Các
ý tưởng và nguyên tắc bảo thủ xuất hiện
lần đầu tiên vào cuối thế kỉ 18 và đầu thế kỉ 19. Chúng đến từ một phản ứng chống
lại sự những chuyển biến nhanh chóng về kinh tế và chính trị, mà ở một mức độ
nào đó được thể hiện trong Cách mạng Pháp.
Theo
nghĩa này, chủ nghĩa bảo chủ ủng hộ quay trở lại với chế độ cũ (tức nhà nước
chuyên chế của Pháp). Đứng trước các áp lực được tạo ra bởi chủ nghĩa tự do, chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa bảo thủ đứng lên bảo vệ cho một
trật tự xã hội truyền thống đang ngày càng bị công kích lúc đó.
Tuy
nhiên, ngay từ đầu, đã có một sự phân chia rõ ràng trong tư tưởng bảo thủ. Ở
châu Âu lục địa, một hình thức bảo thủ xuất hiện từ các tác phẩm của các nhà tư
tưởng như Joseph de Maistre
(1753–1821). Chủ nghĩa bảo thủ này đậm chất quý tộc và phản động, bác bỏ bất cứ
ý tưởng cải cách nào.
Một
dạng chủ nghĩa bảo thủ thận trọng hơn, linh hoạt hơn, và cuối cùng thành công
hơn được phát triển ở Anh và Mỹ, dựa trên niềm tin của Edmund Burke (1729–97) vào
việc ‘thay đổi để bảo tồn (tồn tại)’. Lập trường này cho phép các nhà
bảo thủ trong thế kỉ 19 chấp nhận các cải cách xã hội theo khẩu hiệu ‘Một Dân tộc’.
Đỉnh điểm của truyền thống này ở Anh (diễn ra vào những năm 1950) khi Đảng Bảo
thủ đi đến chấp nhận các dàn xếp hậu chiến cũng như tán thành một phiên bản
riêng của nó đối với nền Dân chủ Xã hội kiểu Keynes.
Tuy
nhiên, từ những năm 1970 về sau, mô hình này ngày càng chịu nhiều sự chỉ trích do
sự xuất hiện của phe Cánh hữu Mới. Lập trường bảo thủ chống
gia trưởng, chống nhà nước của Cánh hữu
Mới chủ yếu được rút ra từ các nguyên tắc của chủ nghĩa tự do cổ điển.
CHỦ NGHĨA BẢO THỦ GIA TRƯỞNG
Thường
có thể truy nguyên đến các tác phẩm thời kì đầu của Benjamin Disraeli
(1804–81), thuyết gia trưởng đến từ sự kết hợp giữ sự thận trọng và (việc giữ vững)
nguyên tắc. Khi cảnh báo nguy cơ nước Anh bị chia thành ‘hai dân tộc: giàu và
nghèo’, Disraeli đã gieo rắc nỗi sợ về một cuộc cách mạng xã hội. Cảnh báo này
là một lời nhắc nhở giới đặc lợi, những người cần nhận ra rằng ‘cải cách từ bên
trên’ thì đáng mong muốn hơn ‘cách mạng từ bên dưới’.
Thông
điệp này được củng cố thêm bằng cách viện đến các nguyên tắc về bổn phận và
nghĩa vụ xã hội vốn nảy sinh từ các ý tưởng tân
phong kiến (neofeudal) về bổn phận
quý tộc. Theo ý tưởng này, bổn phận là cái giá của đặc lợi; người quyền lực
và kế thừa có trách nhiệm quan tâm tới những người kém may mắn hơn vì một lợi
ích chung lớn hơn đó là sự cố kết và thống nhất xã hội.
Nguyên
tắc Một Dân tộc, khẩu hiệu của đảng
Tory ở Anh đầu thế kỉ 19, không phản ánh ý tưởng về một xã hội bình đẳng, mà
đúng hơn phản ánh một hệ thống đẳng cấp cố kết và ổn định, và phát triển một
cách hữu cơ (gắn kết giữa các bộ phận, như cá nhân, với tổng thể, xã hội).
Truyền
thống Một Dân tộc chứa đựng không chỉ
quan điểm ủng hộ cải cách xã hội, mà còn một thái độ thực dụng đối với các
chính sách kinh tế. Điều này dễ thấy trong cách tiếp cận ‘con đường thứ ba’ của những người bảo thủ ở Anh trong những năm
1950s. Cách tiếp cận này tránh hai mô hình tổ chức kinh tế: chủ nghĩa tư bản laissez-faire
; và chủ
nghĩa xã hội nhà nước với kế hoạch hóa tập trung. Cái trước bị bác bỏ
trên cơ sở cho rằng nó dẫn đến một sự tự do cho tất cả, và điều này khiến cho
tính cố kết xã hội bị mất đi, cũng như sẽ dẫn đến tình trạng trong đó bất lợi
thuộc về kẻ yếu và dễ tổn thương trong xã hội. Cái sau bị bác bỏ bởi vì nó tạo
ra độc quyền nhà nước cũng như sẽ nghiền nát tất cả các hình thức tự trị và
kinh doanh tư nhân. Do đó, lời giải nằm ở một sự kết hợp giữ thị trường với điều
tiết của nhà nước - ‘kinh tế tư nhân nhưng không vị kỉ’.
Một
kết luận tương tự được rút ra sau năm 1945 bởi các nhà bảo thủ trên lục địa, những
người chấp nhận các nguyên tắc Dân chủ Ki
tô giáo, hầu hết được phát triển trong triết lý ‘thị trường xã hội’ của Đảng Dân chủ Ki tô giáo Đức (CDU). Triết
lý này bao gồm, một mặt thúc đẩy thị trường, như tăng cường các ưu điểm của doanh
nghiệp tư nhân và cạnh tranh; nhưng mặt khác hướng tới xã hội, trong đó tin rằng
thịnh vượng thu được (từ thị trường) nên được sử dụng phục vụ cho lợi ích rộng
lớn hơn của xã hội. Lập trường này được rút ra từ lý thuyết xã hội Ki tô giáo, trong
đó thúc đẩy một quan điểm hữu cơ về xã hội nhấn mạnh đến sự hài hòa. Do đó, dân
chủ Ki tô giáo nhấn mạnh tầm quan trọng của các thiết chế như nhà thờ, liên
đoàn và hiệp hội doanh nghiệp, và được ràng buộc với nhau với ý niệm về một ‘sự
cộng tác xã hội’. Dòng gia trưởng này của tư tưởng bảo thủ hiện đại thường được
gắn liền với ý tưởng ‘bảo thủ trắc ẩn’.
CÁNH HỮU MỚI
Cánh
hữu Mới thể hiện một khuynh hướng trong tư tưởng bảo thủ, mà thực chất là một dạng
phản cách mạng, chống lại không chỉ khuynh hướng chuyển đổi sau năm 1945 hướng
tới một sự can thiệp lớn hơn của nhà nước, mà còn sự mở rộng của các giá trị xã
hội cấp tiến.
Các
ý tưởng của Cánh hữu Mới có thể truy ngược tới những năm 1970s, thời điểm cho thấy
sự thất bại rõ ràng của nền dân chủ xã hội kiểu Keynes, với sự bùng nổ kinh
tế thời hậu chiến chấm dứt, cũng như nguy cơ về sụp đổ xã hội và tụt giảm của quyền
uy. Cánh hữu Mới có một ảnh hưởng to lớn ở Anh và Mỹ, nơi mà chúng được hiện thực
hóa trong những năm 1980 dưới hình thức của chủ nghĩa Thatcher ở Anh và chủ
nghĩa Reagan ở Mỹ. Tuy nhiên, một điều cần lưu ý là Cánh hữu Mới không tạo ra một
triết lý có hệ thống và nhất quán mà đúng hơn nó kết hợp hai truyền thống riêng
biệt, thường gọi là ‘tân tự do’ và ‘tân bảo thủ’. Dù có một sự
xung đột ý thức hệ giữa cả hai, nhưng chúng có thể kết hợp để hỗ trợ cho mục
tiêu chung là một nhà nước mạnh nhưng tối thiểu: theo như lời Andrew Gamble thì
đó là ‘kinh tế tự do và nhà nước mạnh’.
Tân tự do
Tân
tự do là một phiên bản nâng cấp của kinh tế chính trị cổ điển, được phát triển
trong tác phẩm của các nhà kinh tế học thị trường tự do như Friedrich Hayek,
Milton Friedman và triết gia chính trị Robert Nozick.
Các trụ cột chính của tân tự do là thị trường và cá nhân. Mục tiêu chính của tân tự do là ‘thu hẹp
phạm vi của nhà nước’ với niềm tin rằng chủ nghĩa tư bản thị trường
không điều tiết mang lại hiệu quả, tăng trưởng và thịnh vượng rộng rãi.
Theo
quan điểm này, ‘bàn tay chết chóc’ của nhà nước bóp nghẹt sáng kiến và làm lản
lòng việc kinh doanh; chính quyền, dù với dự định tốt đẹp, lúc nào cũng có một ảnh
hưởng tai hại lên các vấn đề của đời sống con người. Điều này được phản ánh
trong mối quan tâm của Cánh hữu Mới với vấn đề sở hữu tư nhân, với sự đề cao của
nó đối với doanh nghiệp tư nhân hơn doanh nghiệp nhà nước: tóm lại, ‘tư,
tốt; công, xấu’. Các ý tưởng như vậy gắn liền với một hình thức chủ
nghĩa cá nhân (khá cực đoan), được diễn đạt trong câu nói nổi tiếng của
Margaret Thatcher đó là ‘không có cái gọi
là xã hội, chỉ có cá nhân và gia đình của họ’. ‘Nhà nước ôm đồm’ được xem
như đang nuôi dưỡng cho một thứ văn hóa lệ thuộc và kì cùng làm xói mòn tự do,
vốn được hiểu như là tự do lựa chọn trong thị trường. Thay vào đó, cần đề cao
các giá trị như tự giúp mình, và trách nhiêm cá nhân, và khởi nghiệp.
Các
ý tưởng này được thừa nhận rộng rãi và thúc đẩy trong quá trình toàn cầu hóa,
mà theo nhiều người, toàn cầu hóa thực chất là toàn cấu hóa tân tự do.
Tân bảo thủ
Tân
bảo thủ tái khẳng định các nguyên tắc bảo thủ của thế kỉ 19. Nhìn chung, phe Cánh
hữu Mới tân bảo thủ muốn khôi phục lại quyền uy và trở lại với các giá trị truyền
thống, đáng chú ý là các giá trị liên quan đến gia đình, tôn giáo và quốc gia.
Thẩm quyền được xem là cơ sở đảm bảo cho ổn định xã hội, khi nó tạo ra kỉ luật,
sự tôn trọng; trong khi các giá trị truyền thống và một nền văn hóa chung sẽ
giúp kết dính xã hội và làm cho sự tồn tại văn minh trở nên khả hữu. Do đó, kẻ
thù của tân bảo thủ là sự dễ dãi, sự sùng bái cái tôi, và ‘làm những gì chỉ của
mình’, vốn được coi là những giá trị của những năm 1960.
Một
khía cạnh khác của tân bảo thủ là xu hướng xem sự xuất hiện của các xã hội đa
văn hóa và đa tôn giáo với một sự quan ngại, khi cho rằng chúng chứa đựng xung
đột và chắc chắn gây ra bất ổn xã hội. Quan điểm này có xu hướng gắn kết với một
hình thức chủ nghĩa dân tộc (hạn hẹp) vốn hoài nghi cả chủ nghĩa đa văn hóa lẫn
ảnh hưởng ngày càng tăng của các cơ quan siêu quốc gia như UN và EU.
Tân
bảo thủ cũng phát triển một cách tiếp cận riêng với chính sách ngoại giao, đặc
biệt ở Mỹ dưới thời George Bush Jr, trong đó khuyến khích củng cố sự chi phối toàn
cầu của Mỹ, thông qua áp đặt ‘thay đổi chế
độ’ bằng phương pháp can thiệp quân sự.
CÁC Ý TƯỞNG CHÍNH CỦA CHỦ NGHĨA BẢO
THỦ
-
Truyền thống:
chủ đề trung tâm của chủ nghĩa bảo thủ, ‘ước muốn bảo tồn’, có liên quan chặt
chẽ với việc đề cao truyền thống, khi thúc đẩy sự tôn trọng đối với các tập tục
và thiết chế (đã bền vững qua thời gian). Theo quan điểm này, truyền thống phản
ánh sự khôn ngoan của quá khứ được tích lũy lại; và vì các thiết chế và thực tiễn
đã được ‘thử thách bởi thời gian’, nên nó phải được duy trì vì lợi ích của thế
hệ hiện tại cũng như trong tương lai. Truyền thống còn có giá trị trong việc
thúc đẩy cảm quan về một nguồn gốc xã hội, một lịch sử chung (giữa mọi người).
-
Thực tế:
các nhà bảo thủ nhấn mạnh giới hạn của lý trí con người, bởi thế giới chứa đựng
sự phức tạp vô hạn. Do vậy, cần bác bỏ các nguyên tắc và hệ thống tư tưởng trừu
tượng (được rút ra đơn thuần từ việc sử dụng lý trí); thay vào đó, niềm tin nên
dựa vào kinh nghiệm, lịch sử, và trên hết là thực tế: tức là hành động phải dựa
trên các hoàn cảnh và mục tiêu thực tế.
-
Sự không hoàn hảo của con người:
quan điểm bảo thủ về bản chất chon người khá bi quan. Theo quan điểm này, con
người là sinh vật rất giới hạn, phục thuộc và tìm kiếm an toàn; do đó cần dựa
vào sự quen thuộc, thử và sai, và nhu cầu sống sống trong một cộng đồng ổn định
và trật tự. Ngoài ra, con người dễ suy đồi về đạo đức: họ bị chi phối bởi sự vị
kỉ, thèm khát và ham muốn quyền lực. Do đó, nguồn gốc của tội phạm và bất ổn nằm
trong chính cá nhân con người hơn là trong xã hội. Vì vậy, duy trì trật tự đòi
hỏi một nhà nước mạnh, củng cố luật nghiêm ngặt, và trừng phạt nặng.
-
Thuyết hữu cơ:
thay vì nhìn xã hội như một sản phẩm nhân tạo, các nhà bảo thủ xem xã hội như một
toàn thể hữu cơ, một thực thể sống. Do đó, xã hội được cấu trúc theo nhu cầu tự
nhiên, với các thiết chế khác nhau (gia đình, cộng đồng địa phương, và dân tộc...),
tất cả đóng góp cho sự lành mạnh và ổn định của xã hội. Toàn thể không chỉ đơn
thuần là một tập thể của các bộ phận cá nhân. Mà các giá trị được chia sẻ (truyền
thống) và một nền văn hóa chung có vai trò sống còn trong việc duy trì cộng đồng
và cố kết xã hội.
-
Hệ thống thứ bậc:
theo quan điểm bảo thủ, thứ bậc địa vị là tự nhiên và không thể tránh khỏi
trong một xã hội. Điều này phản ánh vai trò và trách nhiệm khác nhau của mỗi
người, chẳng hạn ông chủ và công nhân, giáo viên và học sinh, cha mẹ và con
cái. Tuy nhiên, cũng theo quan điểm này, hệ thống thứ bậc và bất bình đẳng
không dẫn đến xung đột, bởi vì xã hội được ràng buộc lại với nhau bằng nghĩa vụ
và bổn phận qua lại. Thực vậy, do vị trí của con người trong quộc đời được quyết
định một phần lớn bởi may mắn, do đó sự thịnh vượng và đặc lợi đi cùng với
trách nhiệm chia sẻ cho những người kém may mắn hơn.
-
Quyền uy:
chủ nghĩa bảo thủ cho rằng, ở một mức độ nào đó, quyền uy cần luôn được thực
hành ‘từ bên trên’, để cung cấp sự lãnh đạo, hướng dẫn và giúp đỡ cho những ai
thiếu kiến thức, kinh nghiệm hay giáo dục để có thể hành động một cách khôn
ngoan khi theo đuổi lợi ích riêng của họ (ví dụ quyền uy của cha mẹ với con
cái). Dù ý tưởng về quý tộc tự nhiên
từng có nhiều ảnh hưởng (trong quá khứ), song quyền uy và sự lãnh đạo hiện được
coi như đến từ kinh nghiệm và đào tạo. Ưu điểm của quyền uy nằm ở chỗ nó là nguồn
cho sự cố kết xã hội, mang đến cho cá nhân một cảm nhận rõ ràng về việc họ là
ai, họ phải làm gì. Tự do phải đồng tồn tại với trách nhiệm; do đó nó phải bao
gồm việc sẵn sàng chấp nhận các nghĩa vụ và ổn phận.
-
Tài sản:
những người bảo thủ xem sở hữu tư nhân là quan trọng bởi vì nó mang đến cho con
người sự đảm bảo (sinh tồn) cũng như sự độc lập với chính quyền, và nó khuyến
khích họ tôn trọng luật pháp và tài sản của người khác. Tài sản cũng là một sự
biểu hiện ra bên ngoài của tính cách con người, trong đó họ ‘thấy’ chính họ
trong cái họ sở hữu: nhà của họ, xe của họ... Tuy nhiên, sở hữu tư nhân cũng gắn
liền với bổn phận, bởi theo quan điểm này, chúng ta đơn thuần là người trông giữ
tài sản hoặc kế thừa từ thế hệ trước hoặc cho thế hệ tương lai.
Nguồn
-
Andrew Heywood. Politics.