Nguyễn
Minh Tuấn
Hệ
thống pháp luật Common Law và Civil Law là hai hệ thống pháp luật lớn và điển
hình trên thế giới. Hai hệ thống này có những điểm đặc thù, tạo nên những
"dòng họ" pháp luật, với những đặc trưng pháp lý riêng. Mặc dù ngày
nay pháp luật ở các nước thuộc hai hệ thống này cũng có nhiều thay đổi
theo hướng bổ khuyết những mặt hạn chế, tích hợp nhiều nội dung mới, nhưng về
cơ bản sự thay đổi ấy vẫn không làm mất đi những đặc thù riêng, triết lý riêng,
từng tạo nên "bản sắc" của hai hệ thống pháp luật này.
1.
Hệ thống pháp luật lục địa (Continetal Law), hệ thống Luật dân sự (Civil Law),
hay gọi đơn giản hơn là hệ thống pháp luật Pháp - Đức:
Đây là hệ thống pháp luật lớn nhất thế giới, được xây dựng trên nền tảng di sản
của Luật La Mã (ius civile), phát triển ở các nước Pháp, Đức và một số nước lục
địa Châu Âu. Trong đó pháp luật của Pháp, Đức là quan trọng nhất và có ảnh hưởng
lớn tới pháp luật của các nước khác trong hệ thống pháp luật này. Hệ thống pháp
luật của các nước này nhìn chung đều chịu ảnh hưởng của Luật La Mã, luật vật chất
được coi trọng hơn luật thủ tục, luật tư là lĩnh vực pháp luật được chú trọng
hơn cả. Họ pháp luật này coi trọng văn bản qui phạm pháp luật và đã thoát ly khỏi
tôn giáo, luân lý, đề cao tự do cá nhân. Ngày nay, phạm vi ảnh hưởng của hệ thống
Civil Law tương đối rộng bao gồm các nước Châu Âu lục địa (Pháp, Đức, Italia…),
Quebec (Canada), Louisiana (Mỹ), Nhật Bản và một số nước Châu Mỹ Latinh
(Brazin, Vênêduêla…).
Về
mặt lịch sử hình thành, bản tập hợp "Corpus
Iuris Civilis" của Hoàng đế Justinian (483-565) thời kỳ cổ đại được coi là
một trong những nền tảng cho việc phát triển pháp luật ở Châu Âu lục địa. Khoảng
thế kỷ XII-XIII, hình thành các trường phái pháp luật họ nghiên cứu tiếp nhận
truyền thống của Luật la mã, truyền bá tư tưởng pháp luật ra ngoài Châu Âu qua
con đường xâm lược các nước thuộc địa.
Thế
kỷ XI, do kinh tế công thương ở Tây Âu phát triển, các trường học do thị
dânlập nên ra đời. Đây là nơi có vai trò quan trọng trong việc phát triển
pháp luật Châu Âu lục địa. Họ đưa ra rất nhiều quan niệm về pháp luật chẳng hạn,
giảng dạy luật là dạy các nguyên tắc và phương pháp để tìm kiếm và thiết lập
công lý, hoặc quan niệm luật là các cần có (Sollen) chứ không phải cái đang diễn
ra (Sein).
Khi
những bộ tộc Đức (Germanic) xâm lăng các đế quốc Tây Âu, một số qui định của luật
La Mã đã được thay thế bằng luật bộ tộc Đức. Tuy nhiên, vì tinh thần của luật Đức
là căn cứ vào yếu tố cá nhân, không căn cứ vào yếu tố lãnh thổ, nên dân chúng của
đế quốc La Mã cũ cùng con cháu họ vẫn được phép sử dụng luật La Mã. Giáo hội
Công giáo La Mã cũng góp phần quan trọng trong việc duy trì luật pháp La Mã cũ
vì giáo luật, tức là luật dùng trong các Toà án của giáo hội, đã được xây dựng
theo luật La Mã. Vào thế kỷ thứ 11 và 12, khi tìm được nguyên văn Bộ Dân luật
Corpus Juris Civilis, các học giả bắt đầu nghiên cứu và giải thích, hiện đại
hóa những nội dung luật cũ cho phù hợp với tình hình xã hội thời đó . Họ mở trường
luật ở Paris, Oxford, Prague, Heidelberg, Copenhague, họ làm luật sư cho giáo hội,
cho các vua chúa, và cho các vùng lãnh thổ khắp Châu Âu. Nhờ cùng được đào tạo
chung theo một nội dung , luật gia của các nước Châu Âu đã tạo nên những Bộ Dân
Luật của nước họ xây dựng trên nền tảng chung là luật La Mã.
Ngày
nay, tên gọi của hệ thống pháp luật này rất đa dạng như hệ thống pháp luật Châu
Âu lục địa, hệ thống pháp luật La Mã - Đức, hệ thống pháp luật Civil law, hệ thống
pháp luật thành văn, hệ thống pháp luật bắt nguồn từ Luật La Mã. Đóng góp vào sự
phát triển của hệ thống pháp luật này là nhiều trường phái pháp luật trong đó
có: trường phái pháp luật lịch sử (một nhánh trong đó là trường phái pháp điển
hóa hiện đại [phandectists] thế kỷ XVI ở Đức), trường phái nhân văn thế kỷ XVI ở
Pháp mong muốn phục hồi nguyên bản Luật La Mã (humanistes), trường phái pháp luật
tự nhiên thế kỷ XVII, XVIII nhấn mạnh đến quyền tự nhiên, trường phái luật học
sư (glossators), trường phái hậu luật học sư (post-glossators). Các học giả luật
so sánh cho rằng hê thống Civil law phải được chia nhỏ thành 3 nhóm khác nhau:
+ Civil
Law của Pháp: ở Pháp, Tây Ban Nha, và những nước thuộc địa cũ của Pháp;
+ Civil
Law của Đức: ở Đức, Aó, Thụy Sĩ, Hy Lạp, Nhật Bản, Hàn Quốc và Cộng hòa
Trung Hoa (Lưu ý: Luật Trung Hoa và Luật Việt Nam hiện nay theo truyền thống
học thuật, thì được xếp vào hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, nhưng trên thực
tế nhiều qui định về dân sự, về tố tụng, về hệ thống Toà án lại mang nhiều đặc
điểm của Civil Law);
+ Civil Law của những nước Scandinavian: Đan Mạch, Thụy Điển, Phần Lan, Na Uy và Ailen. Luật của Bồ Đào Nha và Italia cũng chịu ảnh hưởng của Pháp, Đức, nhưng những bộ luật dân sự thế kỷ 19 thì gần hơn với Bộ luật Napoleon và những bộ luật dân sự thế kỷ 20 thì lại giống với luật dân sự của Đức. Về đào tạo luật, thì những nước này lại giống với hệ thống pháp luật của Đức hơn. Luật ở những nước này thường được gọi là hệ thống luật có tính chất pha tạp (hybrid nature).
Luật ở Hà Lan hay dân luật ở Hà Lan thì rất khó để xếp vào một nhóm nào, nhưng cũng phải thừa nhận rằng Luật dân sự của Hà Lan có ảnh hưởng không nhỏ đến luật tư hiện đại của nhiều quốc gia. Điển hình là pháp luật dân sự của Nga hiện hành chịu ảnh hưởng trực tiếp từ luật của Hà Lan.
+ Civil Law của những nước Scandinavian: Đan Mạch, Thụy Điển, Phần Lan, Na Uy và Ailen. Luật của Bồ Đào Nha và Italia cũng chịu ảnh hưởng của Pháp, Đức, nhưng những bộ luật dân sự thế kỷ 19 thì gần hơn với Bộ luật Napoleon và những bộ luật dân sự thế kỷ 20 thì lại giống với luật dân sự của Đức. Về đào tạo luật, thì những nước này lại giống với hệ thống pháp luật của Đức hơn. Luật ở những nước này thường được gọi là hệ thống luật có tính chất pha tạp (hybrid nature).
Luật ở Hà Lan hay dân luật ở Hà Lan thì rất khó để xếp vào một nhóm nào, nhưng cũng phải thừa nhận rằng Luật dân sự của Hà Lan có ảnh hưởng không nhỏ đến luật tư hiện đại của nhiều quốc gia. Điển hình là pháp luật dân sự của Nga hiện hành chịu ảnh hưởng trực tiếp từ luật của Hà Lan.
2.
Hệ thống pháp luật Ănglô - xắcxông, hệ thống Thông luật (Common Law), hay gọi
đơn giản hơn là hệ thống pháp luật Anh - Mỹ:
Pháp
luật Anh - Mỹ là hệ thống pháp luật lớn thứ hai thế giới, là hệ thống pháp luật
ra đời ở Anh, sau này phát triển ở Mĩ và những nước là thuộc địa của Anh, Mĩ
trước đây. Đây là hệ thống pháp luật coi trọng tiền lệ (precedents/ judge made
law), phù hợp với quan niệm của người Anh ưa ứng biến phù hợp hoàn cảnh, coi trọng
kinh nghiệm.
Cần
phân biệt Common Law (viết hoa: có nghĩa là hệ thống pháp luật Anh Mỹ), common
law (viết thường: là tiền lệ được tòa án hoàng gia (hay các tòa thượng thẩm)
áp dụng, dùng để chỉ nguồn áp dụng chung, thay thế các tiền lệ được áp dụng tại
các tòa địa phương). Common Law hiện nay cần phải được hiểu theo 3 nghĩa khác
nhau:
- Thứ
nhất, đó là một hệ thống pháp luật lớn trên thế giới dựa trên truyền thống
hệ thống pháp luật của Anh;
- Thứ
hai, trên phương diện nguồn luật, án lệ (Case law) của Common Law được tạo
ra bởi tòa án, phân biệt với đạo luật của Nghị viên;
- Thứ
ba, trên phương diện hệ thống Tòa án, Tòa án và các án lệ của Common Law
cũng khác biệt với Tòa án và các án lệ của Equity Law.
Về
lịch sử hình thành, nguồn gốc của hệ thống luật này bắt
đầu từ năm 1066 khi người Normans xâm chiếm Anh quốc và Hoàng Đế William bắt đầu
tập trung quyền lực vào tay triều đình mới. Thuật ngữ luật chung (
Common Law ) xuất phát từ quan điểm cho rằng các tòa án do nhà vua lập ra, áp dụng
các tập quán chung ( Common Custom) của vương quốc, trái ngược với những tập tục
luật pháp địa phương áp dụng ở các miền hay ở các tòa án của điền trang, thái ấp
phong kiến.
Các
nguyên tắc bền vững của luật chung đã được tạo ra bởi ba tòa án được vua Henry
II (1133 - 1189) thành lập là Tòa án Tài chính (Court of Exchequer) để xét xử
các tranh chấp về thuế; Tòa án thỉnh cầu phổ thông ( Court of Common Pleas) đối
với những vấn đề không liên quan trực tiếp đến quyền lợi của nhà vua; và Tòa án
Hoàng Đế ( Court of the King’s Bench) để giải quyết những vụ việc liên quan trực
tiếp đến quyền lợi của Hoàng gia.
Thực
chất, trước đó dưới thời của Hoàng đế William, những tập quán của Anh ít nhiều
chịu ảnh hưởng của văn hóa Đức ở Châu Âu lục địa. Tòa án lúc đó là những người
dân được triệu tập để cùng giải quyết tranh chấp và nếu không xử được người ta
dùng phương pháp thử tội (ordeal) bằng việc bắt bị cáo cầm vào
một miếng sắt nung đỏ, hoặc cầm một viên đá đã được ngâm trong nước sôi, hoặc
hình thức thề độc. Nếu vết thương đó lành sau một thời gian xác định, anh ta sẽ
bị tuyên là vô tội và ngược lại.
Năm
1154, Vua Henry II đã tạo ra một hệ thống luật chung và sáng tạo ra một
hệ thống tòa án thống nhất đầy quyền năng, ông đưa các thẩm
phán từ tòa án Hoàng gia đi khắp nơi trong nước và sưu tầm, chọn lọc cách thức
giải quyết các tranh chấp. Sau đó những thẩm phán này sẽ trở về
thành Luân đôn và thảo luận về những vụ tranh chấp đó với các thẩm phán khác.
Những phán quyết này sẽ được ghi lại và dần trở thành án lệ (precedent), hay
theo Tiếng Latin là stare decisis. Theo đó, khi xét xử thẩm phán sẽ chịu sự
ràng buộc bởi những phán quyết đã có từ trước đó. Thuật ngữ “Common Law” bắt đầu
xuất hiện từ thời điểm đó. Như vậy trước khi Nghị viện ra đời trong lịch sử
pháp luật của Anh, Common Law đã được áp dụng trên toàn bộ vương quốc trong vài
thế kỉ.
Đến
thế kỷ thứ 15, khi đó xuất hiện một thực tiễn pháp lý là khi luật “Common Law”
không đủ sức để giải quyết một vụ việc, và người đi kiện cho rằng cách giải quyết
của Common Law là chưa thỏa đáng. Thí dụ, trong một vụ kiện về đất đai, người
đi kiện cho rằng khoản tiền bồi thường mà theo cách giải quyết của Common law
là không đủ bồi thường cho hành vi mà người xâm phạm đã cướp không của họ, họ
yêu cầu rằng người vi phạm này còn phải bị đuổi và phải trả lại phần đất lấn
chiếm đó. Chính điều này là cơ sở để xuất hiện hệ thống mới là hệ thống
pháp luật công bình (system of equity), đồng thời xuất hiện thiết chế
Tòa công bình, do viên Tổng chưởng lý (Lord Chancellor) đứng đầu. Về bản chất
thì luật công bình vẫn chiếm ưu thế hơn so với luật Common Law trong trường hợp
có sự xung đột. Điều này đã được nêu trong Đạo luật hệ thống tư pháp
(Judicature Acts) năm 1873 và 1875.
Ngày
nay bên cạnh án lệ với tư cách là một loại nguồn pháp luật đặc thù của hệ thống
Common Law, luật thành văn và các loại qui tắc khác cũng được coi là một bộ phận
cấu thành của hệ thống pháp luật này. Khi xét xử những nước theo hệ thống pháp
luật Common Law thường căn cứ vào hai câu hỏi lớn, đó là câu hỏi sự thật
khách quan (question of fact) và câu hỏi về luật -
theo nghĩa rộng(question of law). Trong bất cứ vụ việc nào, ngày nay khi xét xử
các thẩm phán của Common Law vẫn dựa cả vào án lệ, luật viết và những căn cứ thực
tế để xét xử.
3.
Những khác biệt:
Những
đặc điểm khác nhau cơ bản của hai hệ thống này được thể hiện rõ nét nhất ở 4
tiêu chí: nguồn gốc của luật (origin of law); tính chất pháp điển hóa (codification);
thủ tục tố tụng (Procedure); Vai trò của thẩm phán và luật sư (Role
of the Jurists).
3.1.
Về nguồn gốc của luật:
Trong
pháp luật lục địa, các quan hệ tài sản gắn liền với những nguyên tắc của Luật
dân sự La Mã - Tập hợp những qui định pháp luật làm nền tảng cho Luật dân sự La
Mã của Hoàng đế Justinian (Justinian’s Corpus Juris Civilis). Nói đến sự ảnh hưởng
của Luật La Mã, Mác đã từng nhận xét rằng pháp luật các nước Châu Âu không thể
đem lại những hoàn thiện đáng kể cho Luật La Mã cổ đại mà chỉ sao nó lại một
cách cơ bản. Pháp luật Anh - Mỹ không ảnh hưởng sâu sắc và gắn bó mật thiết với
những nguyên tắc của luật dân sự La Mã như pháp luật lục địa. Lý do là họ quan
niệm Tòa án chỉ có thẩm quyền với từng vụ việc cụ thể. Luật gia phải được đào tạo
và trưởng thành trong thực tiễn. Tuy nhiên cả hai hệ thống pháp luật này đều ít
nhiều đều thừa hưởng sự giàu có và tính chuẩn mực của thuật ngữ pháp lý La Mã.
Ví dụ : stare decisis (Phán quyết của Tòa án trước đó phải được công nhận như
tiền lệ); pacta sunt servandas (Hợp đồng phải được tôn trọng).
Sự
ảnh hưởng của các học thuyết pháp lý, với tư cách là một nguồn luật thì ở
Common Law có xu hướng áp dụng nhiều hơn so với các nước theo truyền thống
Civil law.
3.2.Về
tính chất pháp điển hóa
Quan
niệm tiếp cận pháp luật của hai hệ thống pháp luật này là khác nhau. Hệ thống
Civil law quan niệm luật pháp là phải từ các chế định cụ thể (All law
resides in institutions), còn hệ thống Common law lại quan niệm luật pháp
được hình thành từ tập quán (All law is custom). Ngày nay, ở Anh "lẽ
phải" (reasons) cũng là một dạng nguồn pháp luật để bù đắp những khoảng trống
pháp luật, làm cho hệ thống pháp luật Anh trở thành một hệ thống pháp luật mở,
luôn trong trạng thái tự hoàn thiện.
Ưu
điểm rõ nét của các Bộ luật trong Civil Law là tính khái quát hóa, tính ổn định
cao (certainty of law). Pháp luật Common Law dựa chủ yếu trên nguồn luật là tiền
lệ pháp (Stare decisis. Thẩm phán vừa là người xét xử vừa là người sáng
tạo ra pháp luật một cách gián tiếp. Ưu điểm rõ nét nhất của các tập quán là
tính cụ thể, linh hoạt và phù hợp với sự phát triển của các quan hệ xã hội.
Pháp
luật lục địa chia thành luật công (public law)
và luật tư (private law), còn pháp luật Anh - Mỹ khó phân
chia. Công pháp bao gồm các ngành luật, các chế định pháp luật điều chỉnh các
quan hệ về tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước, những quan hệ mà một bên
tham gia là các cơ quan nhà nước. Còn tư pháp bao gồm các ngành luật, các chế định
pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên quan đến các cá nhân, tổ chức khác. Cốt
lõi của luật tư là nguyên tắc tự do ý chí. Tự do ý chí mang bản chất giới hạn
quyền lực nhà nước và thừa nhận công dân được làm tất cả những gì pháp luật
không cấm. Trong lĩnh vực luật tư nhà nước đóng vai trò như người trọng tài. Cốt
lõi của luật công là công quyền chỉ được làm những gì mà luật cho phép. Nhà nước
buộc phải tuân thủ pháp luật.
3.3.
Về thủ tục tố tụng
Hệ
thống pháp luật lục địa phát triển hình thức tố tụng thẩm vấn, tố tụng viết (inquisitorial
system/ written argument), còn Hệ thống pháp luật Anh – Mỹ phát triển
hình thức tố tụng tranh tụng (Case system/ oral argument). Tuy nhiên
cũng không hoàn toàn đúng nếu khẳng định rằng hệ thống Civil Law không hề áp dụng
việc suy đoán vô tội (presumption of innocence).
Khi
xét xử, các nước theo hệ thống Common Law rất coi trọng nguyên tắc Due process. Đây là nguyên tắc
được nhắc đến trong tu chính án thứ 5 và 14 của Hoa Kỳ. Nội dung chính của
nguyên tắc này nói đến ba yêu cầu chính: yêu cầu bình đẳng của các đương sự
trong việc đưa ra chứng cứ trước Toà (equal footing); yêu cầu qui trình
xét xử phải được tiến hành bởi một Thẩm phán độc lập có chuyên môn, cùng một bồi
thẩm đoàn vô tư, khách quan (fair trial and impartial jury); yêu cầu luật
pháp phải được qui định sao cho một người dân bình thường có thể hiểu được hành
vi phạm tội (Laws must be written so that a reasonable person can
understand what is criminal behavior).
Hệ
thống Civil Law dựa trên qui trình tố tụng thẩm vấn (inquisitorial system) nên
trong các vụ án hình sự, thẩm phán căn cứ chủ yếu vào Luật thành văn, kết quả của
cơ quan điều tra, và quá trình xét xử tại Toà để ra phán quyết. Nếu như trong
Common Law, thẩm phán tạo ra các qui tắc pháp lý cho các tranh chấp cụ thể, thì
trong Civil Law, qui tắc pháp lý tạo ra nền tảng để thẩm phán ra quyết định,
hay nói cách khác thẩm phán Civil Law tìm giải pháp trước hết qua các văn bản
pháp luật. Về giải thích văn bản pháp luật, các thẩm phán giải thích theo ngữ
nghĩa của luật nhưng vẫn tôn trọng ý chí của nhà làm luật.
Toà
án ở các nước theo truyền thống Common Law được coi là cơ quan làm luật lần thứ
hai, hay cơ quan sáng tạo ra án lệ (The second Legislation). Ngược lại ở các nước
theo truyền thống Civil Law, chỉ có Nghị viện mới có quyền làm luật, còn Toà án
chỉ là cơ quan áp dụng pháp luật.
Ở
các nước theo truyền thống Common Law đa phần các hiệp định quốc tế không phải
là một phần của luật quốc nội/ luật quốc gia (domestic law). Chúng chỉ có thể
được toà án áp dụng khi các hiệp định quốc tế đã được nội luật hoá bởi cơ quan
lập pháp. Các nước theo truyền thống Civil Law thì khác, ví dụ như ở Thụy Sĩ,
các điều ước quốc tế được áp dụng trực tiếp như là một phần của luật quốc nội,
vì vậy các Toà án có thể trực tiếp áp dụng các điều ước quốc tế khi xét xử.
3.4.
Về vai trò của luật sư và thẩm phán, chứng cứ:
Pháp
luật Anh - Mỹ do án lệ là nguồn cơ bản, đặc biệt với truyền thống coi trọng chứng
cứ nên luật sư, thẩm phán rất được coi trọng. Pháp luật lục địa do văn bản qui
phạm pháp luật là nguồn chủ yếu, đồng thời do thông lệ "án tại hồ sơ"
- quá trình điều tra phụ thuộc phần lớn vào kết quả của cơ quan điều tra do vậy
luật sư ban đầu ít được coi trọng như các nước theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ.
Thẩm phán ở các nước Civil Law chỉ tiến hành hoạt động xét xử mà không được
tham gia hoạt động lập pháp, họ không được tạo ra các chế định, các qui phạm
pháp luật. Luật sư ở Anh được chia thành hai nhóm luật sư tư vấn (solicitor) và
luật sư tranh tụng (barrister). Thẩm phán được lựa chọn từ các luật sư tranh tụng
và không theo nhiệm kỳ.
Thẩm
phán của Civil law được đào tạo theo một qui trình riêng, họ thường trước đó
không phải là các luật sư. Nhưng ở Common Law thì khác, thẩm phán hầu hết đều
được lựa chọn từ những luật sư rất danh tiếng.
Nguyên
nhân dẫn đến sự khác nhau của hai hệ thống pháp luật này có rất nhiều, có cả
nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng cơ bản vẫn là do tiến trình phát triển
của cách mạng tư sản khác nhau quyết định. Cách mạng tư sản ở các nước đã diễn
ra với tính chất, mức độ triệt để là khác nhau, có nước cách mạng chống phong
kiến diễn ra triệt để, có nước không triệt để.[1]
Nói
đến hệ thống pháp luật tư sản thì hai hệ thống pháp luật trên là hai hệ thống
pháp luật lớn, tuy nhiên bên cạnh hai hệ thống pháp luật này còn có sự tồn tại
của hệ thống pháp luật các nước Hồi giáo, hệ thống pháp luật Bắc Âu...
Từ
cuối thế kỷ thứ 20, các nước theo hệ thống Civil Law đã có nhiều thay đổi. Ví dụ
không còn chỉ dựa đơn thuần vào Bộ Dân luật , mà ở các nước này, các án lệ, các
văn bản dưới luật, các nghiên cứu học lý tư pháp cũng đã được xem là những nguồn
luật quan trọng. Các bộ dân luật cũng được bổ sung, sửa đổi, nhất là ở Đức (còn
gọi tắt là BGB).
---------------------------
[1] Ví dụ cách mạng tư sản Anh
không triệt để, nên pháp luật Anh khác với pháp luật Pháp. Ngoài ra ta cũng thấy
nhà nước tư sản Mỹ cách xa Châu Âu nên không chịu ảnh hưởng của cách mạng tư sản
ở Châu Âu, nên pháp luật của Mỹ cũng khác với pháp luật Châu Âu nói chung.
Nguồn:http://tuanhsl.blogspot.com/2009/02/common-law-va-civil-law.html