Nguyễn
Trường Tộ (chữ Hán: 阮長祚,
1830 ? – 1871), còn được gọi là Thầy Lân; là một danh sĩ, kiến trúc sư, và là
nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19.
A.
Thân thế và sự nghiệp
Ông
sinh trong một gia đình theo Công giáo Rôma từ nhiều đời tại làng Bùi Chu, thuộc
huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.
Thân
phụ là Nguyễn Quốc Thư, một thầy thuốc Đông y, nhưng mất sớm.
1.
Những năm học tập
Thuở
thiếu thời, Nguyễn Trường Tộ học chữ Hán với cha và các thầy ở trong vùng: Tú
Giai ở Bùi Ngõa, Cống Hữu ở Kim Khê và quan huyện Địa Linh về hưu ở Tân Lộc.
Ông
thông minh, học giỏi, nên được truyền tụng là "Trạng Tộ". Thế nhưng,
ông không đỗ đạt gì, có thể vì ông là người Công giáo nên không được đi thi, hoặc
là ông không muốn đi theo con đường khoa cử
Sau
khi thôi học, ông mở trường dạy chữ Hán tại nhà, rồi được mời dạy chữ Hán trong
Nhà chung Xã Đoài (nay thuộc xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An). Tại
đây, ông được Giám mục người Pháp tên là Gauthier (tên Việt là Ngô Gia Hậu, về
Xã Đoài nhận nhiệm vụ từ năm 1846) dạy cho học tiếng Pháp và giúp cho có một số
hiểu biết về các môn khoa học thường thức của phương Tây.
Cuối
năm 1858, ông đi cùng Giám mục Gauthier vào Đà Nẵng tránh nạn "phân
tháp" (sáp nhập hai ba gia đình Công giáo vào trong một làng không Công
giáo, chứ không cho ở tập trung như trước).
Đầu
năm 1859, Giám mục Gauthier đưa ông sang Hương Cảng (Hồng Kông) và một số nơi
khác...
2.
Làm phiên dịch cho quân Pháp
Đầu
tháng 2 năm 1861, sau khi chiến tranh ở Ý và ở Trung Quốc kết thúc, Đô đốc
Léonard Charner được lệnh gom quân ở Trung Quốc đem về Sài Gòn mở rộng vùng chiếm
đóng. Với quyết tâm này, Charner đã thuyết phục được một số giáo sĩ Pháp đang
lánh nạn ở Hồng Kông, trong số đó có Giám mục Gauthier, về Sài Gòn cộng tác. Nhận
lời, Giám mục Gauthier dẫn Nguyễn Trường Tộ cùng về với mình. Sau đó, ông Tộ nhận
làm "từ dịch" (phiên dịch các tài liệu chữ Hán) cho thực dân Pháp.
Trong
bài "Trần tình" (viết xong ngày 7 tháng 5 năm 1863), Nguyễn Trường Tộ
phân trần rằng: lúc bắt đầu khởi hấn (đầu năm 1859, tức lúc quân Pháp chuẩn bị
tấn công thành Gia Định), quân Pháp có mời ông cộng tác, nhưng ông một mực từ
chối. Sau khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ (tháng 2 năm 1861), ông thấy rằng phải tạm
hòa theo đề nghị của Pháp, để dưỡng quân và củng cố lực lượng. Chính vì thế mà
Nguyễn Trường Tộ đã nhận làm từ dịch cho Pháp để mong góp phần vào việc hòa
đàm...[12]
Ngày
29 tháng 11 năm 1861, Đô đốc Louis-Adolphe Bonard lên thay Đô đốc Léonard
Charner, và ông này liền xua quân mở rộng cuộc chiến. Thấy vậy, Nguyễn Trường Tộ
không trông mong gì ở cuộc "nghị hòa" nên xin thôi việc.
3.
Hết lòng vì đất nước
Sau
khi thôi việc, Nguyễn Trường Tộ đã dồn hết tâm trí vào việc thảo kế hoạch giúp
nước. Nhờ sự hiểu biết sâu rộng về các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa,
khoa học kỹ thuật...; đến đầu tháng 5 năm 1863, thì ông đã thảo xong 3 bản điều
trần gửi lên Triều đình Huế là: "Tế cấp luận", "Giáo môn luận"
và "Thiên hạ phân hợp đại thế luận".
Nhận
thức được bối cảnh và khuynh hướng vận động chung của thế giới thời bấy giờ,
Nguyễn Trường Tộ có những nhận định:
Ngày
nay các nước phương Tây đã bao chiếm suốt từ Tây Nam cho đến Đông Bắc, toàn
lãnh thổ châu Phi cho tới Thiên Phương, Thiên Trúc, Miến Điện, Xiêm La, Tô Môn
Đáp Lạp, Trảo Oa, Lữ Tống, Cao Ly, Nhật Bản, Trung Quốc và các đảo ở ngoài biển,
kể cả Tây châu, không đâu là không bị chẹn họng bám lưng. Nước Nga thì từ Tây Bắc
đến Đông Nam gồm tất cả các nước Đại Uyển, Cốt Lợi Cán, Mông Cổ và các xứ ở Bắc
Mãn Châu, không đâu là không chiếm đất và nô dịch dân những nơi đó. Ở trên lục
địa, tất cả những chỗ nào có xe thuyền đi đến, con người đi qua, mặt trời, mặt
trăng soi chiếu, sương mù thấm đọng thì người Âu đều đặt chân đến, như tằm ăn
cá nuốt, ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa; ai hòa với họ
thì được yên, ai cự lại thì dùng binh lực giao tranh; trong thiên hạ không ai
dám kháng cự lại họ [14]Song tất cả đều không được phúc đáp. Đầu năm 1864, ông
lại gửi cho đại thần Trần Tiễn Thành một bản điều trần nữa (hiện thất lạc)[15]
để thuyết phục Triều đình Huế nên tạm hòa với Pháp và mở rộng bang giao.
Trong
thời gian phái bộ Phan Thanh Giản ở Pháp về Sài Gòn chờ tàu để đi Huế (từ ngày
18 đến 24 tháng 3 năm 1864), ông đã đến tiếp xúc với các chánh phó sứ để thảo
luận nhiều vấn đề liên quan đến việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Sau đó, ông
viết "Lục lợi từ" (còn có tên "Dụ tài tế cấp bẩm từ", tháng
6 năm 1864) rồi gửi lên Triều đình, nhưng sau đó cũng không được phúc đáp.
Trong
quãng thời gian đó, năm 1862-1864, bằng sự hiểu biết của mình, ông đã thiết kế
và chỉ đạo việc xây cất tu viện Dòng Thánh Phaolô Sài Gòn (nay ở số 4 đường Tôn
Đức Thắng). Đây là một công trình kiến trúc theo kiểu châu Âu có quy mô và có
giá trị bền vững cho đến tận ngày nay.
Thành
công ấy đã làm cho tiếng tăm Nguyễn Trường Tộ lan rộng. Khoảng năm 1864, ông được
người Anh mời sang dự một hội nghị khoa học ở Anh, nhưng chưa đi thì đã bị thực
dân Pháp ngăn trở, có lẽ vì họ không muốn ông liên lạc với người Anh .
Khoảng
cuối năm 1864 cho đến đầu năm 1865, Nguyễn Trường Tộ đã gửi liên tiếp ba bản điều
trần cho đại thần Trần Tiễn Thành, và hai bản điều trần cho đại thần Phạm Phú
Thứ, để nhờ đưa các vấn đề quan trọng lên vua và Triều đình. Hai văn bản gửi
cho ông Thứ, vì chưa tìm thấy nên không rõ nội dung. Còn ba văn bản gởi cho ông
Thành, thì có thể là các bài: "Góp ý về việc mua và đóng thuyền máy"
(cuối 1864), "Góp ý về việc đào tạo người điều khiển và sửa chữa thuyền
máy" (tháng 2, 1865) và "Khai hoang từ" (tháng 2, 1866).
Sau
đó, Nguyễn Trường Tộ được triệu ra Huế để giải quyết vụ tàu London. Về vụ việc
này, sách Đại Nam thực lục kể đại ý như sau: "Trước đây, Hoàng Văn Xưởng
đi Hương Cảng có đặt mua tàu London. Không ngờ bị Phô Na (chủ hãng tàu) lừa dối,
tàu đã cũ nát, chưa đi tới nơi thì đã bị sóng gió làm hư hại. Sau khi sửa chữa ở
Gia Định, họ đưa tàu đến cửa Thuận An (Huế) bắt phải mua [19]. Nhưng sau khi đệ
trình lên cách giải quyết, thì không được thi hành nên ông có lẽ chán nản, và
xin về Nghệ An (ngày 10 tháng 4 năm 1866). Trong bức thư gửi Trần Tiễn Thành
(viết từ Nghệ An đề ngày 15 tháng 6 năm 1866), thì tâm trạng của ông lúc bấy giờ
khá u uất. Một phần vì ông nóng lòng việc canh tân đất nước, một phần vì thấy
vua và một số quan lại bảo thủ hãy còn nghi kỵ mình...
Mặc
dù vậy, Nguyễn Trường Tộ vẫn không nản chí. Về tới Nghệ An, việc đầu tiên ông
làm là viết thư cho Triều đình để báo tin về việc Giám mục Gauthier nhận lời đi
Pháp để mua các thứ cần thiết về mở trường kỹ thuật ở Huế. Sau đó, ông được lệnh
đi cùng Giám mục Gauthier ra Huế để chuẩn bị đi Pháp. Khi ấy là giữa tháng 8
năm 1866.
Trong
khoảng 3 tháng ở quê nhà, ông giúp Tổng đốc Nghệ An Hoàng Tá Viêm đào kênh Sắt ở
Hưng Nguyên. Truyện "Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ" kể:
Năm
Tự Đức 19, Bính Dần (1866), ngũ nguyệt (tháng 5), Bộ sai quan Tổng đốc Nghệ An
là Hoàng Tá Viêm ra đào Kênh Sắt...Người viết thư cậy ông Tộ đi khám xem hình đất,
thế đất, chỉ lối cho mà đào... Kênh hoàn thành, ông Tộ có làm bài thơ mừng Kênh
Sắt.
Ngày
17 tháng 8 năm 1866, Nguyễn Trường Tộ cùng với Giám mục Gauthier và Linh mục
Nguyễn Điều tới Huế. Lần này, Nguyễn Trường Tộ được vua Tự Đức tiếp kiến ở nhà
Tả Vu trong Tử Cấm thành (Huế), được hỏi han nhiều điều, và được nhà vua nghe
theo.
Ngày
15 tháng 9 năm đó, phái đoàn Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ đi tàu của
nhà vua vào Sài Gòn, và ở đó chờ tàu. Trong thời gian lưu lại, hai ông đã có những
cuộc tiếp xúc với Đô đốc Lagrandière và Lãnh sự Tây Ban Nha để nắm tình hình
theo yêu cầu của Triều đình. Sau đó, Nguyễn Trường Tộ đã có 6 bản báo cáo gởi về
Huế. Qua các văn bản này, ông trình bày cho Triều đình thấy là có một khác nhau
giữa ý đồ của của Pháp soái (tức Đô đốc Lagrandière) ở Sài Gòn và chính sách của
chính phủ ở Pháp. Pháp soái thì muốn bằng mọi cách thôn tính hoàn toàn sáu tỉnh
Nam Kỳ và áp đặt trên phần đất còn lại của Việt Nam một hiệp ước bảo hộ; trong
khi ấy ở chính quốc, thì có nhiều dư luận chống đối các cuộc phiêu lưu quân sự ở
các vùng đất xa xôi...[23].
Ngày
10 tháng 1 năm 1867, phái đoàn đáp tàu L’orne đi Pháp. Trong 8 tháng ở đây, họ
đã mua sách vở, dụng cụ, máy móc...để lập trường học kỹ thuật ở Huế. Ngoài ra,
Giám mục Gauthier cũng đã tới Bộ Ngoại giao Pháp, Bộ Hàng hải và Thuộc địa Pháp
để xin tài trợ cho các chương trình của mình; đồng thời tiếp xúc với một số
thương gia và kỹ nghệ gia người Pháp. Ngày 25 tháng 11 năm 1867, phái đoàn trở
về Việt Nam.
Theo
Linh mục Nguyễn Bá Cần (tác giả sách Nguyễn Trường Tộ: Con người và di thảo),
thì có lẽ Nguyễn Trường Tộ đã theo Giám mục Gauthier sang Rôma (Ý), rồi được
vào chầu Giáo hoàng Piô IX nhân chuyến đi này [23].
Ngày
29 tháng 2 năm 1868, phái đoàn Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ về tới Huế.
Cùng theo về còn có hai Linh mục, một giáo dân (bác sĩ Hemaiz5) và một người thợ
máy (tất cả đều là người Pháp, và đều do Giám mục Gauthier vận động được). Sau
khi xem xét các thứ mua về cho trường học và các thứ mà Bộ Hàng hải Pháp gửi tặng,
vua Tự Đức cho phép Giám mục Sohier được xây trường học kỹ thuật trên mảnh đất
đã đề nghị (nằm giữa nhà thờ Kim Long và Tòa Giám mục Huế)...[24]. Theo tờ tấu
của Viện Cơ mật đề ngày 4 tháng 3 năm 1868, thì sau đó các thành viên trong
đoàn đều được nhà vua ban thưởng tiền và lụa...
Đi
Pháp về, trong thời gian từ cuối tháng 2 cho tới cuối tháng 4 năm 1868, Nguyễn
Trường Tộ đã gởi cho Triều đình, ít nhất là 9 văn bản. Ngoài văn bản đầu tiên
(sau khi về tới Huế), còn nói về việc mở trường và phát triển đất nước, hầu hết
các văn bản khác đều xoay chung quanh vấn đề sứ bộ đi Pháp. Bởi Triều đình vua
Tự Đức lúc bấy giờ chỉ quan tâm tới việc làm sao lấy lại được 6 tỉnh Nam Kỳ đã
mất vào tay Pháp. Sau những cuộc thương thuyết không thành công giữa Trần Tiễn
Thành và Đô đốc Lagrandière tại Sài Gòn cuối tháng 1 năm 1868, vua Tự Đức nhất
định cử một phái bộ sang Pháp để điều đình với chính phủ Pháp. Đối với vấn đề
quan trọng này, quan điểm trước sau như một của Nguyễn Trường Tộ là phải tự lực
tự cường để lấy lại phần đất đã mất, chứ không thể van xin nài nỉ. Tuy nhiên,
ông vẫn sẵn sàng đi theo sứ bộ và đã có những kiến nghị rất cụ thể cho chuyến
đi.
Khoảng
giữa tháng 3 năm 1868, Nguyễn Trường Tộ được cấp phát ngựa và chi phí về Nghệ
An thăm mẹ già trước lúc lên đường sang Pháp. Tuy nhiên, sau khi trở lại Huế,
ông đổi ý, kiến nghị với Triều đình là không nên sai sứ bộ sang Pháp điều đình
mà chỉ nên gởi sứ bộ vào Sài Gòn thương thuyết.
Việc
đi Pháp vì thế phải đình hoãn không thời hạn. Ngày 18 tháng 4 năm 1868, Bộ Lễ lại
cấp phép cho Nguyễn Trường Tộ trở về Nghệ An. Trước đó, ngày 7 tháng 4 năm
1868, Giám mục Gauthier cũng đã lên đường trở về Xã Đoài vì thấy việc mở trường
kỹ thuật không được nói tới nữa [25].
Về
lại Nghệ An, Nguyễn Trường Tộ bắt tay vào việc vận động dân vùng Xuân Mỹ (Nghệ
An) thường xuyên bị úng lụt đến nơi ở mới [26], đồng thời xây cất Nhà Chung Xã
Đoài[27]. Trong những năm này, ông vẫn đều đặn gửi lên triều đình Huế các bản
điều trần về thời sự.
Tháng
10 (âm lịch) năm Tự Đức thứ 23 (1870), Nguyễn Trường Tộ gửi thư lên Triều đình
đề nghị lập lãnh sự ở Sài Gòn và sứ quán ở Pháp để nắm tình hình. Đầu tháng 11
năm đó, ông lại xin được vào Nam tổ chức đánh úp quân Pháp để thu hồi 6 tỉnh
Nam Kỳ, nhân lúc Pháp đang thua Phổ (Đức) và Cách mạng Pháp đang nổi dậy.
Ngày
28 tháng 12 năm 1870, trong bản tấu của Viện Cơ mật dâng lên vua Tự Đức có đoạn:
..."Bọn
thần tuân phụng xét duyệt các khoản mật trần của Nguyễn Trường Tộ thấy y cũng
có lòng với ta và chính lúc này là lúc có thể thừa cơ hội được. Ý kiến của bọn
thần cũng đồng với các lý lẽ của thần Trần Tiễn Thành tâu xin. Nhưng xét vì đây
là việc quân quốc trọng sự cần phải bàn thảo kín đáo kỹ lưỡng mới bảo đảm không
nguy hiểm trở ngại sau này. Nay bọn thần chưa giáp mặt y bàn tính mà đã nội
giao cho y qua các nước thám sát những việc cần phải làm, lỡ ra có chỗ nào chưa
được chu đáo, sợ sẽ sinh trở ngại. Vậy xin cho Bộ Lễ lấy lý do phái đem người
qua Tây học tập, khẩn tư cho tỉnh thần Nghệ An lập tức cấp ngựa, sức y lên kinh
ngay để bọn thần ở Viện Cơ mật và Tòa Thương Bạc đối diện hỏi bọn y xem suy
tính cơ nghi như thế nào cho được chu thỏa. Bọn thần sẽ suy nghĩ chín chắn đôi
ba lần và phúc tâu đầy đủ. Vậy dám xin có lời tâu bày, đợi chỉ tuân hành."
Đầu
năm 1871, ông nhận được lệnh cấp tốc ra Huế với lý do "đưa học sinh đi
Pháp", nhưng kỳ thực là để bàn bạc với vua Tự Đức về phương lược quân sự
và ngoại giao mà ông đã trình bày trong các văn bản gởi cho Triều đình cuối năm
1870. Nhưng Triều đình Huế bàn đi tính lại mà không đi đến được một quyết định
nào: Sứ bộ không được cử đi các nước, kế hoạch đánh úp Pháp để thu hồi 6 tỉnh ở
Nam Kỳ cũng không được thực hiện...
Sau
mấy tháng ở Huế, có thể là vì không có việc gì để làm, hoặc có thể vì bệnh cũ
tái phát, Nguyễn Trường Tộ đã xin phép trở về Xã Đoài (Nghệ An).
4.
Qua đời
Giữa
năm ấy, ông về lại Xã Đoài, và đến ngày 22 tháng 11 năm 1871 thì đột ngột từ trần.
Lúc ấy, ông chỉ mới 41 tuổi.
Con
ông là Nguyễn Trường Cửu, trong Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ chỉ nói ngắn gọn rằng:
"Qua năm sau, Tự Đức 24 (1871), ngày 10 tháng 10, ông Tộ làm câu thơ rằng:
"Nhất thất túc thành thiên cổ hận / Tái hồi đầu thị bách niên cơ" (Một
kiếp sa chân, muôn kiếp hận / Ngoảnh đầu cơ nghiệp ấy trăm năm) đoạn thì qua đời.
Thọ 41 tuổi".
Nhiều
chứng cứ cho thấy ông mất vì bệnh xuất huyết bao tử[28]. Riêng Giám mục
Gauthier cho rằng ông bị đầu độc. Trong một thư đề ngày 1 tháng 11 năm 1871, vị
Giám mục này viết: "Người Giáo hữu Việt Nam mà tôi đem theo năm 1867 và
người ta gọi là Kiến trúc sư (...) đã là nạn nhân của một âm mưu đầu độc"[29].
Sau
đó, thân xác ông được an táng tại thôn Bùi Chu. Phần mộ của ông xưa kia chỉ là
một nấm mộ đất thấp. Năm 1943, với sự đóng góp của ông Từ Ngọc Nguyễn Lân và một
số thân sĩ ở Nghệ Tĩnh, một ngôi mộ bằng đá cẩm thạch đã được dựng lên trên một
gò đất cao, giữa một cánh đồng rộng.
5.
Vợ, con
Không
biết chắc Nguyễn Trường Tộ đã lập gia đình lúc nào. Có thể là trong khoảng thời
gian ông trở về Nghệ An, sau khi các dự án canh tân của ông gởi vua Tự Đức bị
chống đối nên bị bỏ dở (sau tháng 4 năm 1868). Con ông gồm một trai, một gái.
Người con gái lấy chồng ở một làng kế cận. Người con trai là Nguyễn Trường Cửu (ông
mất khi Trường Cửu mới được 18 tháng), có tư chất thông minh, được học hành,
thường được gọi là "Đồ Cửu". Ông Cửu mất vào khoảng năm 1942, và đã để
lại tác phẩm Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ.
B.
Tác phẩm
Kể
từ khi về nước (khoảng 1861) cho đến năm cuối đời (1871), Nguyễn Trường Tộ đã đều
đặn gửi lên vua Tự Đức và triều đình Huế các bản điều trần và phúc trình về thời
sự. Đáng chú ý có:
Hòa
từ (Bàn về hòa) gửi tướng Nguyễn Bá Nghi (1861)
Tế
cấp luận (Bàn về những việc khẩn cấp, tháng 3 - 4 năm 1863, hiện chưa tìm thấy)
Giáo
môn luận (Bàn về việc tự do tôn giáo, 26 tháng 3 năm 1863)
Thiên
hạ phân họp đại thế luận (Bàn về những thế lớn phân và hợp trong thiên hạ). Đây
là bài "Hòa từ" được sửa chữa lại (1863)
Điều
trần (7 tháng 5 năm 1863)
Lục
lợi từ (Kế hoạch làm cho dân giàu, tháng 6 năm 1864)
Khai
hoang từ (Bàn về việc khai hoang, tháng 2 năm 1865)
Điều
trần khả năng lấy lại ba tỉnh miền Đông [Nam Kỳ] (1866)
Kế
hoạch vận động ở Pháp để giữ ba tỉnh miền Tây [Nam Kỳ] (1866)
Báo
cáo về việc gặp viên Lãnh sự Tây Ban Nha (1866)
Kế
ly gián giữa Anh và Pháp (1866)
Điều
trần về hội nước ngoài (1866)
Phúc
trình về việc ký hợp đồng với các hội nước ngoài (gửi về khi sang Pháp năm
1887)
Về
tám điều cần bàn gấp (gửi về khi sang Pháp năm 1867)
Điều
trần về việc tiễu trần giặc biển (tháng 8, 1868)
Điều
trần về việc tái tu võ bị (1869)
Kế
hoạch nội công ngoại kích thu hồi sáu tỉnh Nam Kỳ (tháng 11, 1870)
Bổ
sung kế hoạch sai sứ đi Tây và đánh úp Gia Định (tháng 11, 1870)
Bàn
về việc cho Pháp thông thương để đổi lại sáu tỉnh (tháng 2, 1871)
Kế
hoạch thương nghị với Pháp và vận động sự giúp đỡ của các nước khác (tháng 2,
1871)
Kế
hoạch vay tiền để dùng vào việc binh (tháng 2, 1871)
Về
việc gửi học sinh sang Singapore học sinh ngữ (tháng 2, 1871)
Về
việc nhờ Giám mục Hòa giúp lấy lại 6 tỉnh (tháng 3, 1871)
Tu
võ bị (bàn về việc chỉnh đốn quân đội và quốc phòng, tháng 5, 1871)
Về
việc cần canh tân, quảng giao để giữ nước (tháng 8, 1871)
Về
việc nông chính (tháng 8, 1871), v.v...
Ngoài
ra, Nguyễn Trường Tộ còn để lại một số di cảo thơ.
B.
Tóm tắt nội dung các bản điều trần
Nguyễn
Trường Tộ đã liên tiếp gửi lên triều đình Huế 58 bản điều trần (theo tập họp của
Linh mục Nguyễn Bá Cần) đề xuất canh tân xây dựng đất nước. Nội dung các bản điều
trần đề cập đủ mọi lĩnh vực. Tóm tắt các mặt chủ yếu:
Về
chính trị:
Ông
trình bày những chiến lược cơ bản, về những thế lớn phân và hợp trong thiên hạ
("Thiên hạ phân hợp đại thế luận", 1863) và đề xuất "Kế ly gián
giữa Anh và Pháp" (1866). Không hề ảo tưởng về dã tâm của thực dân Pháp,
nhưng ông rất sáng suốt chủ trương tạm hòa hoãn với Pháp, gợi ý với nhà vua về
lợi ích lớn của việc "Mở rộng quan hệ với Pháp và các nước khác"
(1871)...
Về
nội chính:
Ông
đề nghị triều đình tinh giản bộ máy chính quyền để đỡ hao tốn công quỹ, xác định
rõ chức năng công việc của từng loại quan lại để khỏi phải có rất nhiều người
ăn lương mà không biết làm gì. Mặt khác, nên có chính sách đối với những nho
sinh để họ không thể dựa vào chút chữ nghĩa, trốn tránh nghĩa vụ đối với nước
nhà. Ngoài ra, muốn cho đội ngũ viên chức giữ được thanh liêm thì phải tạo điều
kiện cho họ làm giàu chính đáng...
Về
tài chính:
Ông
đề nghị sắp đặt lại hệ thống thuế khóa cho thật công bằng hợp lý. Muốn thế phải
đo đạc lại ruộng đất, kê khai nhân khẩu, tăng thuế người giàu và hàng xa xỉ ngoại
nhập, đánh thuế thật nặng vào những tệ nạn như cờ bạc, rượu chè,...Ngoài ra,
còn phải khuyến khích nhà giàu bỏ tiền ra cho vay, và vay tiền của nước
ngoài...
Về
kinh tế:
Ông
đề nghị chấn hưng "nông, công, thương nghiệp" để làm cho dân giàu nước
thịnh, bằng những hành động cụ thể như: tổ chức khai hoang, bảo vệ rừng, thành
lập các đoàn tàu đem hàng nông sản đi bán, cử người thăm dò tài nguyên, khai
thác mỏ, thành lập các cơ sở sản xuất công nghệ và đào tạo thợ kỹ thuật…Và để nền
kinh tế cả nước có thể giao thông dễ dàng, thì phải chú ý đến việc làm mới và
tu bổ đường bộ và đường thủy....
Về
học thuật:
Ông
đề nghị cải cách "việc học, việc thi" để chọn được nhân tài hữu ích.
Không nên tiếp tục lối học "máy móc, tín điều" kiểu Trung Hoa. Đáng
chú ý là việc ông đề nghị đem các môn khoa học vào trong chương trình học, nhất
quyết phải dùng quốc văn (chữ Nôm) để dạy học và soạn sách, kể cả trong các giấy
tờ hành chính...
Về
ngoại giao:
Ông
chủ trương quan hệ mềm mỏng với Pháp, và không chỉ có Pháp mà còn phải đặt ngoại
giao với nhiều nước khác như Anh, Tây Ban Nha... Phải biết lợi dụng mâu thuẫn
giữa các nước này để có lợi cho mình. Phải đào tạo được các thông dịch viên giỏi
công việc và tiếng nước ngoài...
Về
võ bị:
Ông
đề nghị cải tu võ bị nhằm tăng chất lượng của quân đội, như tổ chức lại đội
ngũ, cho quân lính được học tập các binh pháp mới, mua sắm tàu thuyền và vũ
khí[30], xây dựng phòng tuyến cả ở thành thị lẫn nông thôn, đề phòng quân Pháp
xâm lược lan ra cả nước...
Bên
cạnh đó, ông còn đề nghị cải cách về các mặt khác như văn hóa, tôn giáo[31], bảo
tồn di tích lịch sử, v.v...Tuy nhiên, phần lớn những đề nghị của ông đã không
được triều đình nhà Nguyễn nghe theo do tầm nhìn hạn hẹp của họ và hạn chế của
thời đại.
C.
Nhận xét
Theo
ông Trần Chung Ngọc, trong cuốn "Nguyễn Trường Tộ: Thực chất con người và
di thảo" thì:
-
Kiến thức của ông Nguyễn Trường Tộ về nhân sinh, vũ trụ, ngũ hành, thời thế,
tình hình thế giới v...v.. không có gì đặc biệt nếu không muốn nói là hạn hẹp một
chiều.
-
Những đề nghị của ông về quân sự cũng không có gì đặc biệt, tựu trung chỉ là những
hiểu biết sơ đẳng. Nếu không biết những nguyên tắc sơ đẳng này và nhiều hơn nữa
thì lịch sử Việt Nam làm gì có những trận Chương Dương, Bạch Đằng, Đống Đa,
khoan nói đến chuyện Điện Biên Phủ, đường mòn Hồ Chí Minh và đường hầm Củ Chi.
-
Những đề nghị của ông về dùng giám mục để canh tân đất nước, đặt giáo dục, cứu
tế xã hội vào tay các giám mục là những đề nghị nguy hiểm, nếu thi hành thì Việt
Nam sẽ mất hẳn nền văn hóa đặc thù của mình.
-
Đề nghị của ông đào một con kênh từ Hải Dương đến Huế là một đề nghị không tưởng,
không thực tế và không xét đến khả năng kỹ thuật, nhân lực và tài lực của nước
ta vào thời đó.
-
Những đề nghị của ông về cải cách xã hội, giáo dục có phần nào giá trị trong việc
xây dựng đất nước trong tương lai dài hạn nhưng không thể áp dụng ngay để đối
phó với giặc ngoài giặc trong, trong tình hình sôi bỏng của đất nước.
-
Kế hoạch đánh úp Gia Định và xin được chỉ huy cuộc đánh úp này trong khi đang nằm
ngửa trên giường bệnh viết điều trần và chưa hề có một kinh nghiệm binh bị trực
tiếp nào là một điều hoang tưởng, nhiều phần thất bại hơn là thắng, chưa kể là
kế hoạch này có thể đã lọt vào tay giám mục Gauthier rồi. Một mặt khác, kế hoạch
này mâu thuẫn với nhận định của ông trong một bản điều trần đã đệ trình trước:
"Quân Pháp rất anh hùng, dũng cảm; Quân ta mới nghe danh họ đã phách lạc,
hồn xiêu". Vậy lấy gì mà đánh? Tư tưởng của ông thay đổi hay là quân Pháp
đã tụt hậu và quân ta đã anh dũng trở lại chỉ trong vòng có vài năm?
-
Ông cho rằng triều đình là Việt gian hoặc ngu lắm hay sao mà phải dặn đừng tiết
lộ với các giám mục những điều ông "mật báo" với triều đình.
-
Dù sao thì Ông cũng có 3 công lớn, một đối với quốc gia: đào kênh Sắt, và hai đối
với Giáo hội: xây một nhà thờ ở Xã Đoài và nhà thờ Thánh Phao Lồ ở Saigon.
-
Có thể vào lúc sắp mãn cuộc đời ông đã nhận ra phần nào thực chất của các giám
mục và thực chất của Pháp cho nên đã để lộ ra một tâm trạng day dứt nhưng đáng
tiếc là không có gì rõ rệt và dứt khoát.
Theo
GS. Nguyễn Huệ Chi, thì:
Các
bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ đã nói lên rất rõ tấm lòng yêu nước thiết
tha của ông. Ông tin tưởng vào triển vọng canh tân của Nhật Bản, đặt hết hy vọng
vào thế hệ trẻ được đào tạo bằng thực nghiệp có thể làm mạnh thế nước... Tuy
chưa có ý thức thay thế thể chế phong kiến bằng một thể chế dân chủ, bởi tình
thế đất nước chưa có phép làm điều đó, nhưng tư tưởng của ông đã tiến rất gần
các nhà tư tưởng tiến hóa luận của phương Tây. Có thể nói, ông đã gợi ra cho
người lãnh đạo đất nước những cách nghĩ, cách nhìn cởi mở và táo bạo mà hàng thế
kỷ về sau vẫn đáng để suy gẫm. Tóm lại, ông quả là một con người có trí thông
minh, nhìn xa thấy rộng, có khả năng ứng dụng vào thực tế vốn liếng tri thức
uyên bác cũng như những điều mình sở đắc. Tiếc thay, ông lại "sinh không gặp
thời", do đó ông đã không thực sự đóng một vai trò nào trong lịch sử,
ngoài vai trò "làm chứng về tấm lòng của một con người, về vận hội của một
đất nước".
Về
đóng góp cho văn học Việt, ông đã để lại một lối văn mang phong cách
"chính luận - trữ tình": vừa phải đảm bảo sự chặt chẽ, sắt bén, khúc
chiết trong phân tích (chịu ảnh hưởng khá rõ tư duy lôgic phương Tây); nhưng
cũng vừa thấm đẫm cảm hứng trữ tình của tác giả (vì ông phơi trải hết lòng
mình), nên có sức thuyết rất mạnh. Ngoài ra, ông còn để lại một số di cảo thơ.
Nhìn chung thơ ông mang phong cách trữ tình khoáng đạt, và có thể chia thành
hai mảng: những bài "tức cảnh, sinh tình" và những bài "Ngôn chí,
tự tình"...[34]
Trích
thêm ý kiến của nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng:
...Tôi
không đi vào khía cạnh "đổi mới tư duy" mà ông kiên trì, tôi chỉ muốn
nhấn mạnh những kiến nghị vì lợi ích của đất nước, mà với tư cách một tín đồ đạo
Công giáo đang bị Triều đình ngược đãi, dân chúng nghi kỵ, ông không ngần ngại
trình bày, hy vọng nhà vua đảo ngược thế cờ, chuyển nguy thành an, chuyển yếu
thành mạnh, chuyển lạc hậu thành tiên tiến cho cả quốc gia, bấy giờ, đứng trước
khả năng sụp đổ không phải khó thấy.
Nguyễn
Trường Tộ là một trí thức - theo nghĩa gần với hiện đại. Phân tích kỹ các
"điều trần", chúng ta dễ dàng phát hiện tính "không tưởng" ở
một số chủ trương của Nguyễn Trường Tộ - Ông nóng vội và nhất là ông không biết
cơ chế của triều Tự Đức không bao giờ cho phép suy nghĩ của ông trở thành hiện
thực bởi chúng đụng đến bức tường lạc hậu kinh khủng về học vấn, về khoa học, sự
mụ mẫm trong đầu các quan lại cao cấp, kể cả đấng chí tôn - nhưng ông vẫn không
mệt mỏi. Tấm lòng yêu nước thúc đẩy ông. Ta quý Nguyễn Trường Tộ ở chỗ đó....
Và
của GS. Nguyễn Hữu Tá:
...Ở
tuổi 30, Nguyễn Trường Tộ đã có một vốn kiến thức rộng và sâu cả về phương diện
chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật. Với tiềm lực chất xám rất quý
như thế, nếu ông được tin dùng, được tạo điều kiện để hoạt động, tình thế có thể
sẽ rất khác. Bi kịch của Nguyễn Trường Tộ, ngẫm ra là một nghịch lý khó tin
nhưng có thật. Yêu nước nhưng không được giúp nước vượt qua đại họa ngoại xâm;
thực sự có tài năng xuất chúng nhưng vấp phải vật cản quá lớn – sự trì trệ bảo
thủ, dị ứng với chủ trương duy tân, tự cường của triều đình Tự Đức và sự nghi
ngờ dai dẳng của họ với những người tin theo Công giáo.
Bi
kịch lớn lao ấy bình thường ra có thể nhấn sâu những con người nặng lòng với đất
nước vào tình trạng trầm cảm, u uất, bế tắc. Nhưng với Nguyễn Trường Tộ thì
không. Ông đã bộc lộ một phẩm chất đáng tôn trọng: sự kiên trì nhẫn nại – nhẫn
nại đến mức phi thường. Trong vòng 10 năm (1861 – 1871), Nguyễn Trường Tộ liên
tục gửi đến vua Tự Đức và triều đình Huế rất nhiều bản điều trần. Riêng Linh mục
Trương Bá Cần đã tập hợp được 58 bản và công bố trong tập Nguyễn Trường Tộ –
con người và di thảo. Gửi mà không có hồi âm, nhưng lại tiếp tục gửi nữa. Đề
tài không lặp lại, nội dung hết sức phong phú đề cập đến hầu hết những vấn đề
chiến lược ở tầm "quốc sách"...[36]
Vinh
danh Nguyễn Tường Tộ, tên ông được đặt cho nhiều trường học và đường phố tại Việt
Nam.
D.
Văn Nguyễn Trường Tộ
Giới
thiệu hai đoạn văn, để hiểu phần nào lối văn nghị luận và tấm lòng yêu nước của
ông.
Trần
tình (trích):
...Vì
tôi là kẻ tự biết rõ mình, thấy mình một cách chính xác, bao nhiêu những việc
thế tình nham hiểm, hoạn hải ba đào không việc gì không biết nên mới cam tâm chịu
ba tội ấy (tức là tội thân phận hèn mọn dám nói việc cao xa, tội "ở trong
vòng của quân địch mà lại ôm chí khác" và tội bị nghi kị mà vẫn hiến dâng
ý kiến) chuốc lấy mối lo không phải phận sự của mình, ôm lấy những việc khó
làm, chỉ đó mới có thể giữ được. Người xưa xét người không xét ở thành bại mà
xét ở chỗ có hay không có tấm lòng. Có lòng mà gặp thời đắc dụng là điều may.
Có lòng mà gặp thời không tốt, đến phải cô quạnh không chỗ nương thân lại còn mắc
tội là điều rất không may. Nhưng nếu lấy điều khoan dung nhân hậu mà xét, thì
nhìn vào lầm lỗi của một người có thể biết được lòng nhân hậu của người đó. Huống
chi tôi nay như con cá voi ở giữa bể, trong gia đình không hệ luỵ vợ con, ngoài
xã hội không lo bị cấm chế, thế mà biết nhớ về cố đô căm giận quân thù (…) việc
đời được mất vinh nhục tôi đều xem như ngoại vật, chỉ cần bảo toàn lấy cái điều
rất quý ở nơi mình là đủ rồi, nhưng thấy người có việc bất bình cũng phải tuốt
gươm cứu giúp, mà bản tâm không mong người báo ơn. Chỉ khi nào không mong người
báo đáp, người ta mới làm được những việc phi thường, khẳng khái. Tôi xin dâng
mấy bài "Thiên hạ phân hợp đại thế luận", "Tế cấp luận",
"Giáo môn luận"… để cho ngụm nước nơi vũng chân trâu nhờ sông ngòi có
thể chảy thấu ra biển cả. Được thế thì nước đổ qua trăm dặm may ra có thể giúp
ích được ít nhiều. Như thế, tôi dẫu chết vùi nơi nơi chốn mường mọi cũng tỏ được
tấm lòng không quên nguồn gốc...
Thiên
hạ đại thế luận (trích):
...Hiện
nay tình hình trong nước rối loạn...tiền của sức lực của dân đã kiệt quệ, việc
cung ứng cho quân binh đã mệt mỏi, trong Triều đình quần thần chỉ làm trò hề
cho vui lòng vua, che đậy những việc hư hỏng trong nước, ngăn chặn những bậc hiền
tài, chia đảng lập phái khuynh loát nhau, những việc như vậy cũng đã nhiều;
ngoài các tỉnh thì quan tham lại nhũng xưng hùng xưng bá tác phúc tác oai, áp bức
tàn nhẫn kẻ cô thế, bòn rút mỡ dân, đục khoét tuỷ nước, việc đó đã xảy ra từ
lâu rồi. Những kẻ hận đời ghét kẻ gian tà, những kẻ thất chí vong mạng, phần
nhiều ẩn núp nơi thao dã, chính là lúc Thắng, Quảng [37] sẽ thừa cơ nổi dậy. Thế
mà sao đối ngoại thì không có cách nào để động đến một mảy may lông của quân
Pháp, cũng chẳng thuyết phục được ai để giải vây cho, lại đi tàn sát dân mình,
giận cá chém thớt, khiến cho dân bị cái hại "cháy nhà vạ lây". Thật
đúng như câu nói: "đào ao đuổi cá", "nối giáo cho giặc".
Cây cối trước hết tự nó hủ mục sau mới bị sâu đục; nước mình trước hết không biết
tự giữ thể diện thì người ta mới khinh mình; dân loạn bên trong, rồi kẻ địch mới
nhân đó mà vào. Như thế loạn không phải chỉ từ bên ngoài mà ở ngay trong nước vậy.
Than ôi! Dân chúng phụng sự quan trên, đóng thuế nạp tô, để mong được sống yên
thân, thế mà bây giờ lại lấy những thứ nuôi sống người đó để làm hại người, nỡ
khiến dân chúng vấp phải họa binh đao, nỡ tranh giành cái nhỏ mà bỏ cái lớn,
cũng như muốn bảo tồn cành lá mà lại đem đẵn cả cội gốc. Cho nên mới nói: không
sợ thế giặc ngang tàng mà sợ lòng người rời rạc. Lòng người đã rời rạc, đã muốn
chóng mất, thì dù có thành trì bằng kim loại, có ao nước sôi cũng phải bỏ mà chạy,
ai ở đó chịu chết mà giữ cho!...
Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_T%E1%BB%99
Thông tin thêm: http://tuanvietnam.net/2010-02-09-nguyen-truong-to-va-khat-vong-canh-tan
http://huc.edu.vn/chi-tiet/1687/Tu-Fukuzawa-Yukichi-nhin-ve-Nguyen-Truong-To.html