Tqvn2004 dịch
Dân chủ xã hội
(Social democracy) là một ý thức hệ chính trị xuất hiện từ cuối thế kỷ 19 từ chủ
nghĩa xã hội (Socialism). Không giống như chủ nghĩa xã hội, với mục tiêu thay
thế toàn bộ chủ nghĩa tư bản (Capitalism), chủ nghĩa dân chủ xã hội nhắm tới cải
tạo chủ nghĩa tư bản để loại bỏ những bất bình đẳng của chủ nghĩa này.
Quốc tế Xã hội
Chủ nghĩa (Socialist International hay SI) -- một tổ chức toàn cầu của các đảng
dân chủ xã hội (social democracy) và xã hội dân chủ (democratic socialist) -- định
nghĩa chủ nghĩa dân chủ xã hội như một hình thức lý tưởng của nền dân chủ, với
khả năng giải quyết những vấn đề xảy ra trong chủ nghĩa tư bản không có sự điều
chỉnh. Quốc tế Xã hội nhấn mạnh các nguyên tắc sau đây: Thứ nhất, Sự tự
do -- không chỉ có tự do cá nhân, mà cả tự do khỏi sự phân biệt đối xử
và tự do khỏi sự phụ thuộc vào chủ sở hữu tư liệu sản xuất và những người lãnh
đạo độc đoán. Thứ hai, Sự bình đẳng và công bằng xã hội --
không chỉ trước pháp luật mà còn bình đẳng về kinh tế và văn hóa nữa, và bình đẳng
về cơ hội cho mọi người, kể cả những người có khuyết tật về thân thể, tinh thần
hay khả năng hòa nhập xã hội. Cuối cùng, Sự đoàn kết -- đoàn kết
và có tình thương đối với những nạn nhân của sự bất công và bất bình đẳng.
Các đảng dân chủ
xã hội có nguồn gốc ban đầu từ những người theo chủ nghĩa xã hội dân chủ
(democratic socialists) và những người theo chủ nghĩa xã hội cách mạng
(revolutionary socialists) như Rosa Luxemburg và Vladimir Lenin. Sau chiến
tranh thế giới lần thứ nhất và cuộc cách mạng Nga, dân chủ xã hội trở nên gắn
bó trực tiếp với con đường không-sử-dụng-cách-mạng.
Thuật ngữ
"Dân chủ xã hội" còn có thể hiểu như một loại xã hội đặc biệt mà những
nhà dân chủ xã hội ủng hộ.
Các đảng chính
trị dân chủ xã hội
Các đảng chính
trị dân chủ xã hội tồn tại ở nhiều quốc gia dân chủ, và được tìm thấy ở Châu
Âu, Canada, Úc, New Zealand và các nơi khác. Trong nửa đầu thế kỷ 20, các đảng
như Đảng Lao Động (Anh), Đảng SPD (Đức) và Đảng Lao Động (Úc) đã từng cổ vũ cho
cách chính sách như luật lao động mạnh hơn, công hữu hóa các ngành công nghiệp
chủ yếu, và hỗ trợ phúc lợi xã hội lớn. Đa số các đảng dân chủ xã hội Châu Âu
là thành viên của Đảng Xã hội Châu Âu, đây là một trong những đảng chính trị ở
tầm châu lục, và hầu hết các đảng dân chủ xã hội là thành viên của tổ chức Quốc
tế Xã hội (SI) - là hậu thân lịch sử của Quốc tế Thứ Hai (Second
International).
Trong nửa sau của
thế kỷ 20, đa số đảng dân chủ xã hội từ bỏ các chính sách kinh tế xã hội chủ
nghĩa, và chủ nghĩa xã hội nói chung. Nhiều nhà dân chủ xã hội hiện đại còn mở
rộng mục tiêu của mình để bao gồm các khía cạnh như bình đẳng giới, bình đẳng sắc
tộc và chủ nghĩa đa văn hóa (multiculturalism).
Kể từ những năm
1980, một số đảng dân chủ xã hội đã tiếp nhận các chính sách ủng hộ một nền
kinh tế được điều tiết nhẹ và nhấn mạnh vào bình đẳng cơ hội (equality of
opportunity) thay vì bình đẳng thu nhập (equality of outcome) như một chỉ dấu
cho bình đẳng xã hội. Xu hướng này, được biết tới dưới cái tên "Con đường
Thứ ba" (Third Way), gây ra rất nhiều tranh cãi trong nhóm cánh tả, nhiều
người trong đó cho rằng các đảng theo Con đường Thứ ba (như đảng Lao Động Mới ở
Anh) đã "bán rẻ" mình cho hệ tư tưởng bảo thủ, và không còn là dân chủ
xã hội - hoặc thậm chí không còn là cánh tả nữa.
"Xã hội dân
chủ" khác với "Dân chủ xã hội"
Dân chủ xã hội
thường được phân biệt với chủ nghĩa xã hội dân chủ trên cơ sở rằng phần lớn những
người theo Dân chủ Xã hội sẽ bằng lòng với một xã hội có sự pha trộn giữa các
thành tố của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản; trong khi các nhà Xã hội Dân
chủ sẽ đặt mục tiêu thiết lập, bằng phương pháp dân chủ, một xã hội XHCN với nền
kinh tế XHCN đầy đủ. Một số nhà quan sát cho rằng, các nhà xã hội dân chủ chẳng
qua là các nhà dân chủ xã hội cánh tả (cấp tiến), và ngược lại, nhiều nhà dân
chủ xã hội công khai công nhận rằng mình chịu sự ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx,
và tranh luận chính trị trên cơ sở mà nhiều người theo chủ nghĩa Marx chân
chính có thể nhận ra.
Một số đảng và
cá nhân thuộc xã hội dân chủ có thể được xếp vào hạng dân chủ xã hội; và ngược
lại. Cách dùng từ sai lầm này được sử dụng vì lý do lịch sử.
Nhiều đảng dân
chủ xã hội đã tìm cách tách mình ra khỏi đảng xã hội dân chủ, đặc biệt với sự
xuất hiện của phong trào Con đường Thứ ba. Một số nhà xã hội dân chủ
vẫn còn liên hệ mình với các đảng dân chủ xã hội.
Lịch sử
Trước chiến
tranh - Dân chủ xã hội và chủ nghĩa Marx
Nhiều đảng trong
nửa sau của thế kỷ 19 tự nhận mình là dân chủ xã hội, ví dụ như Liên đoàn Dân
chủ Xã hội (SDF) của Anh, và Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga. Trong hầu hết
các trường hợp, những tổ chức này là các nhóm xã hội cách mạng (revolutionary
socialist) hoặc theo chủ nghĩa Marx, những người không chỉ tìm cách giới thiệu
chủ nghĩa xã hội, mà còn cả dân chủ cho các quốc gia không có dân chủ.
Dòng chảy dân chủ
xã hội hiện đại xuất hiện qua sự đổ vỡ bên trong phong trào xã hội chủ nghĩa
vào đầu thế kỷ 20, giữa hai nhóm có hai cách nhìn khác nhau về lý tưởng của
Karl Marx. Nhiều phong trào có liên quan khác, bao gồm chủ nghĩa hòa bình
(pacifism), chủ nghĩa vô chính phủ (anarchism) và phong trào công đoàn
(syndicalism), xuất hiện đồng thời vào lúc đó (thường là tách ra từ những phong
trào xã hội chủ nghĩa, nhưng cũng có cái bắt đầu từ những lý thuyết mới) và có
những lý do phản đối khác nhau đối với chủ nghĩa Marx. Những nhà dân chủ xã hội,
chiếm đa số những người theo xã hội chủ nghĩa lúc đó, đã không phản đối Marx
(trên thực tế họ cho rằng mình đang đi theo con đường của Marx), nhưng muốn thay
đổi nó theo một cách nào đó và giảm bớt sự phê phán của mình với chủ
nghĩa tư bản. Họ cho rằng chủ nghĩa xã hội cần đạt được thông qua "tiến
hóa" hơn là "cách mạng". Quan điểm này gặp phải sự phản đối dữ dội
từ phía những người theo chủ nghĩa xã hội cách mạng, người cho rằng mọi cố gắng
thay đổi chủ nghĩa tư bản sẽ thất bại, bởi chính người có tư tưởng thay đổi sẽ
dần dần bị hư hỏng và trở thành tư bản bóc lột.
Bất chấp quan điểm
khác biệt, những nhà cải cách và cách mạng vẫn giữ đoàn kết cho tới khi chiến
tranh thế giới thứ nhất nổ ra. Cuộc chiến trở thành cọng rơm cuối cùng đưa căng
thẳng giữa hai bên lên đến điểm tan vỡ. Những nhà xã hội cải cách hỗ trợ chính quyền
quốc gia của mình trong cuộc chiến, một điều được coi là "sự phản bội giai
cấp lao động" đối với các nhà xã hội cách mạng (bởi vì nó phản bội nguyên
tắc rằng các công nhân của mọi quốc gia cần phải đoàn kết lật đổ chủ nghĩa tư bản,
và trên thực tế thường những tầng lớp thấp là người bị gửi vào cuộc chiến, để
chết - làm trì hoãn sự nghiệp vĩ đại). Những tranh luận dữ dội xảy ra trong các
đảng xã hội chủ nghĩa, ví dụ giữa Eduard Bernstein (xã hội cải cách) và Rosa
Luxemburg (xã hội cách mạng) nổ ra trong đảng SPD ở Đức. Cuối cùng, sau cuộc
cách mạng Nga năm 1917, hầu hết các đảng chủ nghĩa xã hội trên thế giới đều rạn
nứt. Những nhà xã hội cải cách thường giữ tên "dân chủ xã hội", trong
khi các nhà xã hội cách mạng bắt đầu gọi mình là "cộng sản" (Communism),
và ngay sau đó tạo ra phong trào cộng sản hiện đại.
Kể từ những năm
1920, sự khác biệt về học thuyết giữa hai nhóm dân chủ xã hội và cộng sản ngày
càng tăng (và ngay cả những người cộng sản cũng không thống nhất được con đường
nào sẽ dẫn họ tới xã hội cộng sản).
Sau chiến tranh
- dân chủ xã hội và xã hội dân chủ
Theo sau sự phân
đôi của dân chủ xã hội và chủ nghĩa cộng sản, dân chủ xã hội tiếp tục phân
chia, giữa những người vẫn còn tin rằng cần phải xóa bỏ chủ nghĩa tư bản (mà
không qua bạo lực cách mạng) và thay thế nó bằng một hệ thống xã hội chủ nghĩa
thông qua biện pháp dân chủ; và những người tin rằng chủ nghĩa tư bản có thể
duy trì nhưng cần có những điều chỉnh và nâng cao, ví dụ như công hữu hóa những
lĩnh vực kinh doanh lớn, thực hiện các chương trình xã hội (như giáo dục và ý tế
công cộng...) và tái phân phối thu nhập qua hệ thống phúc lợi quốc gia (welfare
state) và đánh thuế lũy tiến. Cuối cùng đa số các đảng dân chủ xã hội đi theo
hướng thứ hai, và trong thời kỳ tiền thế chiến thứ hai, đã từ bỏ những lời hứa
hẹn xóa bỏ tư bản chủ nghĩa. Lấy ví dụ, năm 1959, đảng SDP của Đức đưa ra
chương trình Godesberg, từ bỏ đấu tranh giai cấp và chủ nghĩa Marx.
Ở Italy, có đảng
Dân chủ Xã hội khá đặc biệt, trên thực tế nó đại diện cho làn sóng cực tả trong
ý thức hệ dân chủ xã hội quốc tế. Đảng Dân chủ Xã hội Italy trên thưc tế được
thành lập vào năm 1947 và từ năm 1948 vị trí của đảng là "liên minh trung
lập". Kể từ sau cuối những năm 1980, các đảng dân chủ xã hội khác đã chấp
nhận "Con đường Thứ ba", -- trên lý thuyết hoặc thực tiễn. Những nhà
dân chủ xã hội hiện đại thường thích một nền kinh tế pha trộn (mixed economy),
trong đó đa phần là tư bản nhưng với chính phủ đóng vai trò cung cấp một số dịch
vụ xã hội. Nhiều đảng dân chủ xã hội đã chuyển điểm nhấn của mình từ mục tiêu
ban đầu là công bằng xã hội sang quyền con người và các vấn đề môi trường.
Trong vấn đề này, họ đang gặp những thách thức ngày càng tăng từ Greens, những
người coi hệ sinh thái là cơ sở quan trọng của hòa bình, và yêu cầu thay đổi
các biện pháp cung cấp tiền tệ và trao đổi hàng hóa an toàn nhằm đảm bảo tính
toàn vẹn của hệ sinh thái. Đặc biệt ở Đức, những người theo Green, Dân chủ xã hội
và các đảng cánh tả khác đã hợp tác tạo thành "Liên minh Đỏ-Xanh"
(Red-Green Alliances). Điều này cũng không phải là lạ ở Nauy, mặc dù đảng
"green" thường là đảng trung lập hoặc được che chở bởi đảng trung lập.
Con đường Thứ ba
(The Third Way)
Trong những năm
gần đây, một số đảng và chính quyền dân chủ xã hội đã chuyển dịch một cách đáng
tranh cãi khỏi những thành tố truyền thống của dân chủ xã hội -- ủng hộ, ví dụ
như, sự tư hữu hóa các ngành công nghiệp và dịch vụ nhà nước điều hành và giảm
sự điều tiết của nhà nước đối với thị trường. Những thay đổi này được thấy
trong các chính sách của Bob Hawke và Paul Keating ở Úc, Tony Blair ở Anh,
Gerhard Schöder ở Đức, Göran Persson ở Thụy Điển, David Lange, Roger Douglas ở
New Zealand, Wim Kok ở Hà Lan và Ricardo Lagos ở Chile. Nhìn chung, những sự
thay đổi rõ ràng trong chính sách này đã gặp phải sự phản đối đáng kể trong số
các đảng viên và người bỏ phiếu: Nhiều người bỏ phiếu, trên thực tế, đã tuyên bố
rằng lãnh đạo đảng đã phản bội các nguyên tắc truyền thống.
Các nhà dân chủ
xã hội "hiện đại hóa" phản biện rằng các chính sách của họ thuần túy
thể hiện sự thích nghi cần thiết và thực dụng cho chủ nghĩa dân chủ xã hội trước
hiện thực của thế giới mới: hệ thống dân chủ xã hội "truyền thống" giờ
đây được đánh giá là đã trở thành hiện thực vì nó gặp được môi trường quốc tế
phù hợp — Đồng thuận thời hậu chiến ở Bretton Woods, cái đã sụp đổ vào thập
niên 1970 (bao giờ và như thế nào để một đồng thuận tương tự được tái dựng vẫn
còn là mối quan tâm của các nhà dân chủ xã hội). Thêm nữa, hiện nay các đảng
chính trị ở các quốc gia phát triển ngày càng khó thắng trong các cuộc bầu cử dựa
trên nền tảng cánh tả một cách rõ rệt, bởi vì những cử tri hiện nay phần đông
là "trung lưu", nhiều tham vọng và hướng tới tiêu dùng (consumeristic).
Ở Anh, nơi những cử tri này đã từ chối Đảng Lao Động 4 lần liên tiếp từ năm
1979 tới năm 1992, Tony Blair và đồng nghiệp đã phải đưa ra quyết định chiến lược
để công khai tách họ khỏi thiên hướng dân chủ xã hội mạnh mẽ của đảng mình
trong quá khứ. Những thách thức của việc xây dựng các chính sách dân chủ xã hội
mới trong môi trường này là đối tượng tranh luận sâu rộng trong nhóm trung-tả
(centre-left). Một số trung tâm nghiên cứu chính trị, như Policy Network và
Wiardi Beckman Stichting, đã và đang hoạt động tích cực nhằm tạo điều kiện và
xúc tiến cuộc tranh luận này.
Những quan điểm
của dân chủ xã hội ngày nay
Nhìn chung, các
nhà dân chủ xã hội đương đại ủng hộ:
- Những
hệ thống điều tiết của nhà nước đối với doanh nghiệp tư nhân vì lợi ích của
công nhân, người tiêu dùng và sự cạnh tranh bình đẳng.
- Một
nền kinh tế pha trộn (mixed economy) thay vì để thị trường hoàn toàn tự do
(free market) hoặc một thị trường bị kế hoạch hóa (planned economy).
- Ủng
hộ trao đổi buôn bán bình đẳng (fair trade) thay vì trao đổi buôn bán tự
do (free trade)
- Một
hệ thống an ninh xã hội rộng lớn (mặc dù không rộng tới mức mà các nhà xã
hội dân chủ hay xã hội chủ nghĩa hướng tới), với mục đích chống lại nghèo
đói và đảm bảo cho người dân có thu nhập khi ốm đau hoặc thất nghiệp.
- Các
chương trình giáo dục, y tế, chăm sóc trẻ... do chính phủ nắm hoặc tài trợ
cho mọi công dân.
- Chính
sách thuế trung bình tới cao để bù đắp chi tiêu của chính phủ, và một hệ
thống thuế lũy tiến (progressive taxation system).
- Luật
bảo vệ môi trường (mặc dù không tới mức như các đảng Greens yêu cầu).
- Chấp
nhận nhập cư và chủ nghĩa đa văn hóa
- Một
chính sách xã hội tiến bộ và ổn định, mặc dù các nhà dân chủ xã hội có
quan điểm rất khác nhau về vấn đề này. Một số người theo chủ nghĩa dân chủ
xã hội ủng hộ quyền làm đám cưới của người đồng tính, hoặc quyền phá thai,
cũng như một chính sách sử dụng thuốc phiện khá tự do, trong khi một số
khác không có ý kiến - hoặc công khai phản đối các chính sách trên, cho dù
sự đối lập giả tạo có thể được dùng để tìm kiếm lợi ích chính trị.
- Chính
sách đối ngoại ủng hộ thể chế dân chủ, bảo vệ quyền con người và, ở những
nơi có thể, ủng hộ chủ nghĩa đa văn hóa.
- Không
giống với chủ nghĩa tự do, những người dân chủ xã hội ủng hộ các quyền xã
hội (social rights), thay vì quyền con người (human rights).
Những ví dụ về
dân chủ xã hội
Ví dụ cơ bản của
dân chủ xã hội là Thụy Điển, nước đã phát triển rất nhanh trong nhiệm kỳ của
Olof Palme. Thụy Điển đã tạo ra một nền kinh tế mạnh từ loại hình doanh nghiệp
một chủ (sole proprietorship) cho tới các công ty đa quốc gia (như Saab, Ikea
hay Ericsson), trong khi đạt được tuổi thọ trung bình dài nhất thế giới; tỷ lệ
thất nghiệp, lạm phát, tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong, nợ quốc gia và chi phí cuộc sống
thấp, cùng lúc ghi nhận tốc độ tăng trưởng kinh tế lớn.
Một số người chỉ
ra Nauy là một ví dụ về quốc gia dân chủ xã hội, nơi mà Đảng Lao Động Nauy đóng
vai trò quan trọng trong lịch sử chính trị cận đại thông qua những thay đổi
mang tính dân chủ xã sau Thế chiến lần thứ hai. Ở Nauy, hệ thống thuế lũy tiến
được đưa ra và lĩnh vực kinh tế quốc doanh giảm xuống đáng kể. Gần đây, nền
kinh tế Nauy chứng kiến sự tăng trưởng ngày càng tăng (nhiều người tin rằng đó
là do trữ lượng dầu lửa của quốc gia này).
Một ví dụ nối bật
khác là tỉnh Saskatchewan của Canada, nơi mà Liên Đoàn Phúc Lợi Chung
(Cooperative Commonwealth Federation) và hậu thân của nó là Đảng Dân chủ Mới
dành thế thượng phong kể từ năm 1944. Khi tại nhiệm, CCF và NDP đã quốc hữu hóa
các ngành công nghiệp chính, khởi động hàng loạt các công việc công cộng, và
đưa ra dịch vụ xã hội hào phóng như dịch vụ y tế cho mọi người (sau này dịch vụ
này được thực hiện trên toàn lãnh thổ Canada) và bảo hiểm xe ôtô công cộng. Tuy
nhiên ngày nay, mặc dù vẫn duy trì triết lý dân chủ xã hội, Đảng NDP của
Saskatchewan không còn cực tả như ngày xưa. Dưới cách nhìn hẹp hơn, tỉnh
Manitoba của Canada cũng được coi là dân chủ xã hội, với các doanh nghiệp quốc
doanh như Manitoba Hydro. Tuy nhiên đảng NDP ở Manitoba cũng ôn hòa hơn so với
CCF của Saskatchewan. Nhìn chung, các đảng phái địa phuơng của NDP đóng vai trò
đối trọng chính với chính quyền (British Columbia, Saskatchewan, Manitoba &
Nova Scotia) có xu hướng theo Con đường Thứ ba, trong khi các đảng liên bang và
địa phương nhỏ hơn vẫn theo trường phái chủ nghĩa xã hội dân chủ (giống với
CCF).
Những phê phán
chủ nghĩa dân chủ xã hôi
Dân chủ xã hội
chịu phê phán từ cả phía cánh tả, bởi những nhà tự do kinh tế và bảo thủ, và
cánh hữu, bởi những nhà xã hội chủ nghĩa và cộng sản. Đa số chỉ trích tới từ
các nhà tự do kinh tế và xã hội, người đưa ra những lý luận sau:
- Hệ
thống dân chủ xã hội hạn chế quyền của cá nhân, đặc biệt là tự do kinh tế,
tới mức quá đáng (đây là lý luận đưa ra bởi Friedrich von Hayek, người được
cho là đã gây ảnh hưởng tới Margaret Thatcher).
- Sự
điều tiết đặt lên thị trường bởi các nhà dân chủ xã hội hạn chế tính hiệu
quả và sự tăng trưởng của nền kinh tế, dẫn tới sự suy giảm GDP ở quốc gia
đó. Mặc dù lý thuyết ám chỉ mức sống của mọi người đều bị ảnh hưởng, nhưng
trên thực tế chỉ có nhà tư bản là nhìn thấy những ảnh hưởng tiêu cực, còn
những người vô sản, do được bảo vệ chặt chẽ, lại hưởng lợi.
- Dân
chủ xã hội khuyến khích thâm hụt ngân sách chính phủ lớn (Các nhà dân chủ
xã hội đáp trả rằng các chính quyền bảo thủ ở Mỹ và Anh cũng phải chịu
trách nhiệm về thâm hụt ngân sách lớn).
- Sự
cung cấp giáo dục, y tế, chăm sóc trẻ và các dịch vụ khác của Nhà nước dẫn
tới việc hạn chế sự lựa chọn của cá nhân.
Những nhà dân chủ
xã hội đáp lại rằng các chính sách của họ trên thực tế làm tăng quyền cá nhân
thông qua việc nâng cao mức sống của phần lớn dân số, tăng sự chuyển động xã hội
và giảm những mối đe dọa đói nghèo. Quyền cá nhân cũng được đảm bảo, bởi ở nhiều
nơi tồn tại các cơ sở cá nhân thay thế. Người ta cũng cho rằng, bằng cách hạn
chế một số quyền kinh tế, dân chủ xã hội làm cho thị trường trở nên công bằng
hơn - và tự do hơn - cho các doanh nghiệp nhỏ.
Cũng có những chỉ
trích về dân chủ xã hội từ phía cánh tả. Nhiều nhà dân chủ xã hội chối bỏ nhãn
hiệu "xã hội chủ nghĩa" và mục tiêu đạt tới "chủ nghĩa xã hội".
Về phần họ, những nhà xã hội chủ nghĩa coi dân chủ xã hội là rào cản đối với những
thay đổi xã hội mạnh mẽ. Họ cho rằng dân chủ xã hội chỉ có thể hoạt động trong
vòng cương tỏa của hệ thống kinh tế tư bản, hạn chế rất nhiều cải cách xã hội,
và hòa mình vào hệ thống tư bản tới mức không còn có thể nhận ra các nhà dân chủ
xã hội trong đám bảo thủ. Những chỉ trích của cánh tả cáo buộc rằng một số nhà
dân chủ xã hội chuyên nghiệp như Tony Blair (Anh), Gerhard Schröder (Đức), và hẹp
hơn là Göran Persson (Thụy Điển), đã vi phạm những nguyên tắc bình đẳng và công
bằng xã hội thông qua việc giảm thuế, cắt giảm chi tiêu xã hội và bớt phúc lợi
xã hội, cũng như tư hữu hóa và bỏ điều tiết các ngành công nghiệp. Tony Blair
cũng nhân được nhiều chỉ trích bởi sự ủng hộ của mình đối với Tổng thống Bush
và cuộc chiến ở Iraq
Lịch sử và tương
lai của dân chủ xã hội
Nhiều chính sách
đề ra bởi các nhà dân chủ xã hội ở đầu thế kỷ 20 đã được đưa vào thực tế bởi
các chính quyền dân chủ xã hội trên toàn thế giới. Những vụ quốc hữu hóa lớn đã
diễn ra, và vai trò của nhà nước cung cấp các dịch vụ giáo dục và y tế miễn phí
hoặc được trợ cấp tăng lên rất nhiều, và hệ thống tái phân phối thông qua thuế
và phúc lợi đã giảm rất lớn sự bất bình đẳng tài sản. Liệu các chính sách trên
có đem lại lợi ích cho xã hội, tất nhiên, còn là câu hỏi đáng tranh cãi, và các
nhà bảo thủ vẫn tiếp tục nhấn mạnh vào việc loại bỏ những rào cản tới thị trường
hoạt động tự do, với lý luận rằng đây là cách tốt nhất để đem lại tiến bộ xã hội
trong khi mở rộng tối đa tự do cá nhân.
Nhiều người nhìn
nhận rằng dân chủ xã hội đã lùi bước kể từ những năm 1980, với chiến thắng của
Ronald Reagan ở Mỹ và Margaret Thatcher ở Anh và sự thích nghi sau đó của các
nhà dân chủ xã hội với tư tưởng Con đường Thứ ba. Ví dụ ở Anh, đa số các ngành
công nghiệp được quốc hữu hóa trước đây đã được bán trong những năm 1980-1990,
và chính phủ của Tony Blair, thay vì đảo ngược tiến trình này, lại không ngần
ngại tiếp tục nó. Bất bình đẳng về của cải đã tăng ở một số quốc gia. Mặt khác,
người ta thấy có những cải cách dân chủ xã hội khó có khả năng bị đảo ngược
trong tương lai. Ví dụ, sẽ khó lòng thấy mức thuế quay trở lại như hồi thế kỷ
19. Ngay cả ở quốc gia tương đối bảo thủ như Mỹ, cũng có một sự điều tiết đáng
kể về y tế công cộng và bảo vệ môi trường, và những chương trình như Medicare
và Medicaid vẫn tồn tại, bất chấp sự phản đối của khá nhiều nhà bảo thủ.
Nguồn: https://www.danluan.org/tin-tuc/20120630/gioi-thieu-ve-dan-chu-xa-hoi-social-democracy-phan-1