Mai Thái Lĩnh
Vài
lời phi lộ: Mặc dù chủ đề “xã hội dân sự và chế độ
dân chủ” vẫn còn nhiều điều cần bàn tiếp, tôi xin tạm dừng lại để trình bày về
“Tư bản thân hữu và Cộng sản thân hữu” – một chủ đề nóng bỏng liên quan đến cuộc
đấu tranh giữa hai phái chính trị trong Đảng Cộng sản Việt Nam suốt nhiệm kỳ XI
vừa qua, và trong thời gian sắp tới có lẽ vẫn còn tiếp tục nằm ở hàng đầu
chương trình nghị sự của Bộ Chính trị mới ...
Bài viết của ông
Vũ ngọc Hoàng (Phó ban Thường trực Ban Tuyên giáo khóa XI) nhan đề “Lợi ích
nhóm và chủ nghĩa tư bản thân hữu – cảnh báo nguy cơ “ được
đăng trên Tạp chí Cộng sản số 872 (tháng 6 năm 2015), trong mục
“Hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng”. Nhìn vào tiêu đề,
độc giả có thể thấy hai cụm từ khác nhau: “lợi ích nhóm” và “chủ nghĩa tư bản
thân hữu”. Như tôi đã trình bày trong bài “Nhóm lợi ích là gì?”([1]), “lợi ích nhóm” thật ra là một
khái niệm hoàn toàn khác đã bị giới lý luận cộng sản và các trí thức cung đình
gọi nhầm tên. Bây giờ chúng ta chuyển sang tìm hiểu cụm từ thứ hai:chủ nghĩa
tư bản thân hữu.
Từ
tình thân hữu thông thường đến Chủ nghĩa Thân hữu (Cronyism) trong chính trị:
Trước hết, cần
phải khẳng định: tình thân hữu vốn là điều tốt đẹp. Đó là mối
quan hệ đáng trân trọng giữa người và người –nhất là trong lĩnh vực
xã hội dân sự. Thế nhưng một khi “tình thân hữu” được áp dụng vào lĩnh vực
chính trị – nhất là công quyền, thì nó có thể trở thành một
căn bệnh, một tệ nạn có khi làm băng hoại cả một chế độ.
Trong tiếng Anh, crony có
nghĩa là “bạn bè thân tín”, “cộng sự lâu năm”, nói theo ngôn ngữ dân gian là “bạn
bè chí cốt”, “cánh hẩu”([2]). Nhưng cronyism (chủ nghĩa
thân hữu) trong lĩnh vực chính trị lại là một thói xấu, một tập quán
không lành mạnh. Đó là thói quen “trọng dụng người thân quen”, là tập quán của
những người nắm quyền lực thích bổ nhiệm bạn bè, người quen biết của mình vào
các chức vụ công quyền, không quan tâm gì đến phẩm chất, năng lực của người
được cất nhắc. Thói xấu chính trị này hoàn toàn đi ngược lại với chế
độ trọng dụng nhân tài (meritocracy). Chủ nghĩa thân hữu thu
hẹp hơn một chút thì biến thành chủ nghĩa thân tộc (nepotism)
– ở nước ta thường được gọi là thói gia đình trị, nghĩa
là chỉ cất nhắc, trọng dụng những người bà con, thân thích trong gia đình, dòng
họ.
Sở dĩ phải nói đến Chủ
nghĩa thân hữu trong chính trị vì đây là một nguồn gốc của nạn tham
nhũng và có liên hệ chặt chẽ vớiChủ nghĩa Tư bản thân hữu mà chúng
ta sắp bàn đến. Ở các quốc gia dân chủ, để phòng ngừa căn bệnh này, người ta
thường đặt ra những nguyên tắc, những quy định rất chặt chẽ trong việc bổ nhiệm
các chức vụ công quyền. Nhưng ở các nước độc tài – nhất là các nước cộng sản phương
Đông, căn bệnh này thường có đất tốt để phát triển. Thường thì ở các quốc gia cộng
sản phương Đông, để bảo đảm lòng trung thành của các đảng viên, người ta đặt nặng chủ
nghĩa lý lịch – nhất là lý lịch gia đình, có khi đến ba đời. Vì vậy, mỗi
khi một người được thông qua lý lịch để kết nạp vào đảng cầm quyền thì những
người khác trong gia đình, thậm chí trong dòng họ, cũng được hưởng chút “hương
thơm lý lịch”, nghĩa là dễ dàng được đưa vào diện “trung kiên”, “đối tượng đảng”
và dễ dàng được kết nạp vào đảng. Vì thế, cũng tương tự như ngày xưa (một người
làm quan cả họ được nhờ) ngày nay “một người vào đảng cả họ cũng được nhờ”. Do
kế thừa di sản từ truyền thống làng xã (thời phong kiến và nhất là thời quân chủ
tập quyền), có khi cả một xã chỉ nằm trong tay một hay vài ba họ – từ các chức
vụ đảng đến các chức vụ trong chính quyền. Ở bất cứ địa phương nào, việc người
thân trong gia đình phụ trách cả cơ quan thi hành quyền lực lẫn cơ quan kiểm
soát quyền lực, hay chuyện chồng cấp trên vợ cấp dưới trong cùng một ngành chẳng
hề là chuyện lạ ở nước “cộng hòa của các đồng chí” này. “Tình thân hữu” phát
triển trong tầng lớp “ưu tú” của chế độ cộng sản mạnh đến mức ở bất cứ cấp lãnh
đạo nào, chúng ta cũng thấy xuất hiện các danh xưng thân mật như Anh Hai, Chị
Ba, Anh Tư, chị Năm, v.v… thể hiện “tính chất gia đình” ở mỗi đảng bộ hay mỗi cấp
ủy.
Cho nên tôi hơi
ngạc nhiên khi thấy gần đây các cán bộ cao cấp của Đảng và báo chí bỗng nhiên
la toáng lên về chuyện lãnh đạo đưa bà con thân thích vào chức vụ này chức vụ
kia, làm như chuyện này xưa nay chưa hề có trên đất nước Việt Nam “xã hội chủ
nghĩa”. Có thể vì ngày nay chủ nghĩa thân hữu hay chủ nghĩa thân tộc đã trở nên
quá trắng trợn, hay là vì sự phát triển của Internet và mạng xã hội khiến người
ta khó lòng giấu giếm, che đậy nên mới có những tiếng kêu hốt hoảng. Nhưng làm
sao có thể dẹp bỏ được thói quen sử dụng thân hữu trong chính trị hay tệ nạn
gia đình trị một khi lý lịch gia đình, dòng họ vẫn được đưa lên hàng đầu? Chúng
ta có thể tin rằng một khi chủ nghĩa lý lịch bị vứt vào sọt rác, và nhất là khi
độc quyền lãnh đạo của một đảng chính trị mất đi, thì chủ nghĩa thân hữu và chủ
nghĩa thân tộc sẽ có cơ hội chào từ giã nền văn hóa chính trị của đất nước ta.
Bản chất của nhà
tư bản thân hữu:
Từ ý nghĩa ban đầu
của crony (bạn bè thân tín, cộng sự lâu năm), đã phát sinh
thêm một ý nghĩa mới khi crony được dùng để chỉ một nhà “tư bản
thân hữu”, nghĩa là một nhà tư bản “thông đồng”, “móc ngoặc” với một quan chức
trong chính quyền để tìm kiếm lợi ích cho riêng mình, bất chấp lợi ích
chung của toàn xã hội. Trong tiếng Anh, không có từ nào dùng để chỉ một
“nhóm tư bản thân hữu”, mà chỉ có từ cronies (số nhiều) dùng để
chỉ nhiều nhà tư bản thân hữu. Hiện tượng “tư bản thân hữu” trong tiếng Anh có
tên là crony capitalism (chủ nghĩa tư bản thân hữu), người
Pháp dịch thành capitalisme de connivence (chủ nghĩa tư bản thông đồng).
Sự khác nhau căn
bản giữa các nhà tư bản thông thường và các nhà tư bản thân hữu là ở chỗ: trong
khi nhà tư bản thông thường là người tìm kiếm lợi nhuận
(profit-seeking) thì nhà tư bản thân hữu là người tìm kiếm đặc
lợi (rent-seeking). Lợi nhuận (profit) là đồng tiền kiếm được bằng cách sản
xuất, kinh doanh thật sự: nhà tư bản làm ăn chân chính tìm lợi nhuận bằng
cách làm cho của cải tăng lên hoặc làm cho dịch vụ có phẩm chất cao hơn. Còn
các nhà tư bản thân hữu thì không làm như thế (không làm cho của cải tăng
lên, cũng không làm cho dịch vụ tốt hơn) mà trái lại, dựa vào mối quan hệ
“thân hữu”, “nồng ấm” với các quan chức trong chính quyền để tìm kiếm
“đặc lợi” – tức là cái mà hiện nay báo chí thường gọi là “siêu lợi nhuận”.
Theo David R.
Henderson, từ “rent” do nhà kinh tế học David Ricardo (1772 – 1823) đưa vào
kinh tế học, dùng để chỉ “khoản tiền phải trả cho một yếu tố của sản xuất
nhiều hơn so với yêu cầu nhằm giữ cho yếu tố đó được sử dụng trong hiện tại”.
Thuật ngữ này thường được dùng để chỉ tiền thuê đất (“land
rent” hay “ground rent”, địa tô), về sau được dùng rộng hơn cho cả
tiền thuê bất động sản. Nhưng ngày nay, “rent-seeking” không có nghĩa là là
tìm kiếm một thứ tiền thuê. Các nhà kinh tế học thời nay sử dụng thuật ngữ này
để mô tả việc các nhà tư bản thân hữu thông đồng với các quan chức trong
chính phủ để tìm kiếm những “đặc lợi” như: miễn giảm thuế, vay vốn ưu đãi, nhận
tài trợ của chính phủ hay các hình thức ưu đãi, khuyến khích khác,… Như vậy,
nghĩa hiện đại của “rent-seeking” là “tìm kiếm đặc lợi”, “tìm kiếm đặc ân”
(privilege seeking)([3]). Và lẽ dĩ nhiên, muốn làm được điều
đó, nhà tư bản thân hữu phải tìm đến người có “đặc quyền”. Đó chính là nguồn gốc
của nạn tham nhũng.
Nói một cách dễ
hiểu, thực chất của tìm kiếm đặc lợi là “tự cắt cho mình một lát bánh lớn hơn
thay vì làm cho cái bánh lớn hơn” hoặc “tìm mọi cách để có nhiều tiền hơn mà
không sản xuất nhiều hơn cho khách hàng”. Cho dù là hợp pháp hay bất hợp pháp,
các hoạt động tìm kiếm đặc lợi có thể đem lại những tổn thất lớn cho một nền
kinh tế bởi vì chúng không tạo ra bất kỳ giá trị nào mà ngược lại, các hoạt động
đó gây thiệt hại cho người tiêu dùng và cho toàn xã hội, chỉ có lợi cho một
nhóm nhỏ những nhà tư bản thân hữu và những quan chức chính quyền tiếp tay cho
họ.
Tóm lại, tư
bản thân hữu không phải là một tư tưởng hay một học thuyết, cũng
không phải là một hình thái kinh tế-xã hội, mà là một hiện tượng tiêu cực, một
căn bệnh xảy ra trong nền kinh tế thị trường có liên quan đến tệ nạn tham
nhũng, hối lộ. Hiện tượng tư bản thân hữu có thể xảy ra ở bất cứ quốc gia nào,
kể cả những quốc gia có chế độ dân chủ thành thục, bền vững. Nhưng tư bản
thân hữu chỉ được gọi tên là chủ nghĩa tư bản thân hữu (crony
capitalism) một khi nó trở thành một tệ nạn quốc gia – nghĩa là chi phối
cả một nền kinh tế hay ít nhất là chi phối một số ngành kinh tế trọng điểm.
Một trong những
người đấu tranh quyết liệt chống lại chủ nghĩa tư bản thân hữu là nhà kinh tế học
người Mỹ gốc Ý tên là Luigi Zingales – hiện là Giáo sư tại Trường Kinh doanh
Chicago Booth (Chicago Booth School of Business) thuộc Đại học Chicago. Di dân
sang Hoa Kỳ từ năm 1988, ông đã từng chứng kiến quê hương ông (nước Ý) trở
thành nạn nhân của chủ nghĩa tư bản thân hữu, dẫn đến tình trạng đình đốn kinh
tế và nạn tham nhũng trầm trọng – đặc biệt là dưới thời trị vì của cựu Thủ tướng
Silvio Berlusconi. Lo ngại Hoa Kỳ sẽ dẫm vào bước chân của nước Ý, ông đã công
bố hai tác phẩm quan trọng: Saving Capitalism from the Capitalists (Cứu
chủ nghĩa tư bản từ tay các nhà tư bản, 2003) và A
Capitalism for People: Recapturing the Lost Genius of American Prosperity (Một
chủ nghĩa tư bản vì nhân dân: Phục hồi thiên tài đã mất của sự thịnh vượng Mỹ, 2012).
Về lý do đấu
tranh chống lại chủ nghĩa tư bản thân hữu, Zingales nói: “Chủ nghĩa thân hữu
(cronyism) đã cướp đoạt của quê hương tôi phần lớn tiềm năng để tăng trưởng
kinh tế. Tôi không muốn nó lại ăn cướp của Hoa Kỳ”. Nhưng không phải
chỉ vì lý do kinh tế. Ông nói tiếp : “Còn tệ hơn mất tiền, là việc mất
tự do: bởi vì chủ nghĩa thân hữu đàn áp tự do ngôn luận, loại bỏ động cơ nghiên
cứu và gây nguy hiểm cho các cơ hội về nghề nghiệp”([4]). (Trong các câu nói này, Zingales
dùng thuật ngữ “chủ nghĩa thân hữu” với ý nghĩa tương tự như “chủ nghĩa tư bản
thân hữu”).
Mặc dù hiện tượng
“tư bản thân hữu” có thể hình thành ở bất cứ quốc gia nào, nhưng tại các nước
đã phát triển (developed countries) – nghĩa là các nước tiên tiến (advanced
countries), nó ít có cơ hội để trở thành một thứ tệ nạn quốc gia, vì các thiết
chế dân chủ có khả năng kiềm chế các hoạt động của các nhà tư bản thân hữu, đồng
thời ngăn ngừa nạn tham nhũng. Nhưng tại các nước thường được gọi là “đang phát
triển” (developing countries) – và đặc biệt là tại các nước kém phát triển, tư
bản thân hữu có nhiều cơ hội để trở thành một căn bệnh nan y khó chữa trị, nhờ
dựa vào sự yếu kém trong quản lý nhà nước hay các tệ nạn như: lạm dụng quyền lực,
tham nhũng, hối lộ, v.v… Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thân hữu có thể
dẫn đến chế độ đạo tặc (kleptocracy) – nghĩa là một chế độ
trong đó các nhà lãnh đạo thường coi ngân khố quốc gia như một nguồn làm giàu
cho bản thân và gia đình, chi tiêu ngân quỹ một cách vô tội vạ để mua các hàng
hóa xa xỉ và phục vụ các sở thích ngông cuồng của cá nhân và gia đình. Các nhà
lãnh đạo kiểu đạo tặc này thường bí mật chuyển lậu các quỹ ăn cắp vào các tài
khoản ngân hàng ở ngoại quốc – nhất là tại các “cảng trú ẩn thuế” (tax haven)([5]) để phòng khi bị mất chức vẫn
duy trì được tài sản cho cá nhân và gia đình.
Tại Đông Nam
Á, hai ví dụ tiêu biểu của chế độ đạo tặc có nguồn gốc từ chủ
nghĩa tư bản thân hữu là Ferdinand Marcos (Tổng thống của Philippines
trong thời gian 1967-1988) và Mohamed Suharto (Tổng thống của Indonesia
từ 1965 đến 1986). Vào tháng 3 năm 2004, tổ chức Minh bạch Quốc tế
(Transparency International) đã công bố bản báo cáo về nạn tham nhũng
trên toàn cầu, qua đó đánh giá Mohamed Suharto đã ăn cắp của công từ 15 đến 35
tỷ đô-la Mỹ, còn Ferdinand Marcos đã ẵm của công quỹ từ 5 đến 10 tỷ đô-la Mỹ([6]). Không những thế, hai nhà lãnh đạo
kiểu đạo tặc này đã để lại cho đất nước của họ những món nợ khổng lồ. Hơn
hai thập niên lãnh đạo của Marcos đã làm cho nợ quốc gia của Philippines tăng từ
7 tỷ (năm 1965) lên đến 27 tỷ đô-la Mỹ (năm 1986)([7]). Còn tại Indonesia, vào giữa năm
1997, tổng số nợ phải trả cho các ngân hàng thương mại ngoại quốc lên đến 59 tỷ
đô-la([8]).
Vận dụng khái niệm
“tư bản thân hữu” vào chế độ cộng sản:
Mặc dù ông Vũ Ngọc
Hoàng đã mạnh dạn sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa tư bản thân hữu” để nói về nguồn
gốc của nạn tham nhũng ở Việt Nam, nhưng trong thực tế khái niệm này thật ra chỉ
phù hợp với các nước “tư bản” hay các nước đang phát triển không thuộc hệ thống
cộng sản, chứ không thể áp dụng nguyên xi vào các nước cộng sản – dù đã chuyển
sang con đường kinh tế thị trường như Trung Quốc và Việt Nam.
Một ví dụ điển
hình là sự kiện tờ Economist ở Anh cố gắng thiết lập “Chỉ
số chủ nghĩa tư bản thân hữu” (Crony-Capitalism Index) để đo lường ảnh
hưởng của hiện tượng “tư bản thân hữu” đối với một số nền kinh tế. Vào tháng 3
năm 2014, tờ báo này công bố bảng đánh giá xếp loại 23 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Một trong những điều nghịch lý nổi bật là trường hợp của Trung Quốc: trong bảng
xếp loại này, Trung Hoa lục địa được xếp thứ 19 về chỉ số tư bản thân hữu, cao
hơn so với Hoa Kỳ (xếp thứ 17) và nước Anh (xếp thứ 15)([9]). Điều đó có nghĩa là Trung Quốc ít
bị ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản thân hữu hơn so với Hoa Kỳ và Anh!
Thực là một điều
nghịch lý, vì nếu dựa theo bảng xếp loại về “Chỉ số nhận thức tham
nhũng (Corruption Perception Index) của tổ chức Minh bạch Quốc
tế (Transparency Internationale) thì vào năm 2014 Trung Quốc ghi điểm
rất kém (36/100 điểm, xếp thứ 100/175 nước), trong khi Anh đạt 78 điểm (xếp hạng
14/100) và Hoa Kỳ đạt 74 điểm (xếp hạng 17/100). Làm thế nào mà hai nước ít
tham nhũng (Hoa Kỳ và Anh) lại bị ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản thân hữu nhiều
hơn so với một nước tham nhũng nặng nề như Trung Quốc?
Chỉ có thế lý giải
nghịch lý nói trên bằng một số lý do sau đây:
- Mặc dù Trung
Quốc đã từ bỏ con đường kinh tế tập trung chỉ huy và tiến khá xa trên
con đường kinh tế thị trường, nhiều ngành công nghiệp đem lại nhiều “đặc lợi”
vẫn còn bị khống chế bởi các doanh nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nước. Các doanh
nghiệp đó vẫn nhận được nhiều “ân huệ”, được ưu đãi tương đương hoặc cao hơn
so với các doanh nghiệp tư nhân, nhưng các chuyên gia của Economist đã không
tính (hoặc không thể đo lường) yếu tố này. Chính khu vực kinh tế “quốc doanh”
còn sót lại – luôn được sự bảo trợ, ưu ái của nhà nước, cũng là một nơi phát
sinh nạn “tìm kiếm đặc lợi” và đẻ ra nạn tham nhũng.
- Tài sản của
các nhà “tư bản đỏ” và các quan chức ở Trung Quốc thường bị che giấu hoặc phân
tán cho nhiều thành viên trong gia đình. Chính tờ Economist trong
bài báo đã dẫn cũng thừa nhận rằng Trung Quốc là “nơi mà các bài báo phanh phui
gần đây cho thấy nhiều chính trị gia có thế lực đã ngụy trang tài sản của họ bằng
cách thuyết phục các bạn bè và gia đình giữ tài sản nhân danh họ” và “các ghi
chép tài sản không đáng tin cậy cũng giúp che giấu ai sở hữu cái gì”.
Theo điều tra của ICIJ
(The International Consortium of Investigative Journalists) – một mạng
lưới quốc tế với hơn 190 nhà báo điều tra của hơn 65 nước, các quan chức và
các nhà tư bản đỏ ở Trung Quốc thường tìm cách ngụy trang tài sản của họ bằng
cách mở các công ty bí mật ở các “cảng trú ẩn thuế” (tax haven) như Quần đảo
Virgin thuộc Anh, quần đảo Cook hay Samoa. Trong số những nhân vật che giấu tài
sản, có cả con trai của cựu Thủ tướng Ôn Gia Bảo và Deng Jiagui (鄧家貴 Đặng Gia Quý) – anh
rể của đương kim Chủ tịch nước kiêm Tổng bí thư Tập Cận Bình. Ngoài ra, còn có
bà con họ hàng của các quan chức cao cấp như cựu Chủ tịch nước kiêm Tổng bí thư
Hồ Cẩm Đào, cựu Thủ tướng Lý Bằng, và cố lãnh tụ tối cao Đặng Tiểu Bình, v.v…([10])
Như vậy, khi áp
dụng khái niệm “tư bản thân hữu” vào trường hợp của Trung Quốc, cần phải xét đến
những đặc điểm riêng biệt của nền kinh tế của nước này – một nền kinh tế chưa
hoàn toàn thị trường hóa, còn chịu sự điều chỉnh nặng nề của nhà nước. Mặt
khác, cần phải xem xét cả hệ thống chính trị tại đây, một chế độ chính trị chưa
hoàn toàn thoát ra khỏi khuôn khổ của một chế độ độc tài-hậu toàn trị
(post-totalitarian regime).
Mặc dù có những điểm
khác biệt, kể từ đầu thập niên 1990 đến nay, mô hình kinh tế-chính trị của Việt
Nam ngày càng giống với mô hình của Trung Hoa lục địa. Vì vậy, để có thể hiểu
được trường hợp của Việt Nam, thiết tưởng không có gì tốt hơn là tìm hiểu trường
hợp của Trung Quốc. Đó là điều chúng ta sẽ đề cập trong bài sau.
Đà Lạt 28-1-2016
M.T.L.
([1]) Mai
Thái Lĩnh, Nhóm lợi ích là gì? Bauxite Vietnam 7-1-2016: http://www.boxitvn.net/bai/40235
([2]) Từ
“crony” đầu tiên xuất hiện vào thế kỷ 18 ở London. Theo Từ điển Oxford, nó xuất
phát từ tiếng Hy Lạp chronios(χρόνιος) – có nghĩa là “lâu năm”.
([3]) David
Henderson, “Rent seeking”, The Concise Encyclopedia of Economics:
http://www.econlib.org/library/Enc/RentSeeking.html
([4]) Margareta
Pagano, “Luigi Zingales: A crusader against crony capitalism”, The
Independent, 21 June 2012:http://www.independent.co.uk/news/business/analysis-and-features/luigi-zingales-a-crusader-against-crony-capitalism-7869975.html
([5]) Cảng
trú ẩn thuế (tax haven) trong tiếng Pháp được gọi là thiên đường tài chính
(paradis fiscal), là các quốc gia hay thành phố đánh thuế thu nhập rất thấp, thậm
chí bằng không (zéro).
([6]) Transparency
International, Global Corruption Report 2004, p. 13:http://www.transparency.org/whatwedo/publication/global_corruption_report_2004_political_corruption
([7]) Manuel
F. Amario, “The Philippine’s debt hole”, Inquirer November 3rd, 2013: http://opinion.inquirer.net/64639/the-philippines-debt-hole
([8]) Steven
Radelet, Indonesia: Long Road to Recovery, Harvard Institute for
International Development, March 1999:http://www.cid.harvard.edu/archive/hiid/papers/indonesia.pdf
([9]) “Our
crony-capitalism index: Planet Plutocrat”, The Economist, Mar 15th
2014:
http://www.economist.com/news/international/21599041-countries-where-politically-connected-businessmen-are-most-likely-prosper-planet
([10]) Dexter Roberts,
“China's Elite Wealth in Offshore Tax Havens, Leaked Files Show”, Bloomberg
Businessweek's January 22, 2014 :
http://www.bloomberg.com/bw/articles/2014-01-22/chinas-elite-wealth-in-offshore-tax-havens-show-leaked-files
Nguồn: http://boxitvn.blogspot.com/2016/01/tu-tu-ban-than-huu-en-cong-san-than-huu.html