Nghĩ về tương lai của Chủ Nghĩa Tư Bản Mỹ

Posted on
  • Thứ Năm, 15 tháng 12, 2016
  • by
  • Minh Anh
  • in
  • Nhãn:
  • Francis Fukuyama
    Tqvn2004 chuyển ngữ
    Tiến sĩ Francis Fukuyama là một triết gia người Mỹ, đồng thời là một nhà nghiên cứu kinh tế chính trị và nhà văn. Ông nổi tiếng với cuốn sách "Điểm Tận của Lịch Sử và Người Cuối Cùng" (1992), trong đó ông lập luận lịch sử của con người đã đến "điểm tận cùng", tức là thế chế dân chủ phóng khoáng kiểu phương Tây chính là hình thức chính phủ tối hậu của loài người.
    Thiếu thanh khoản hay phá sản?
    Có một cảm giác đang lan tỏa ở Washington rằng người ta vẫn chưa đánh giá đúng bản chất và mức độ của cuộc khủng hoảng mà Hoa Kỳ và thế giới đang phải đối mặt. Chính quyền Obama dường như vẫn xử lý tình hình dựa trên giả định rằng khu vực tài chính Mỹ đang gặp vấn đề thiếu thanh khoản [illiquidity], chứ không phải phá sản [insolvency], và rằng nhiệm vụ [của chính quyền] là phải tạo chỗ dựa cho các ngân hàng Mỹ trong vài tháng tới, cho tới khi thị trường định giá những tài sản "độc hại" của họ một cách công bằng hơn.
    Cuộc khủng hoảng của nước Mỹ bắt nguồn từ những yếu tố mang tính nền tảng của học thuyết Reagan.
    Sự đồng thuận ngày càng tăng giữa nhiều nhà nghiên cứu kinh tế, trái lại, là thị trường đang phá sản. Sự quay đầu nhanh chóng của nền kinh tế thực, được gia tốc bởi sự tan vỡ của thị trường tài chính vào mùa thu năm ngoái, đang tấn công ngược trở lại vào khu vực ngân hàng, khi mà những khoản thế chấp nhà đất chất lượng cao hơn (như Alt-As), các khoản vay kinh doanh địa ốc, và nợ thẻ tín dụng bắt đầu mất khả năng chi trả. Người ta có thể dễ dàng nhìn ra tại sao chính quyền không muốn thừa nhận rằng các ngân hàng đang phá sản, bởi vì điều này đồng nghĩa với việc họ phải quay lại Quốc Hội xin một vài ngàn tỉ USD nữa để tiếp tục cứu giúp [các ngân hàng]. Đó chính là những suy nghĩ "chính trị" cản trở Nhật Bản không xử lý các món nợ xấu [non-performing loan] của mình vào thập niên 1990, và có nghĩa là chúng ta đang đi đúng vào vết xe đổ đó.
    Nguyên nhân khủng hoảng: Chính phủ giảm điều tiết thị trường
    Đảng Cộng Hòa, về phần mình, trốn tránh hoàn toàn những gì xảy ra với quốc gia này khi họ cầm quyền. Chịu trách nhiệm về sự xuất hiện của 500 tỷ USD thâm hụt từ bong bóng kinh tế những năm 2000, nay họ "bỗng nhiên" khám phá ra những mặt tốt đẹp của việc kiểm soát chặt chẽ tài chính, vào đúng thời điểm của chu trình kinh tế mà chi tiêu thâm hụt đang là điều cực kỳ cần thiết. Trong nỗ lực tìm kiếm lý do khiến họ thất bại trong cuộc bầu cử tổng thống năm ngoái, nhiều người đã nói rằng, vấn đề là ở chỗ họ đã lạc lối, rời xa học thuyết Reagan [Reaganism - xem thêm chú thích (1)]. Rất ít thành viên đảng Cộng Hòa chấp nhận sự thực rằng chính những nguyên lý cơ bản của học thuyết Reagan -- trong đó phải kể đến, sự căm ghét của nó đối với việc điều tiết [thị trường], và niềm tin rằng giảm thuế tức là tự cấp tài chính [self-financing] -- là nguồn gốc của vấn đề hiện tại của Mỹ. Phải chăng rằng Đảng Dân Chủ cũng là tòng phạm trong vụ này - Bob Rubin và Larry Summers cũng là những kẻ tin tưởng vào sự giải quy [deregulation - xem thêm chú thích (2)] trong lĩnh vực tài chính như các thành viên Đảng Cộng Hòa, đồng thời cũng chính những thành viên Đảng Dân Chủ trong quốc hội đã bảo vệ cho hai công ty Fannie Mae và Freddie Mac, nguyên nhân dẫn tới việc cả đoàn tàu [kinh tế Mỹ] trệch đường ray.
    Nhưng những ý tưởng cơ bản về khả năng tự điều tiết của thị trường và [hạn chế bớt] bàn tay lông lá của chính phủ chính là của Đảng Cộng Hòa. Cựu Thượng nghị sĩ Phil Gramm, tác giả của Đạo luật Gramm-Leach-Bliley năm 1999, nhằm bãi bỏ Đạo luật Glass-Steagal của thời Đại Suy Thoái và làm suy yếu khả năng điều tiết thị trường chứng khoán phái sinh [derivatives - xem thêm chú thích (2a)] của chính quyền Mỹ, là một trong những người, cùng với Alan Greenspan, phải chịu trách nhiệm lớn nhất về việc tạo nền móng cho cuộc khủng hoảng. Vậy mà ông ta vẫn "dũng cảm" viết một bài trên tờ Wall Street đổ hết trách nhiệm gây ra khủng hoảng cho Đảng Dân Chủ và sự ủng hộ của đảng này dành cho hai công ty Fannie và Freddie. Không còn nghi ngờ gì nữa, chính Fannie và Frieddie là nhân tố đóng góp vào cuộc khủng hoảng. Nhưng rõ ràng không phải lỗi của hai thể chế này mà AIG mở ra thị trường hoán đổi rủi ro tín dụng (CDS) [credit-default swaps - xem thêm chú thích (2b)] một cách khinh suất như thế, hay quỹ Washington Mutual ký kết hợp đồng với người đi vay mà không cần qua thủ tục khảo sát tính khả thi, hay Merrill Lynch tạo ra những hợp đồng cầm cố được chứng khoán hóa [securitized mortgages] nhưng không thể nào định được giá, hay hãng Moody's đánh giá AAA cho các chứng khoán này. Đảng Cộng Hòa sẽ còn lạc lối trên sa mạc, cho tới khi họ thừa nhận với chính họ rằng, cuộc khủng hoảng khổng lồ lần này là kết quả của những yếu tố thuộc về bản chất của chủ nghĩa Reagan.
    Những lý do khiến khủng hoảng còn lâu mới dứt
    Cả hai Đảng Dân Chủ và Cộng Hòa dường như hoạt động dưới một giả định rằng sự suy thoái lần này sẽ chấm dứt ở một thời điểm nào đó vào cuối năm nay, và rằng chúng ta sẽ nhìn thấy sự khôi phục từ từ, bắt đầu vào năm 2010. Chắc chắn là ngân sách trung hạn của Obama được dựa trên giả định rằng chúng ta sẽ lại tiếp tục phát triển mãnh mẽ trong vài năm tới, và sẽ có năng lực để giải quyết các vấn đề dài hạn như sự thâm hụt ngân sách và các quyền lợi nhà nước dành cho các nhóm [entitlements]. Quan điểm cá nhân của tôi là bi quan hơn nhiều, với những lý do liên quan tới kinh tế toàn cầu.
    Những điều kiện dài hạn cho cuộc khủng hoảng hiện thời xuất phát từ hành vi của Châu Á, đặc biệt là Trung Quốc, để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997-97. Như Martin Wolf của tờ Financial Times đã chỉ ra trong cuốn "Sửa chữa Tài Chính Toàn Cầu", các quốc gia trong khu vực đã quyết định bảo vệ mình trước sự chập chờn của thanh khoản toàn cầu bằng cách đảo chiều luồng [tài chính] của mình, và tích lũy dự trữ bằng đồng đô-la Mỹ. Điều này có nghĩa là từ năm 2001 đến 2008, hơn 5 ngàn tỉ USD tiền tiết kiệm nước ngoài được đổ vào nền kinh tế giàu có nhất thế giới, nước Mỹ, tạo động lực cho bong bóng tín dụng và sự lạm dụng phương thức "đòn bẩy" [overleveraging - xem chú thích (3)] cho cả hộ tiêu dùng cá nhân lẫn doanh nghiệp. Mức độ nợ tư nhân (private debt) sau đó tăng một cách khủng khiếp; trái ngược với thời kỳ suy thoái những năm đầu thập niên 80, lúc đó nợ tư nhân ở Mỹ chiếm 123% GDP, năm 2008 số nợ tư nhân ở Mỹ lên tới 290% GDP. Trong đó, nợ của hộ tiêu dùng dịch chuyển từ 48% lên 100% GDP. Đó là lý do tại sao những nỗ lực của Fed để tăng tính thanh khoản ở Mỹ sẽ không có mấy hiệu quả; các hộ gia đình và doanh nghiệp sẽ giải đòn bẩy [deleveraging - xem chú thích (3)] trong một giai đoạn dài hơn nhiều so với các cuộc khủng hoảng trước đây. Người Mỹ cần phải học lại cách sống như những người biết tiết kiệm; họ cần phải làm như thế, nhưng tính tiết kiệm đó sẽ dẫn tới nghịch lý "về sự tiết kiệm" nổi tiếng của Keynes: tổng cầu sẽ sụt giảm.
    Có quá nhiều vấn đề ở phía cung của nền kinh tế; chúng ta đã mất rất nhiều trong lĩnh vực sản xuất của mình, và nền kinh tế dịch vụ, được trông đợi là sẽ bù đắp những thiếu hụt của nền kinh tế sản xuất, lại là một ảo ảnh. Gretchen Morgenstern chỉ ra rằng Merrill Lynch, trong 2 năm qua, đã mất số tiền tương đương với số nó làm ra trong 10 năm trước, dù rằng ban quản trị của nó đã đút túi riêng được hàng tỉ đô-la từ lương và thưởng. Tại đỉnh điểm của bong bóng, thu nhập của khu vực tài chính chiếm tới 40% tổng lợi nhuận doanh nghiệp ở Mỹ, nhưng bây giờ nhìn lại, chúng ta thấy con số này không phản ánh giá trị thực sự được đưa thêm vào nền kinh tế. Khi bạn không chỉ nhìn vào bảng cân đối kế toán ngân hàng, mà nhìn cả vào các ảnh hưởng ngoại lai tiêu cực mà khu vực này tạo ra cho toàn bộ nền kinh tế, năng suất thực mà nó mang lại trong thập niên vừa qua có lẽ sẽ còn thấp hơn nhiều so với thời điểm mà bong bóng vẫn tồn tại. Chúng ta không nhận ra điều này lúc đó, bởi vì chúng bị che khuất bởi sự ham muốn nắm giữ tài sản tiền đô-la Mỹ của các đối tác nước ngoài.
    Nhưng một vấn đề lớn tương đương của tương lai nằm ở phía cầu. Cuộc khủng hoảng đang lan rộng, xuất phát từ sụt giảm nhập khẩu ở Mỹ, cho thấy mức độ mà nền kinh tế toàn cầu đang phụ thuộc vào Mỹ, và đặc biệt là người tiêu dùng Mỹ, để tăng trưởng. GDP quý IV 2008 của các quốc gia công nghiệp hóa giảm mạnh nhất là ở Nhật và Hàn Quốc, không phải vì họ vung tay quá chán giống như Mỹ, mà bởi họ phụ thuộc quá nhiều vào xuất khẩu. Trung Quốc cũng rớt thảm hại với cùng nguyên nhân, cho dù tốc độ không nhanh đến thế. Người tiêu dùng Mỹ sẽ không, và không nên, quay lại với sự tiêu dùng phóng tay bằng tiền vay nợ trong thời gian gần; nhưng các nền kinh tế Á Châu vẫn không kích thích tiêu dùng nội địa. Các hộ gia đình Mỹ đang chứng kiến giá trị tài sản của mình giảm xuống chừng 11,2 ngàn tỉ USD, hay 18%, trong giai đoạn cuối năm 2008, và tiếp tục sụt giảm trong quý đầu năm 2009. Đặc biệt là các baby-boomer [xem chú thích (4)], những người mà tài sản của họ tụt giảm ghê gớm hơn, vì họ nắm giữ nhiều tài sản hơn so với dân số nói chung, sẽ cần phải xây dựng lại sổ tiết kiệm của mình để dành dụm cho tuổi giả, và sẽ không mở lại ví tiền của mình ngay cả khi tín dụng dễ dãi quay trở lại. Các quốc gia Châu Á đã khôi phục tương đối nhanh chóng sau cuộc khủng hoảng những năm cuối thập niên 90, bởi cầu trên toàn thế giới vẫn còn rất mạnh mẽ; còn bây giờ, họ sẽ dựa vào đâu để khôi phục? Hi vọng duy nhất là từ chi tiêu công, cũng giống như gói kích cầu đầy tai tiếng của chính phủ Mỹ; nhưng ngoài nước Mỹ, vẫn còn tương đối ít các quôc gia sẵn sàng - và có khả năng - bước con đường này.
    Tất cả những điều trên cho thấy cuộc khủng hoảng sẽ còn lâu mới chấm dứt, hoặc có thể là một giai đoạn dài tăng trưởng chậm hoặc không tăng trưởng. Chúng ta có thể may mắn lặp lại "thành tích" của Nhật Bản là tăng trưởng hàng năm từ 0 tới 1% trong những năm thập niên 90.
    Cần một mô hình tư bản chủ nghĩa mới
    Chúng ta cần nhìn cuộc khủng hoảng với viễn cảnh dài hạn. Thế hệ baby-boom, mà tôi là một thành viên, đã từng tiêu tiền thái quá và không biết dành dụm, và đã được miễn không phải đóng thuế (trừ một giai đoạn ngắn trong nhiệm kỳ của Cliton, khi mà chính phủ đã thành công trong việc tạo ra thặng dư ngân sách). Để thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng mà thế hệ baby-boom tạo ra, sẽ cần phải có rất nhiều tiền, điều này đồng nghĩa với việc nâng cao mức độ công nợ [public debt], vốn đã rất cao. Thế hệ baby-boom sẽ không chỉ để lại món nợ này cho con cháu của nước Mỹ, mà họ còn làm tăng chi phí chăm sóc y tế [vì họ bắt đầu về già], "đánh chén" một phần lớn GDP tương lai nếu không có sự hạn chế.
    Tất cả những điều này không phải là một thất bại của chủ nghĩa tư bản, nhưng là thất bại của chính sách công ở Mỹ. Chắc chắn chúng ta không thể tránh được, rằng lòng tin vào những thứ mà người Mỹ vẫn tôn thờ -- dân chủ tự do và kinh tế thị trường -- sẽ sụt giảm đáng kể sau cuộc khủng hoảng lần này. Những người từ Latvia tới Hàn Quốc tới Mexico đang phải gánh chịu cuộc khủng hoảng toàn cầu bắt nguồn từ Mỹ. Nó bắt nguồn phần lớn từ lòng tin mà người Mỹ đặt vào khả năng tự điều tiết của thị trường tự do, một khía cạnh quan trọng của cả học thuyết Reagan lẫn cái gọi là mô hình chủ nghĩa tư bản "Anglo-Saxon". Alan Greenspan đã thừa nhận vào mùa Đông năm ngoái rằng ông đã ngạc nhiên khi thấy "sự tư lợi" của cộng đồng tài chính đã không ngăn cản cộng đồng này tạo ra những sai lầm khủng khiếp. Bây giờ, khi mà khu vực [tài chính] công đang phải è cổ ra dọn dẹp sai lầm của họ, chúng ta cần chuyển từ "ngạc nhiên" sang một mô hình tư bản khác, nếu chúng ta muốn sửa chữa nền kinh tế của chính chúng ta, và lấy lại lòng tin trên khán đài quốc tế.

    Nguồn: https://www.danluan.org/tin-tuc/20090323/nghi-ve-tuong-lai-cua-chu-nghia-tu-ban-my
     
    Xem trang web chính thức tại Tinhthankhaiminh.org