có lẽ
ông không đóng vai trò chính, ông chỉ có vai trò phụ trợ. Vẫn còn quá sớm để khẳng
định bất cứ điều gì một cách chắn chắn. Việc ca ngợi quá đáng vai trò của
Reagan trong vụ đạp đổ con rồng Liên Xô nói về ông thì ít mà nói về chúng ta
thì nhiều. Hỗn hợp tình cảm, tâm trạng hân hoan sau Chiến tranh Lạnh, quá nhiều
thông tin về sự kiện chỉ chứng tỏ thói quen coi thường sự phức tạp của thế giới,
thói quen đưa các vấn đề thế giới vào các sơ đồ đơn giản, đấy cũng là một thói
quen nguy hiểm của người Mĩ chúng ta.
James Hershberg là phó giáo sư lịch sử và các vấn đề quốc tế tại George
Washington University và là cựu giám đốc của dự án về chiến tranh lạnh tại
Woodrow Wilson Center
[1]John Lennon,
Beatles
[2]Mick Jagger, Rolling Stones
[2]Mick Jagger, Rolling Stones
Nguồn:http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=11411&rb=0402