JOHN RAWLS (1921), triết
gia chính trị và đạo đức Mỹ, sinh tại Baltimore, Maryland. Ông tốt nghiệp đại
học Princeton. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự tại Thái Bình Dương trong
Thế chiến II, ông quay lại Princeton làm luận án tiến sĩ triết học
năm 1950.
Rawls giảng dạy tại
Cornell trong những năm 1950, chuyển đến Viện Công nghệ Massachusetts năm 1960,
và sau đó là khoa triết tại đại học Harvard năm 1962 và ở đây cho đến khi về
hưu năm 1991. Từ khi nhận học vị tiến sĩ cho đến năm 1971, công trình trí tuệ
quan trọng nhất của ông là một cuốn sách bàn về lẽ công bằng. Cuốn sách ra đời
năm 1971 dưới tựa đề Học thuyết công bằng, trình bày toàn diện
một học thuyết mà Rawls gọi là “công bằng là sòng phẳng''. Sau đó, Rawls dành
gần 20 năm suy nghĩ lại về những cơ sở của ý niệm ''công bằng là sòng phẳng'',
với mục đích trình bày quan điểm của ông nhất quán hơn với chủ nghĩa đa nguyên
tôn giáo và triết học là đặc tính của các nền dân chủ hiện đại. Thành quả của
những nỗ lực đó xuất hiện năm 1993 trong tác phẩm Chủ nghĩa tự do chính
trị. Năm 1999, Rawls xuất bản tác phẩm Luật lệ của các dân
tộc, triển khai những ý tưởng về công bằng của ông thành một hệ thống
quốc tế.
Trong phần lớn thế kỷ
qua, ý tưởng về một triết thuyết chính trị bình quân - tự do đối với nhiều
người hình như là một mâu thuẫn ngay trong từ ngữ. Những người theo chủ nghĩa
binh quân băn khoăn trước những khác biệt to lớn giữa cuộc sống của người giàu
và người nghèo thường kết tội chủ nghĩa tự do đã chú ý quá đáng đến những quyền
và tự do hợp pháp trong khi tỏ ra thờ ơ với số phận thực sự của dân chúng bình
thường. Họ lập luận, bình đẳng chỉ có thể tìm thấy trong một số ít diễn ngôn về
luật pháp và chính trị - với những tuyên bố về bình đẳng của con người trước
pháp luật và của công dân trong quốc gia. Những người tự do quan tâm đến việc
đảm bảo các quyền cá nhân thường tố cáo chủ nghĩa bình quân là gia trưởng và
sẵn sàng hy sinh tự do cá nhân nhân danh sự tương đồng vô vị của hoàn cảnh hay
xã hội không tưởng tương lai. Thực ra, hệ thống phúc lợi xã hội của các quốc
gia dân chủ cố gắng và gần như thành công, tôn trọng những giá trị tự do và
bình đẳng: bảo đảm những quyền cá nhân cơ bản đối với sinh hoạt riêng tư và
sinh hoạt chính trị, đồng thời bảo vệ cho từng người khỏi những ngẫu nhiên của
thị trường. Nhưng những lựa chọn triết học dường như đối chọi nhau. Giữa chủ
nghĩa tự do cổ điển của Friedrich Hayek và chủ nghĩa bình quân của Karl Marx,
tất cả chỉ là sự nhượng bộ chính trị bấp bênh, hoặc là sự cân bằng tùy tiện
những giá trị cạnh tranh nhau.
Học thuyết công bằng của
Rawls vẽ lại đồ hình triết lý này. Rawls đề xuất khái niệm công bằng hứa hẹn
đem tới những quyền cá nhân gắn với chủ nghĩa tự do truyền thống, đem tới lý
tưởng về sự phân phối công bằng thường được liên kết với truyền thống dân chủ
xã hội và cấp tiến, và đem tới sự tin tưởng hợp lý vào khả năng thực tế của một
hình thái dân chủ lập hiến bảo đảm cả tự do lẫn bình đẳng. Tóm tắt quan điểm
của mình, Rawls nói rằng, công bằng như là sự sòng phẳng nhằm đưa đến ''sự hòa
giải giữa tự do và bình đẳng”.
Để thấy được sức mạnh
của sự hòa giải này, hãy xem xét hai nguyên tắc về công bằng mà Rawls giải
thích và biện hộ trong Học thuyết công bằng. Nguyên tắc thứ
nhất của Rawls - nguyên tắc về những quyền tự do bình đẳng căn bản -
nói rằng, mỗi công dân có quyền bình đẳng trước một hệ thống to lớn nhất các
quyền tự do riêng tư và chính trị bình đẳng căn bản tương thích với một hệ
thống đồng dạng các quyền tự do đối với người khác. Nguyên tắc này không khẳng
định quyền đối với “tự do đúng nghĩa'', tức là quyền lên án những hạn định đối
với mọi cung cách lựa chọn. Thay vào đó, nguyên tắc thứ nhất đòi hỏi sự bảo đảm
nghiêm ngặt cho một số quyền tự do cụ thể: tự do tư tưởng và lương
tri; tự do chính trị; tự do hội họp; tự do và chính trực của con người; những
quyền hạn và tự do liên kết với luật lệ, và những yêu sách của nó về tính khái
quát và tính khả đoán. Nguyên tắc thứ nhất của Rawls cũng đề cập tới một quy
phạm khắt khe về bình đẳng chính trị, nguyên tắc này nói rằng, tự do chính trị
chắc chắn là một giá trị chính đáng - rằng, cơ hội để có một chỗ đứng quyền lực
và thể hiện ảnh hưởng trên hệ thống chính trị phải độc lập với địa vị xã
hội-kinh tế. Do đó những công dân có động cơ và khả năng tham gia tích cực vào
sinh hoạt chính trị sẽ không bị bất lợi trong những nỗ lực của họ vì không đủ
giàu có, hay được lợi thế vì giàu có hơn người khác.
Nguyên tắc thứ hai của
Rawls thể hiện những lý tưởng bình quân về sự công bằng trong phân phối. Nguyên
tắc thứ hai có hai phần, cả hai đều đưa ra những giới hạn khả thủ đối với những
bất bình đẳng xã hội-kinh tế. Phần thứ nhất nêu rõ, khi những bất bình đẳng đi
kèm với chức vụ và địa vị - tức là khi những công việc như nhau được thưởng
công khác nhau - thì những chức vụ và địa vị ấy phải mở ra trước mọi người dưới
những điều kiện của sự bình đẳng sòng phẳng về cơ hội. Cụ thể là
những người có tài năng và động lực như nhau thì phải có những cơ hội như nhau
để giành được những địa vị mong muốn, bất chấp thân thế của họ. Việc tiếp cận
với công việc trách nhiệm và được đền bù xứng đáng không nên tuỳ thuộc vào hoàn
cảnh xã hội, trong đó người ta ngẫu nhiên sinh ra và lớn lên.
Nhưng ngay cả một xã hội
bảo đảm những quyền riêng tư và chính trị căn bản cho mỗi người và bảo đảm sự
bình đẳng sòng phẳng về cơ hội, vẫn có thể có những bất
bình đẳng khó chịu. Do đó, giả sử một số người, phần nào vì thiên bẩm, sở hữu
những tài năng hiếm có và tìm được nhiều lợi tức trong thị trường, trong khi
một số người khác không có những kỹ năng như thế. Giả sử cả hai nhóm người này
đều làm việc cật lực và đóng góp theo năng lực của mình. Mặc dù vậy mức thu
nhập của họ sẽ rất khác nhau và những khác biệt này sẽ ảnh hưởng lớn đến cuộc
sống của họ. Nhưng những bất bình dẳng về thu nhập này dựa vào những ngẫu
nhiên, sự may mắn không xứng đáng trong trò chơi xổ số cuộc đời và ''không có
lý do cho phép sự phân phối thu nhập và của cải giàu sang được quyết định bởi
sự phân phối tài sản tự nhiên hơn bởi vận may lịch sử và xã hội''. Do vậy, phần
hai trong nguyên tắc thứ hai của Rawls - nguyên tắc khác biệt - đòi hỏi một cấu
trúc kinh tế giảm bớt những bất bình đẳng trong thu nhập và của cải do những
khác biệt trong tài năng tự nhiên. Thay vì để cho sự khác biệt về thu nhập chỉ
đơn thuần phản ánh những khác biệt về thiên bẩm, nguyên tắc khác biệt đòi hỏi
chúng ta tối đa hóa những kỳ vọng một đời của những ai ở vào địa vị xã hội ít
thuận lợi nhất. Từ đó một người có thể được trả lương nhiều hơn người khác một
cách hợp pháp bởi vì thu nhập cao hơn đó bù đắp cho chi phí giáo dục và đào tạo
sâu rộng giúp người ấy đảm nhận những bổn phận đáng ao ước trong xã hội; hoặc
những bất bình đẳng có thể có ý nghĩa như những khích lệ giúp người ta nhận
nhiệm vụ mà nếu không họ sẽ không thể hay đơn giản là không sẵn lòng nhận nhiệm
vụ. Theo nguyên tắc khác biệt, những bất bình đẳng như thế hoàn toàn chính đáng
chỉ khi nào chúng đem lại lợi ích lớn nhất cho những người kém sung túc thất.
Như vậy, trong khi yêu
sách sự bình đẳng sòng phẳng về cơ hội lên án một xã hội trong đó thân thế giai
cấp là nguồn gốc của đặc quyền xã hội và kinh tế, thì nguyên tắc khác biệt lại
lên án một xã hội trong đó, như cách nói của nhà xã hội học Emile Durkheim,
''những bất bình đẳng xã hội thể hiện chính xác những bất bình đẳng tự nhiên''.
Tóm lại, trong thực tế, Rawls cố thuyết phục chúng ta chống đối ý tưởng cho
rằng, hệ thống kinh tế của chúng ta là cuộc tranh đua về dòng dõi và tài năng,
nhằm mục đích tưởng thưởng cho những người nhanh nhẹn và những người nhiều năng
khiếu. Thay vì vậy, nó phải là một phần của kế hoạch hợp tác sòng phẳng, được
thiết kế để bảo đảm một đời sống hợp lý cho mọi người. ''Trong sự công bằng như
là sự sòng phẳng'' - Rawls nói - con người đồng thuận chia sẻ số phận của
nhau''.
NHỮNG TÁC PHẨM CHÍNH
A Theory of Justice (1971; Học thuyết công
bằng)
The Law of Peoples (1999; Luật lệ của các
dân tộc)
Political Liberalism (1993; Chủ nghĩa tự do
chính trị)
(Trích từ tác phẩm 101
Triết gia, Mai Sơn biên soạn