Chu
Hảo
I.
Trí thức và tầng lớp trí thức
Ở
nước ta hiện nay có một số khá đông người được xã hội, hoặc tự mình, coi là trí
thức. Nhưng “thế nào là một trí thức?” thì hình như chưa bao giờ được cắt nghĩa
một cách rõ ràng. Có thể đã có nhiều cá nhân trí thức, nhưng những con người
đơn lẻ ấy đã quy tụ lại (chủ yếu là thông qua diễn đàn, dư luận) thành một giai
tầng của xã hội như là tầng lớp trí thức chưa? Đặc điểm, tính cách của trí thức
Việt Nam là gì? Vai trò và trách nhiệm của trí thức trước vận mệnh của dân tộc
ta trong thời đại mới - thời đại kinh tế tri thức, thời đại hội nhập toàn cầu,
là như thế nào?
Mỗi
câu hỏi trên đây đều đặt ra một vấn đề thảo luận rất nghiêm túc và lý thú, có ý
nghĩa quan trọng đối với việc huy động sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
trong quá trình đổi mới - hội nhập - phát triển. Để đi đến đồng thuận chắc cần
phải có thời gian. Ở đây chúng tôi chỉ xin đặt vấn đề và gợi mở, mong các bạn đọc
cùng chia sẻ.
Ai
là trí thức? Đã từ lâu, ở nước ta tồn tại một khái niệm đơn giản: Những người
lao động trí óc là trí thức, chỉ cốt để phân biệt với những người lao động chân
tay như công nhân và nông dân. Một quan niệm bớt đơn giản hơn một chút thì cho
rằng hễ có trình độ học vấn từ cấp cao đẳng, đại học trở lên là trí thức. Trong
tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” viết năm 1947 Hồ Chủ tịch đã
dùng định nghĩa này. Theo chỗ tôi hiểu thì Người đã cố tình giải thích khái niệm
này (cũng như một số khái niệm khác) một cách hết sức đơn giản, dễ hiểu, thích
hợp với trình độ dân trí của nước ta thời đó. Ngày nay, chúng ta không nên quá
câu nệ vào việc giữ nguyên định nghĩa này của Bác Hồ.
Thật
ra ngay từ khi từ “tầng lớp trí thức” (intelligentsia) xuất hiện lần đầu tiên ở
Nga vào nửa đầu thế kỷ 19, và sau đó là từ “người trí thức” (intellectuel) xuất
hiện ở Pháp sau công xã Paris (1871), đã mang một ý nghĩa khá rõ ràng: đó là những
người không chỉ có học vấn hay trình độ chuyên môn cao, mà hơn hết phải là những
người quan tâm và có chính kiến trước những vấn đề chính trị - xã hội nóng bỏng
của thời cuộc. Cũng trong tinh thần cách mạng ấy Karl Marx đã coi trí thức là
những người có đủ tri thức để quan tâm và có chính kiến riêng đối với các vấn đề
của xã hội nên họ phải là những người: “phê bình không nhân nhượng những gì
đang hiện hữu, không nhân nhượng với nghĩa rằng họ không lùi bước trước kết luận
của chính quyền hoặc trước xung đột với chính quyền, bất cứ chính quyền nào”. Cần
phải hiểu rằng ở đây Marx chỉ muốn nhấn mạnh trách nhiệm xã hội của người trí
thức. “Những gì đang hiện hữu” là những bất cập của các chính sách xã hội hiện
hành, chứ không thể là những chính sách hợp lý, tiến bộ. Người trí thức có năng
lực phê phán và có tầm nhìn xa nên thường hay tỏ sự bất bình trước sự trì trệ
và bất hợp lý một cách công khai và thẳng thắn.
Với
những hiểu biết trên đây, chúng ta có thể suy ra rằng tầng lớp trí thức của xã
hội có thiên chức sau: 1) Tiếp thu và truyền bá tri thức KH&CN hoặc
VH&NT ; 2) Sáng tạo các giá trị mới của tri thức KH&CN hoặc VH&NT;
3) Đề xuất, phản biện một cách độc lập các chủ trương chính sách và biện pháp
giải quyết các vấn đề của xã hội; 4) Dự báo và định hướng dư luận xã hội.
Trong
đó, hai điểm đầu tiên là chung cho những người lao động trí óc. Còn hai điểm
sau chủ yếu là riêng cho tầng lớp trí thức.
Quan
niệm về trí thức trên đây là phổ quát đến với các xã hội văn minh cận, hiện đại.
Riêng ở nước ta, từ khi có lịch sử thành văn cho đến Cách mạng Tháng Tám năm
1945, quan niệm này có lẽ chỉ thích hợp trong một giai đoạn phát triển ngắn ngủi,
từ đầu đến giữa thế kỷ 20, khi xuất hiện tình huống giới trí thức mới (dùng chữ
quốc ngữ) có cơ hội trở thành một tầng lớp xã hội khá độc lập với chính quyền về
hoạt động nghề nghiệp và chính kiến. Ngoài giai đoạn này, chúng tôi e rằng chưa
bao giờ ở nước ta thực sự có một tầng lớp trí thức như cách hiểu thông thường của
thế giới.
Thường
ở ta, trí thức được gán một cách không đúng cho những người gọi là “có học”, chỉ
xuất hiện ở xã hội Việt Nam ở buổi đầu công nguyên từ khi nhà Hán du nhập Nho
giáo vào Việt Nam với mục đích giáo hóa và đào tạo quan lại bản xứ. Sau khi
giành được độc lập vào năm 939, các triều đại phong kiến ngày càng tôn sùng Nho
giáo; và đến đời nhà Trần (thế kỷ 13) thì Nho giáo đã được coi là hệ tư tưởng
chính thống cho đến hết các triều Nguyễn (đầu thế kỷ 20). Suốt gần một nghìn
năm ấy chỉ có một thứ được dạy và được học (một cách có hệ thống) là Nho giáo
(khác với sự chuyên biệt hạn hẹp của Phật giáo và Đạo giáo). Các Nho sĩ sau khi
đỗ đạt sẽ được bổ nhiệm làm các quan lớn, nhỏ trong hệ thống cai trị của Nhà nước
phong kiến. Các Nho sĩ thi trượt thì trở lại làng quê vừa dạy “chữ thánh hiền”
như một kế sinh nhai, vừa “dùi mài kinh sử” đợi kỳ thi sau, đợi được đi làm
quan để “cả họ được nhờ”!
Cái
cơ hội “đổi đời” dường như duy nhất ấy đã tạo ra, một mặt là cái mà chúng ta vẫn
thường tự ca ngợi là truyền thống hiếu học của dân ta, mặt khác, quan trọng hơn
đã tạo nên sự lệ thuộc đến nô dịch của những người “có học” vào Nhà nước phong
kiến. Và do đó, có thể nói rằng dưới các triều đại phong kiến ở nước ta chưa
bao giờ tồn tại một tầng lớp trí thức theo cách hiểu đúng đắn của từ này. Các
sĩ phu là những người “có học” có danh tiếng của các thời đại phong kiến, do vậy
hầu hết cũng chỉ là các “quan văn” mang sứ mệnh “phò chính thống” mà thôi - họ
không hẳn là người trí thức, hoặc tầng lớp trí thức, như cách hiểu thông thường.
Đến
giữa thế kỷ 19 cùng với sự suy đồi của triều Nguyễn, sự xâm lược của thực dân
Pháp và bước đầu tiếp cận với nền văn minh công nghiệp phương tây, tầng lớp Nho
sĩ ở nước ta đã phân hóa sâu sắc và xuất hiện những nhóm sĩ phu tiến bộ có đầu
óc canh tân - tiền thân của nhóm trí thức đầu tiên của nước ta nửa đầu thế kỷ
20. Những nhân vật điển hình có thể kể đến là Vũ Tông Phan (1800 - 1851, cùng với
Hội Hướng thiện); Nguyễn Trường Tộ (1828 - 1871); Nguyễn Lộ Trạch (1852 -
1895); Nguyễn Tư Giản (1823 - 1890); Phạm Phú Thứ (1820 - 1883) v.v... Đó chính
là những sĩ phu có đầu óc canh tân đầu tiên trong lịch sử nước ta, đặt nền móng
cho cuộc vận động giải phóng dân tộc vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 dù là
theo đường lối bạo lực, như các phong trào Cần Vương (Phan Đình Phùng, 1844 -
1895), và Đông Du (Phan Bội Châu, 1867 - 1940); hay chủ trương tiến hành một cuộc
cách mạng văn hóa - giáo dục như phong trào Duy Tân (Phan Châu Trinh, 1872 -
1920), và Đông Kinh nghĩa thục (Lương Văn Can, 1854 - 1927).
Vào
những năm đầu của thế kỷ 20, cùng với sự tàn lụi của chế độ phong kiến và sự
thiết lập chế độ của thực dân, ảnh hưởng của tư tưởng Dân chủ tư sản và khoa học
- kỹ thuật phương tây đã tràn vào xã hội Việt Nam thông qua Nhật Bản và Trung
Hoa. Trong bối cảnh đó phong trào Duy Tân và Đông Kinh nghĩa thục đã quy tụ được một tầng lớp sĩ phu trí
thức bao gồm các nho sĩ cách tân (Huỳnh Thúc Kháng, 1876 - 1947; Trần Quý Cáp, 1870 - 1908; Đào
Nguyên Phổ, 1861 - 1907 v.v...), và các trí thức mới dùng quốc ngữ và tiếng
Pháp (Trương Vĩnh Ký, 1837 - 1898; Phan
Khôi, 1887 - 1960; Nguyễn Văn Vĩnh, 1882 - 1936; Phạm
Quỳnh, 1892 - 1945; Nguyễn Văn Tố, 1889 - 1947 v.v...). Đây chính là tầng lớp
trí thức đầu tiên của nước ta.
Hoàn
cảnh lịch sử đã tạo ra cho một số người điều kiện có chỗ đứng khá độc lập với
chính quyền, có thể sống bằng nghề lao động trí óc của mình chứ không nhất thiết
phải ra “làm quan”, và tiếng nói của họ càng ngày càng có uy tín trong xã hội.
Họ phần đông là người hành nghề tự do như bác sĩ, kỹ sư, luật sư, thầy giáo, nhà
báo, nhà văn, hoạ sĩ, nhạc sĩ, và nghệ sĩ... Những phần tử ưu tú trong số đó
chính là tầng lớp trí thức mới, và nhiều người đã đóng vai trò nòng cốt trong
các tổ chức văn hóa hoạt động công khai. Đó là các hội, chẳng hạn Trí Tri, Khai
trí Tiến đức, Truyền bá Quốc ngữ và Tự lực Văn đoàn v.v... Là các báo hoặc tạp
chí, chẳng hạn Đông Dương, Nam Phong, Tiếng Dân, Tri Tân, Thanh Nghị, Khoa học
v.v... Tình trạng này đã tiếp diễn cho đến năm 1945 khi Cách mạng Tháng Tám
thành công, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã quy tụ được tầng lớp trí thức ấy tham gia vào
chính quyền cách mạng non trẻ của mình. Những nhân vật tiêu biểu như Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Tố, Phạm Khắc Hoè, Vũ Đình Hòe... (xuất
thân từ các sĩ phu Nho học); Tạ Quang Bửu, Trần Đăng Khoa, Tôn Thất Tùng, Trần
Đại Nghĩa, Nguyễn Xiển, Hồ Đắc Di, Nguyễn Văn Huyên.... (xuất thân từ tầng lớp
trí thức “Tây học”) đã và sẽ luôn là tấm guơng mẫu mực về phẩm tính cao quý của
người tri thức.
Tiếc
rằng từ đầu những năm 50 của đầu thế kỷ trước, ngay khi còn trong thời kỳ kháng
chiến chống Pháp, tầng lớp trí thức của chúng ta với những nhân cách văn hoá đẹp
đẽ ấy, lại rơi vào một thời kỳ phát triển đặc biệt mà chắc còn cần phải tốn nhiều
thời gian và công sức để nghiên cứu một cách nghiêm túc sự tồn tại và vai trò của
họ trong xã hội. Thời kỳ phát triển đặc biệt này có thể phân kỳ thành ba giai
đoạn 1945 - 1950 là thời kỳ cách mạng và kháng chiến nhưng hết sức “lãng mạn” của
tầng lớp trí thức yêu nước, 1950 - 1965 là thời kỳ du nhập một cách hoàn chỉnh
ý thức hệ đấu tranh giai cấp và phương pháp tư tưởng Maoist vào Việt Nam, qua
các phong trào chính huấn tư tưởng, cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức, phê
phán nhân văn gia phẩm và chống “xét lại”; 1965 - 1975 là thời chiến mọi nhu cầu
tinh thần và các giá trị văn hóa đều hướng vào mục tiêu giải phóng Miền Nam và
thống nhất đất nước; 1976 - 1986 là thời kỳ quan liêu bao cấp, đặc biệt là về mặt
tư tưởng; 1986 cho đến nay là thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Mỗi giai đoạn
trên đây đều có hoàn cảnh chính trị - kinh tế - xã hội khá đặc biệt đối với
sinh hoạt tinh thần - tư tưởng của tầng lớp có học.
Sau
giai đoạn giao thời 1945 - 1950, có lẽ tầng lớp trí thức trước cách mạng đã
không tồn tại nữa. Từ năm 1950 trở đi tầng lớp có học ngày càng đông; các cá
nhân trí thức thì lúc nào cũng tồn tại, có lúc hết sức hiếm hoi như giai đoạn
1950 - 1965; nhưng tầng lớp trí thức thì không tồn tại, ít nhất là cho đến trước
đổi mới (1986). Từ năm 1986 đến nay tầng lớp có học có bằng cấp cao ngày càng
đông nhưng phẩm tính tri thức thì chỉ thấy ở những cá nhân lẻ tẻ. Những cá nhân
này ngày càng đông cùng với quá trình mở rộng dân chủ trong sinh hoạt xã hội,
nhưng điều kiện để cho họ tự liên kết lại thành một tầng lớp có vị trí xác định
trong xã hội dân sự thì chưa đủ.
Cần
phải có những nghiên cứu nghiêm chỉnh về tầng lớp “có học” từ sau Cách mạng
tháng Tám cho đến nay để có được bức tranh hoàn chỉnh về trí thức Việt Nam từ
khi có độc lập dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Muốn vậy
ngoài việc thống kê đầy đủ sự biến động về số lượng và tính chất hoạt động của
những người có học vấn nói chung, cần phải nghiên cứu hồ sơ của những trí thức
tiêu biểu qua từng thời kỳ. Hồ sơ của những người như: Nguyễn Văn Tố, Nguyễn
Văn Huyên, Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, Hồ Đắc Di, Nguyễn Đình Thi... cũng như
của Phan Khôi, Trần Đức Thảo, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường... sẽ nói lên được
rất nhiều điều đáng quan tâm.
Vì
chưa có điều kiện tìm hiểu một cách có hệ thống nên ở đây chúng tôi đã không đề
cập đến tầng lớp trí thức (hoặc “có học ”) ở miền Nam trong giai đoạn 1954 –
1975.
II.
Phẩm tính “trí thức” Việt Nam
Đã
là trí thức thì ở nước nào cũng vậy, thời đại nào cũng vậy, đều có tính cách
chung là: Tôn thờ lý tưởng Chân - Thiện - Mỹ; Độc lập tư duy; Hoài nghi
lành mạnh; và Tự do sáng tạo. Tuy nhiên, mỗi dân tộc đều có tính cách
riêng, tầng lớp trí thức của mỗi dân tộc cũng có bản sắc riêng. Chúng ta thường
nghe nói: trí thức Trung Hoa thâm thúy (thâm nho), trí thức Nhật khiêm tốn (đến
khách khí), trí thức Nga sâu sắc đôn hậu, trí thức Mỹ thực dụng, trí thức Anh lạnh
lùng tỉnh táo, trí thức Pháp hào hoa phong nhã, v.v... Vậy trí thức Việt Nam có
đặc điểm gì? Chúng ta đã từng nghe nói đến tính cách “phò chính thống”; và tính
cách “quan văn”, tựu chung lại là tính “thích được chính quyền sử dụng”. Có nhiều
người nói là tính cách “tuỳ thời”, nghe có vẻ dễ chịu hơn chữ “cơ hội” hay là
“hèn” mà một số bạn đồng nghiệp của chúng ta không ngại ngần khẳng định. Nguyên
cớ gì mà phải “hèn”? Đã “hèn” làm sao có nhân cách? Thiếu nhân cách liệu có xứng
đáng là trí thức? Nhiều ý kiến cho rằng bi kịch của giới “trí thức” Việt Nam chính
là ở chỗ này!
Nhưng
như vậy có lẽ chưa được công bằng cho lắm! Bởi lẽ, còn có một thực tế khác nữa
cần phải xem xét. Đó là tính cách uyển chuyển, kết hợp “hành” và “tàng” của sĩ
phu - trí thức nước nhà. Điều kiện cho phép thì bung ra hoạt động; lúc khó khăn
thì tạm ẩn dật chờ thời, có khi “tàng” ngay trong lòng cường quyền với tâm trạng
“cấp lưu, dũng thoái” (trước dòng nước xiết, can đảm thoái lui). Thế nhưng ranh
giới giữa thái độ đúng đắn này với cái sự hèn thật là mong manh; chỉ “tự mình,
mình biết cho mình” chứ khó lòng mà phán xét từ phía ngoài. Vậy thực sự trí thức
Việt Nam có phẩm tính gì?
Phẩm
tính cao quý nhất của người trí thức là Tôn thờ lý tưởng Chân - Thiện -
Mỹ, không bị gò bó bởi ý thức hệ, dũng cảm đấu tranh cho lẽ phải, không khuất
phục trước uy quyền và không bị tha hóa bởi danh lợi. Nếu trong một xã
hội có nhiều người có học vấn cao đồng thời có những phẩm tính như vậy lại liên
kết được với nhau (chủ yếu bằng diễn đàn và giao lưu tư tưởng chứ không phải bằng
các hội đoàn) thành một tầng lớp, thì đấy là một xã hội dân sự lành mạnh, có
nhiều tiềm năng phát triển.
Tạm
gác sang một bên khái niệm “tầng lớp trí thức” như cần được làm rõ ở mục I.,
chúng ta hãy xem xét tầng lớp những người “có học” trong giai đoạn hiện nay phù
hợp với đối tượng điều chỉnh của NQTW7 khóa 10, mà từ những năm 60 thế kỷ trước
được Đảng và Nhà nước coi là “tầng lớp Trí thức XHCN”. Trước Cách mạng tháng
Tám, tầng lớp “có học”, như được xã hội đương thời công nhận, có thể bao gồm những
người có học vấn từ trung học, thâm chí tiểu học, trở lên. Ngày nay, những người
có bằng cấp từ đại học, cao đẳng trở lên, được coi là tầng lớp “trí thức ”. Con
số này vào khoảng 2, 6 triệu. Trong đó có bằng Tiến sĩ khoảng 16 nghìn, Thạc sĩ
20 nghìn, Giáo sư khoảng 1, 2 nghìn và Phó Giáo sư khoảng 7 nghìn. Lực lượng
này nằm đông nhất là trong các cơ quan quản lý của Đảng và Nhà nước, sau đó là ở
các trường học, bệnh viện, các lực lượng quân đội an ninh, và doanh nghiệp. Lực
lượng này cũng được tập hợp trong một số Hội hoặc Liên hiệp hội như: Liên hiệp
các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các Hội Văn hóa và Nghệ thuật
Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam...
Những
nét đặc trưng của “ tầng lớp trí thức XHCN ” này là gì? Ngoài những đặc tính được
Đảng và Nhà nước và phần nào là xã hội thừa nhận là ưu điểm, là tích cực như: Yêu
Tổ quốc và CNXH; Trung thành với Đảng và Nhân dân; Cần cù, thông minh,sáng tạo;
Không ngại khó khăn gian khổ... thì những tiêu cực không thể phủ nhận được
là hết sức điển hình. Đó là:
1. Hời
hợt trong tư duy và thiếu nghiêm túc trong nghiên cứu.
2. Tính
cơ hội, thực dụng và vụ lợi trong hành xử.
3. Ưa
thành tích và chấp nhận sự giả dối một cách dễ dàng.
4. Thiếu
tinh thần hợp tác và ít lòng vị tha.
Tất
cả những mặt tiêu cực điển hình của tầng lớp có học nói trên đều xuất phát từ một
nguyên nhân chính là sự mất dân chủ trong sinh hoạt tư tưởng, trước hết trong nội
bộ Đảng, rồi từ đó trong toàn xã hội. Sự mất dân chủ này đã bắt đầu từ đầu những
năm 50 của thế kỷ trước, sau chiến dịch Biên giới, khi ý thức hệ đấu tranh giai
cấp và phương pháp tư tưởng Mao Trạch Đông, tràn vào Việt Nam theo con đường
chính thống, được một bộ phận chủ chốt của Đảng tiếp thu và áp dụng một cách rốt
ráo cho đến tận trước Đại hội VI.
Những
năm đầu của thời kỳ đổi mới, phát huy dân chủ và tự do tư tưởng đã được Đảng đề
xướng (qua chủ trương “cởi trói” của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh) và được toàn
dân hân hoan đón nhận, nhất là tầng lớp “có học”, đặc biệt là giới văn nghệ sĩ
“được cởi trói”. Nhưng tiếc rằng chỉ ít năm sau đó không khí dân chủ trong sinh
hoạt tư tưởng dần dần bị loãng hẳn đi cho đến trước Đại hội 10. Khi Đảng chủ
trương lấy ý kiến của quần chúng đóng góp cho văn kiện Đại hội 10, bầu không
khí dân chủ lại đuợc thổi vào một luồng sinh khí mới từ nhân dân. Tiếc rằng
ngay sau Đại hội 10 cho đến nay, càng ngày càng có những biểu hiện đáng lo ngại
về thực chất của nền dân chủ của chúng ta. Điều này được thể hiện khá rõ trong
việc quản lý các hoạt động báo chí và xuất bản gần đây.
Báo
chí và xuất bản là mặt tiền, là thước đo của mỗi nền dân chủ. Chúng ta muốn xây
dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh thì trước hết phải xây dựng được
một nền báo chí và xuất bản dân chủ và công bằng. Sách và báo chí còn là vật
mang, là phương tiện trường tồn của các nền văn hóa. Chúng ta muốn có một nền
văn hóa tiên tiến, thấm đượm bản sắc dân tộc thì một lần nữa, trước hết phải
xây dựng được một nền báo chí và xuất bản tiên tiến và nhân bản. Những nhiệm vụ
nặng nề ấy không phải của riêng ai mà của tất cả: Nhà nước, cộng đồng người viết
và cộng đồng người đọc.
III.
Quan điểm, định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng tầng lớp trí thức ở Việt
Nam
1.
Các bài học lịch sử
Khẩu
hiệu “Trí, phú, địa hào đào tận gốc, trốc tận rễ”, nghe nói có từ thời Xô Viết
Nghệ Tĩnh, nhưng hình như không có văn bản nào chứng tỏ đó là chủ trương chính
thức của Đảng Cộng sản. Tuy nhiên sau Cách mạng tháng Tám, nhất là sau Đại hội
lần thứ 2, nói chung khẩu hiệu này đã được thực hiện ở các mức độ khác nhau, trừ
một số trường hợp được chính phủ Cụ Hồ trọng dụng, nâng đỡ ngay từ đầu hoặc có
hoàn cảnh đặc biệt mà cách mạng không thể bỏ qua. Cùng với thắng lợi của cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chúng ta đã trả giá đến tận ngày nay cho
thái độ kỳ thị của cách mạng đối với các tầng lớp trí thức, công thương gia và
địa chủ.
Thái
độ kỳ thị này cũng giống hệt như thái độ của những người cộng sản Nga từ sau
Cách mạng tháng 10 đối với tầng lớp trí thức của nước họ. Ngay sau Cách mạng
tháng 10, hàng ngàn gia đình trí thức Nga đã buộc phải lưu vong ra nước ngoài.
Số còn lại hầu hết đã trở thành đối tượng của cách mạng và dần dần không còn tồn
tại như một tầng lớp xã hội nữa: Số muốn giữ nhân cách trí thức thì bị đàn áp
không những về mặt tư tưởng mà thậm chí bị tù tội ở các khu cải tạo; số khác tự
đánh mất mình bằng thái độ “chùm chăn” hoặc cơ hội chính trị. Trong cuốn sách
“Về trí thức Nga” (ở mục Tài liệu tham khảo) các tác giả cũng phân tích khá sâu
sắc sự hình thành về phẩm chất và thái độ chính trị của tầng lớp có học (mà có
người gọi là “trí thức nửa mùa”) trong suốt thời kỳ Xô Viết cũ. Họ chỉ ra rằng
nhà nước Xô Viết cũ đã thực hiện chính sách “cào bằng giá trị” và “đồng nhất xã
hội” để không còn tồn tại tầng lớp tinh hoa - tầng lớp trí thức không đáng tin
cậy dưới con mắt của tầng lớp lãnh đạo. Một số nhỏ cá nhân trí thức tiêu biểu
đã chỉ được sử dụng như những bông hoa làm cảnh cho chế độ mà thôi!
Tình
trạng này không khác mấy so với các biến cố đã xảy ra ở Trung Quốc đối với tầng
lớp trí thức, nhất là trong cuộc cách mạng văn hóa hồi những năm 60 và cuộc vận
động dân chủ hồi cuối những năm 80. Tầng lớp trí thức ở các nước xã hội chủ
nghĩa cũ ở Đông Âu cũng như vậy, cũng hầu như tan rã sau những biến cố thăng trầm.
Câu
hỏi được đặt ra là: Vì sao tất cả các nước theo xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo
của các Đảng Cộng sản đều có một kết cục như nhau đối với tầng lớp trí thức như
vậy? Câu trả lời có thể là: Vì trong tất cả các nước ấy đã không thực sự có tự
do ngôn luận và tự do tư tưởng. Tình trạng đó đã bắt đầu từ khi Lê Nin áp dụng
nguyên tắc Tập trung Dân chủ trong Đảng Cộng sản Nga trước và sau Cách mạng
tháng 10 và trở thành truyền thống của các Đảng Cộng sản. Thay vì Dân chủ Tập
trung, tức là trước hết phải thực hành Dân chủ, tôn trọng các ý kiến khác nhau
kể cả khi tuân theo nguyên tắc: thiểu số phục tùng đa số, cấp dưói phục tùng cấp
trên v.v... các Đảng Cộng sản đã áp dụng nguyên tắc Tập trung là chủ yếu, Dân
chủ chỉ là thêm vào. Sau khi nắm chính quyền, nguyên tắc Tập trung Dân chủ sai
lầm này lại được áp dụng trong toàn bộ máy Nhà nước và các đoàn thể chính trị -
xã hội.
Cơ
chế mất dân chủ này đã xiết chặt cái “vòng kim cô” mất lập trường giai cấp và
chệch hướng XHCN lên toàn bộ sinh hoạt tinh thần - tư tưởng trong nội bộ Đảng
và toàn xã hội ở tất cả các nước đã áp dụng mô hình chủ nghĩa theo kiểu Xô Viết.
Cơ
chế mất dân chủ với cái “vòng kim cô” ấy đã kìm hãm sự phát triển của đất nước
ta đặc biệt từ khi giải phóng miền Nam: Đất nước đã thống nhất, nhưng lòng dân
vẫn chưa quy tụ về một cõi, khối đại đoàn kết dân tộc không được như chúng ta
mong muốn, nhiều khi không có sự đồng thuận xã hội trong những vấn đề quan trọng
của đất nước.
2.
Quan điểm và định hướng
Trong
quan điểm và định hướng nhất thiết chúng ta phải khẳng định rằng: Cần phải tạo
điều kiện thuận lợi cho tầng lớp trí thức thực thụ được hình thành và phát triển
như Nghị quyết của TW Đảng về Xây dựng đội ngũ trí thức đã nêu rõ. Muốn vậy, điều
cốt lõi là phải thực hành nghiêm chỉnh chế độ dân chủ trong sinh hoạt tư tưởng.
Phát
huy dân chủ phải được đặt trên nền tảng mục đích chung của dân tộc là xây dựng
một quốc gia “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Mục
đích chung ấy là quyền lợi của dân tộc, phải được đặt lên trên hết, trên mọi chủ
thuyết, mọi ý thức hệ và mọi lợi ích của các nhóm xã hội khác nhau.
Dân
chủ không phải là sản phẩm chỉ của phương Tây (dù là Hy Lạp cổ đại hay Tây Âu
và Bắc Mỹ hiện đại) mà là sản phẩm của cả nhân loại, trong đó có phương Đông.
Phật giáo hết sức đề cao Đối thoại và Khoan dung, là cốt lõi sâu xa của Dân chủ.
Dân chủ là một chế độ, trong đó mọi công dân thực có quyền được nhận xét, phê
phán và chất vấn trực tiếp các cấp lãnh đạo (ở nước ta là của Đảng và của Nhà
nước). Đúng như lời của Nelson Mandela nói: “Bất cứ ai muốn phát biểu có thể được
nói. Đó là Dân chủ trong hình thức thuần tuý nhất. Có thể không tránh khỏi tình
trạng dẳng cấp giữa vị trí quan trọng của người này với người kia, nhưng dù là
lãnh tụ hay dân thường, tướng tá hay thày thuốc, buôn bán hay nông dân, đại chủ
hay tá điền, người nào cũng được nói... chính đó là nền tảng của Dân chủ: Tất cả
mọi người đều được tự do phát biểu ý kiến của mình và tất cả đều bình đẳng như
là công dân”.
Định
hướng quan trọng nhất mà chúng ta cần là phải làm rõ nội dung công thức “Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” như cố Thủ tướng Võ Văn
Kiệt đã nói: “Về công thức Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân
làm chủ, chúng ta cũng đã từng đưa ra từ rất lâu, ngày nay cũng vẫn được nhắc lại
như cũ. Nếu không làm rõ nội hàm của những mối quan hệ đó thì vẫn lâm vào tình
trạng nói một đằng làm một nẻo. Chúng ta tiếp tục lúng túng và khó tránh khỏi sẽ
lại phạm vào những sai lầm trong việc đảm bảo quyền làm chủ thực sự của nhân
dân, trong khi thường xuyên nói đến công thức kể trên như một cách để nói, chứ
không phải nói để làm, nói vậy mà không phải vậy. Thực chất nội dung của công
thức đó chính là đảm bảo quyền Dân chủ trong Đảng, xây dựng được Nhà nước pháp
quyền vững mạnh, phát huy quyền tự do Dân chủ của công dân đã được quy định
trong Hiến pháp của Nhà nước CHXHCN Việt Nam”.
Rút
kinh nghiệm từ những bài học lịch sử, căn cứ vào những quan điểm và định hướng
kể trên, để nâng cao chất lượng thực hành Dân chủ đối với đội ngũ trí thức (hay
là “có học” như nói ở trên) cần thiết phải có các giải pháp sau đây:
3.1.
Trước hết phải thực hành Dân chủ ở trong nội bộ Đảng.
Đảng
Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, trên thực tế Đảng lãnh đạo và chi phối
toàn bộ hoạt động của xã hội. Nếu trong Đảng mà không thực sự có Dân chủ thì
ngoài xã hội không thể có Dân chủ.
Trước
hết trong Đảng phải thực sự tôn trọng nguyên tắc Dân chủ Tập trung chứ không phải
Tập trung Dân chủ. Đại hội đại biểu của Đảng là cơ quan quyền lực cao nhất, sau
đó đến Ban chấp hành Trung ương, rồi mới tới Bộ Chính trị. Nguyên tắc này lâu
nay bị vi phạm, thường là Bộ Chính trị có quyền hạn tuyệt đối không những trong
nội bộ Đảng, mà còn đối với mọi vấn đề quan trọng nhất của Nhà nước mà lẽ ra phải
là trách nhiệm của Quốc hội.
Trong
nội bộ Đảng, mọi Đảng viên nên đều phải được phát biểu và bảo vệ chính kiến của
mình song song với nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, cần phải tôn trọng và tạo
mọi điều kiện để ý kiến của thiểu số được thảo luận một cách công khai và bình
đẳng.
Cơ
chế dân chủ trực tiếp cần phải được phát huy tối đa trong các cuộc bầu cử vào
các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.Việc bổ nhiệm Đảng viên vào các vị
trí lãnh đạo trong hệ thống Nhà nước phải được tiến hành một cách dân chủ hơn.
Không áp đặt tiêu chuẩn cấp uỷ Đảng vào tiêu chuẩn lãnh đạo các cấp nhà nước. Một
vị trí lãnh đạo nhà nước có thể tiến cử hai Đảng viên có ý kiến khác nhau về chủ
trương về cách thực hiện để Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước lựa chọn, v.v....
Chỉ
trong những điều kiện tối thiểu như trên thì tầng lớp trí thực thực thụ của nước
ta mới có thể tự hình thành và phát triển một cách lành mạnh được.
3.2.
Phải từng bước xây dựng một xã hội dân sự lành mạnh.
Trong
điều kiện chế độ chính trị có một Đảng lãnh đạo, những khiếm khuyết do chế độ
toàn trị gây ra có thể được khắc phục, điều chỉnh một cách hữu hiệu bằng xã hội
dân sự. Xã hội dân sự lành mạnh là đối trọng, chứ không phải là đối lập với Nhà
nước. Sự đồng thuận xã hội được giải quyết chủ yếu thông qua xã hội dân sự .
Trước
mắt phải xây dựng được một Luật về Hội. Các hội nghề nghiệp và quần chúng là
thành phần quan trọng nhất của xã hội dân sự. Quyền tự do thành lập Hội được
ghi trong Hiến pháp phải được thể hiện đầy đủ trong Luật về Hội.
Chỉ
trong một xã hôi dân sự lành mạnh như vậy tầng lớp trí thức mới phát huy được
phẩm tính trí thức của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3.3.
Phải thực sự tôn trọng quyền tự do ngôn luận của công dân như được ghi trong Hiến
pháp.
Tự
do ngôn luận là quyền được bình đẳng phát biểu công khai ý kiến của mỗi công
dân. Đó là cốt lõi của Dân chủ, không có tự do ngôn luận thì không thể dân chủ.
Báo
chí và xuất bản sách là công cụ chủ yếu để thực hiện tự do ngôn luận. Luật về
Báo chí và Xuất bản cần được cải thiện hơn nữa, hướng tới chấp nhận nền báo chí
và xuất bản tư nhân và mỗi cá nhân tự chịu trách nhiệm về các ấn phẩm của mình.
Không
có tự do ngôn luận thì những người “có học” chỉ có thể là những người là những người
lao động trí óc ( thậm chí rất giỏi ) nhưng không thể trở thành một tầng lớp
trí thức mà các xã hội văn minh coi là tinh hoa.
Nguồn:http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/thu_tim_hieu_tang_lop_tri_thuc_viet_nam.html
Hà
Nội, tháng 6 năm 2010.
________________
Tài
liệu tham khảo:
1.
Hồ Chí Minh, Sửa đổi lề lối làm việc, 1947.
2. N.M Voskpesenskaia và N.B Davletshina, Chế độ Dân chủ - Nhà nước và xã hội (Phạm Nguyên Trường dịch), NXB Tri thức, Hà Nội 2009.
3. Nhiều tác giả (Nga), Về Trí thức Nga, (La Thành và Phạm Nguyên Trường dịch), NXB Tri thức, Hà Nội 2009.
4. Việt Phương, Dân chủ, Tài liệu tham khảo cá nhân, Hà Nội, 9 - 2008.
5. Trần Hữu Dũng, Dân chủ và phát triển, Thời đại mới, Số 10 tháng 3 năm 2007.
6. Võ Văn Kiệt, “Đóng góp ý kiến vào báo cáo tổng kết lý luận và thực tiễn hai mươi năm đổi mới”, 2006.
2. N.M Voskpesenskaia và N.B Davletshina, Chế độ Dân chủ - Nhà nước và xã hội (Phạm Nguyên Trường dịch), NXB Tri thức, Hà Nội 2009.
3. Nhiều tác giả (Nga), Về Trí thức Nga, (La Thành và Phạm Nguyên Trường dịch), NXB Tri thức, Hà Nội 2009.
4. Việt Phương, Dân chủ, Tài liệu tham khảo cá nhân, Hà Nội, 9 - 2008.
5. Trần Hữu Dũng, Dân chủ và phát triển, Thời đại mới, Số 10 tháng 3 năm 2007.
6. Võ Văn Kiệt, “Đóng góp ý kiến vào báo cáo tổng kết lý luận và thực tiễn hai mươi năm đổi mới”, 2006.