Bàn Tân Định
Có một thời, người ta từng
tin rằng Thế chiến thứ nhất sẽ là một cuộc chiến để chấm dứt tất cả các cuộc
chiến ('the war to end all wars'), và cuộc chiến sẽ làm cho các nền dân chủ ổn
định hơn. Theo một quan điểm lạc quan tương tự, Franklin D.
Roosevelt, cựu Tổng thổng Mỹ, cũng ví von rằng Thế chiến thứ hai sẽ là con thuyền
đưa thế giới đến bến bờ dân chủ; sẽ chấm dứt những hành động đơn phương, những
liên minh riêng biệt (theo bè nhóm); và sẽ làm cho các thế lực thế giới trở nên
cân đối hơn [1].
Nhưng những tiên đoán,
những kỳ vọng trên đều không trở thành sự thật, hay có trở thành, nhưng không
hoàn toàn như người ta mong muốn. Thay vì những viễn ảnh tốt đẹp mà
các nhà lãnh đạo chính trị thế giới phát họa ra, người ta thấy Thế chiến thứ nhất
sản sinh ra chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa fascist, và làm đảo ngược quá trình
dân chủ hóa hàng thế kỷ trước đây. Thế chiến thứ hai cho ra đời chiến
tranh lạnh trên một bình diện toàn cầu.
Ngày nay, cuộc chiến
tranh lạnh chấm dứt, và theo sau sự sụp đổ của chế độ cộng sản ở Đông Âu và
Liên Xô cũ, người ta lại lạc quan cho rằng một làn sóng dân chủ sẽ xảy ra trên
thế giới. Có người còn lạc quan tuyên bố rằng lịch sử đã đến thời kỳ
kết cuộc, rằng "Quá trình tiến hóa về ý thức hệ và phổ cập hóa tự do
dân chủ Tây phương là hình thức chính phủ cuối cùng của nhân loại" [2]. Trong
những năm giữa đến cuối thập niên 80s, người ta tiên đoán rằng một làn sóng dân
chủ sẽ lan tràn sang các quốc gia Châu Mỹ Latin, Châu Á, và cả Trung Đông. Có
người còn đi xa hơn, tiên đoán rằng chế độ cộng sản ở Việt Nam sẽ sụp đổ, và Việt
Nam sẽ trở thành một nước dân chủ. Nhưng những gì xảy ra trong thực
tế trong thời gian qua và gần đây cho thấy đó chỉ là những ảo tưởng, những lạc
quan tếu. Thay vào một cuộc xung đột dựa vào ý thức hệ như thời chiến
tranh lạnh, ngày nay thế giới đang lâm vào nhiều cuộc xung đột giữa các sắc tộc
mà văn hóa và văn minh là lằn ranh chia rẻ giữa các dân tộc này. Thay
vào một thế giới lưỡng cực (với hai thế lực siêu cường như ngày xưa), ngày nay
người ta thấy một thế giới đa cực, mỗi vùng chịu ảnh hưởng của một thế lực
chính trị và quân sự. Thành ra, trong cái thế giới bi quan này,
chúng ta thử xét lại quá trình và vai trò của dân chủ trong việc giải quyết các
cuộc xung đột trên thế giới.
Trong
chiều hướng này, cuốn sách bàn luận về dân chủ của Samuel P. Huntington, "The
third wave: democratization in the late twentieth century," rất đáng
được đọc và tham khảo [3]. Nói đến Huntington, người ta nghĩ
ngay đến một nhà khoa học chính trị hàng đầu trong thế kỷ 20, tác giả của một số
bài chính trị luận và sách gây ra tranh cãi sôi nổi trên trường quốc tế, kể cả
quyển "The clash of civilizations" mà người viết bài này đã có
lần giới thiệu. Huntington là giáo sư chính trị học thuộc Trường Đại
học Harvard (Mỹ), và đồng thời là cựu Giám đốc Viện Nghiên cứu Chiến lược John
M. Olin. Ngoài sự nghiệp khoa bảng, Huntington còn phục vụ trong Hội
đồng An ninh Quốc gia (National Security Council) dưới quyền của một đồng nghiệp
cũ là Zbigniew Brzezinski, trong Chính phủ của Tổng thống Jimmy Carter. Huntington
còn là thầy cũ của nhiều nhà nghiên cứu chính trị học và quan chức cao cấp
trong chính quyền Mỹ, kể cả Giáo sư Francis Fukuyama, tác giả của cuốn sách
chính trị luận nổi tiếng, "The end of history and the last man". Do
đó, thiết tưởng những gì Huntington bàn luận cũng đáng để chúng ta để ý đến.
Trong quyển sách quan trọng
này, Huntington nghiên cứu quá trình chuyển tiếp từ các chế độ phi dân chủ sang
chế độ dân chủ của 35 quốc gia chủ yếu ở Châu Mỹ Latin và Châu Á trong thập
niên 1970s và 1980s. Theo phân tích của Huntington, có ba làn sóng
dân chủ xảy ra trong lịch sử cận đại: làn sóng thứ nhất xảy ra vào thời kỳ 1828
- 1926; làn sóng thứ hai từ 1943 - 1962; và làn sóng thứ ba xảy ra từ thập niên
1970s trở đi. Qua phân tích này, Huntington ghi nhận một số điều kiện
cần và đủ để cho các nước phi dân chủ có thể chuyển thành dân chủ. Ngoài
ra, theo cách làm việc tiêu biểu của Mỹ, tác giả còn nêu lên một số cơ hội và
đe dọa cho các nền dân chủ mới. Bài viết này sẽ tóm lược một số ý
chính trong quyển sách và một số nhận xét cá nhân.
Các nhà lí thuyết về dân
chủ học trên thế giới vẫn còn đang tranh luận gay gắt một vấn đề căn bản: môi
trường nào là thuận lợi nhất cho quá trình dân chủ hóa? Có hai trường
phái trong câu trả lời: "thủ công" và "tiền đề". Nhóm
theo trường phái Thủ công lí giải rằng dân chủ hóa chủ yếu là
một sản phẩm của lãnh đạo chính trị. Tức là, dân chủ chỉ hình thành
khi có người lãnh đạo có ý chí và quyết tâm làm một cuộc cách mạng chính trị
cho dân chủ. Những nhà lí thuyết theo trường phái Tiền đề thì
khẳng định rằng một số điều kiện kinh tế, văn hóa, và xã hội là những tiền đề cần
thiết cho sự thành công của quá trình dân chủ hóa, nhưng họ chưa liệt kê cụ thể
những điều kiện này là gì. Tuy nhiên, rõ ràng, cả hai thuyết thủ
công và tiền đề, nhất là các điều kiện kinh tế, đều đóng
vai trò quan trọng trong quá trình dân chủ hóa. Những nguyên tố căn
bản bao gồm: một nền kinh tế phát triển tương đối cao, và sự phổ biến của những
cái mà chúng ta có thể tạm gọi là giá trị văn hóa Tây phương, kể cả Ki-tô
giáo.
Hiện nay, hầu như tất cả
các nước không sản xuất dầu, có thu nhập cao (ngoại trừ Singapore), đều là những
nước theo thể chế dân chủ. Tương tự, tất cả các nước Tây phương, hay
chịu ảnh hưởng của Tây phương (với trường hợp ngoại lệ của Cuba), đều là các nước
đã dân chủ hóa. Ngược lại, các nước phi dân chủ hiện nay là những nước
mà điều kiện thích hợp cho dân chủ hóa còn thấp. Điều này không có
nghĩa rằng hai điều kiện này (kinh tế khá và văn hóa Tây phương) là những điều
kiện tiên quyết cho dân chủ hóa. Ấn Độ là một ví dụ: kinh tế không
phát triển cao, và không phải là xã hội Ki-tô giáo. Hầu hết các nước
phi dân chủ còn lại đều hoặc là nghèo, hoặc có văn hóa phi-Tây phương, hoặc cả
hai. Dân chủ hóa ở các nước này không phải là không có thể xảy ra,
nhưng khả năng xảy ra thì rất kém. Thêm vào đó là các nước phi Tây
phương đang trải qua một quá trình văn hóa về nguồn, đang định hình
bản sắc dân tộc trong thế giới mới. Và trong quá trình này, họ càng
ngày càng kháng cự lại những giá trị văn hóa mà các nước Tây phương đang muốn
xuất khẩu.
Phát triển kinh tế có thể
làm thay đổi văn hóa một quốc gia, và tạo một cái đà quan trọng cho dân chủ
hóa. Nếu giả thiết này đúng, nó sẽ có ảnh hưởng đến các xã hội Hồi
giáo, Phật giáo, Chính thống giáo, và Khổng giáo. Nhưng ngoại trừ
Đông Á (nơi mà nền kinh tế phát triển nhanh và mạnh), các vùng khác còn lại
trên thế giới đều có mức độ phát triển thấp và tụt hậu. Kinh nghiệm
về quá trình chuyển tiếp sang thể chế dân chủ ở các nước Châu Mỹ Latin cho thấy
quá trình dân chủ hóa ở các nước có văn hóa phi Tây phương sẽ gặp nhiều trở ngại
hơn và khó khăn hơn là người ta lạc quan.
Lịch sử luôn mở ra hai
biện chứng đối nghịch theo định luật Newton: bất cứ một phong trào chính trị
nào sau khi được phát triển lại lâm vào tình trạng bị mất đà và sản sinh ra một
lực lượng đối nghịch. Mỗi làn sóng dân chủ trong thế kỷ 20 đều được
theo sau bằng một làn sóng phản dân chủ, mà trong đó, một số (không phải tất cả)
nền dân chủ mới quay trở lại thể chế độc đoán (authoritarianism). Có
vài bằng chứng cho thấy các nước "trở cờ" này có thể tập hợp lực lượng
và làm xói mòn làn sóng dân chủ trong thế kỷ 21. Có thể nói không
ngoa rằng sự mở rộng thể chế dân chủ trên thế giới kể từ năm 1974 là nhờ vào những
can thiệp quân sự, mà trong đó với các nước dân chủ "giải phóng" các
nước không dân chủ bằng chiến tranh. (Như Mỹ dùng vũ lực áp đặt nền
dân chủ lên Panama chẳng hạn). Và cũng như trong chiến tranh, một
khi lực lượng quân đội tiến quá nhanh, quá xa, thì lực lượng bị trải mỏng, do
đó sẽ có nguy cơ bị tấn công ngược lại. Một số nhà lí luận dân chủ
đang lo ngại rằng một xu hướng như thế đang xảy ra trong làn sóng dân chủ trong
thế kỷ 21.
Vài vấn đề của dân chủ
hóa
Nếu
lịch sử là một bài học thì một điều không còn nghi ngờ gì nữa là trong những
năm sắp đến, càng có nhiều nước sẽ trở thành dân chủ. Những nước đã
dân chủ hóa sẽ đóng vai trò quảng bá dân chủ và nhân quyền, và yểm trợ thành phần
dân chủ ở những nước còn dựa vào chuyên chế chính trị. Tuy nhiên,
trong thời gian hiện tại, thì các nước dân chủ cần phải yểm trợ để củng cố những
nước mà dân chủ hóa mới đã vừa hình thành. Một quan điểm mà các lí
thuyết gia về chính trị quốc tế thường bày tỏ là không nên xây dựng thêm các nền
dân chủ mới, mà cần phải dành ưu tiên cho việc hoàn tất và chuyển tiếp dân chủ ở
các nước mà quá trình dân chủ hóa đang tiến hành, đặc biệt là ở Nga, Ukraine,
Nam Phi, và Mễ Tây Cơ.
Những
khó khăn mà các nền dân chủ mới gặp phải bao gồm vấn đề thừa hưởng những trở ngại
do chế độ chuyên quyền để lại, cũng như những vấn đề cá biệt của các xã hội
đang trong quá trình dân chủ hóa. Thể chế dân chủ là một giải pháp
cho vấn đề bạo quyền, nhưng quá trình dân chủ hóa tự nó có thể tạo nên hay làm
cho trầm trọng hơn những vấn đề khác mà thể chế dân chủ phải vật lộn với. Có
ba vấn đề chính:
Thứ
nhất là vấn đề bầu cử. Trong bầu cử, người làm chính trị phải cạnh
tranh để kiếm lá phiếu, và cách thức dễ dàng nhất để kiếm phiếu là kêu gọi và
tranh thủ sự ủng hộ của người cùng sắc tộc, cùng tôn giáo, hay cùng quê
hương. Dân chủ hóa, do đó, [một cách gián tiếp] khuyến khích chủ
nghĩa công xã và xung đột dân tộc. Tuy nhiên cũng có nơi, người ta có qui
định để tối thiểu hóa những xung đột như thế. Chẳng hạn như ở Nam
Phi, lãnh tụ các đảng chính trị lớn đồng ý trước với nhau về những qui định về
kết quả của bầu cử. Kết quả là một sự chuyển tiếp từ chế độ
Apartheid sang dân chủ một cách hòa bình, nhưng trường hợp Nam Phi chưa hẳn là
một ví dụ tốt về quá trình dân chủ hóa. Ở các nước thuộc khối Liên
Xô cũ và Nam Tư, ngược lại, lần bầu cử đầu tiên đem lại quyền lực cho các đảng
phái theo chủ nghĩa quốc gia, và gần như làm tan rã các nước này. Tương
tự, ở Bosnia, cử tri làm ngơ bỏ qua các đảng phái đa tôn giáo: người Serbs bầu
cho các đảng phái của họ; người Croats bầu cho đảng phái người Croats; người
theo Hồi giáo dồn phiếu cho các ứng cử viên thuộc đảng phái Hồi giáo. Người
cử tri tự nhận dạng qua gia đình, tín ngưỡng, huyết thống. Do đó,
ngoại trừ trường hợp mà luật lệ bầu cử được soạn thảo kỹ càng, các chính trị
gia không có lựa chọn nào khác là phải ?về nguồn? để tranh thủ sự ủng hộ của quần
chúng. Ở các nước phi Tây phương, quá trình dân chủ hóa còn cho ra đời
một nghịch lí dân chủ: nó tạo cơ hội cho các nhóm theo chủ nghĩa quốc gia và
tôn giáo trở thành chống Tây phương và phản dân chủ.
Thứ
hai là dân chủ có thể gây ra chiến tranh xuyên quốc gia. Trong một
nghiên cứu mới đây, hai nhà chính trị học Mỹ trình bày dữ kiện cho thấy trong
giai đoạn chuyển tiếp sang thể chế dân chủ, nhà nước có khuynh hướng trở nên
hung hăng, thích gây hấn và dễ gây chiến tranh. Các nước như Nga làm
một bước nhảy vọt từ chế độ chuyên quyền sang chế độ dân chủ có xác suất gây
chiến gấp hai lần các nước còn trong chế độ chuyên chế [4,5]. Xu
hướng gây chiến này trong các nền dân chủ mới xuất phát từ ý muốn lôi cuốn sự ủng
hộ của cộng đồng sắc tộc mà các chính trị gia được bầu lên.
Thứ
ba là trong quá trình dân chủ hóa, những qui chế hành động do nhà nước áp đặt
cho quần chúng được tháo gỡ, và vì thế sẽ tạo nên tình trạng nhập nhằng, không
rõ ràng, các tiêu chuẩn và giá trị đạo đức sẽ trở nên lẫn lộn. Dân
chủ hóa cũng là quá trình làm cho quyền lực của nhà nước yếu đi, và vì thế quyền
lực của nhà nước sẽ bị chất vấn, và có thể gây nên một tình trạng phi luân lí,
và môi trường "laisser-faire" (để mặc do tư nhân điều
hành). Do đó, người ta không ngạc nhiên khi thấy quá trình dân chủ
hóa cũng đồng thời sản sinh ra những hiện tượng xã hội tiêu cực như tội phạm,
ma túy, và ngay cả phân tán nền tảng gia đình, và thậm chí hỗn loạn.
Những
vấn đề xung đột dân tộc, chiến tranh, và tình trạng suy đồi đạo đức xã hội, một
phần lớn, xuất phát từ quá trình dân chủ hóa, nhưng một phần khác cũng do thể
chế dân chủ mới phải thừa hưởng những ?tàn dư? của chế độ chuyên quyền trước
đây. Trong khi phải đương đầu với những vấn đề trên đây, các thể chế
dân chủ mới còn phải đối đầu với vài đe dọa trong việc duy trì nền dân chủ.
Trong
thập niên 1960s và 1970s, làn sóng dân chủ thứ hai bị đe dọa từ hệ thống chính
trị phía ngoài. Ở một vài nước, phong trào Marxist - Leninist nổi dậy
từ thành phần ở nông thôn gây đe dọa cho sự sống còn của nền dân chủ. Những
can thiệp quân sự lật đỗ các chế độ dân chủ ở Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Hàn,
Pakistan, và một số nước ở Châu Mỹ Latin. Những đe dọa này phản ánh
tình trạng kém phát triển kinh tế ở các nước này. Ở những nước này,
số lượng dân sống ở nông thôn vẫn còn chiếm đa số, và nông thôn là địa bàn lí
tưởng cho các phong trào cách mạng; ngược lại, thành phần trung lưu và trí thức
vẫn còn yếu / nhỏ cảm thấy bị đe dọa, và trong trường hợp này, họ đồng ý cho
thành phần quân sự lên nắm chính quyền.
Phần
lớn những nước dân chủ hóa có nền kinh tế phát triển cao. Chẳng hạn
như năm 1965, ở Châu Mỹ Latin, 70% dân số sống ở nông thôn và 70% dân số mù chữ;
ngày nay, con số đó đảo ngược: tỷ lệ đô thị hóa đã lên đến 70% và tỷ lệ dân
chúng biết đọc biết viết lên đến 70%. Trong tình hình này, sự đe dọa
cho nền dân chủ ở thành thị với dân trí tương đối khá không phải xuất phát từ
nông dân mà cũng chẳng phải từ nhóm quân đội, vì các nhóm này không còn chiếm
đa số trong xã hội. Lịch sử dân chủ cho thấy những cuộc đảo chính thành
công chỉ xảy ra ở những nước dân chủ có thu nhập thấp hay cực kỳ thấp, như
Sudan, Nigeria, Haiti, v.v.. Các nhà chính trị học từng làm nhiều
tính toán và cho thấy ở các nước có thu nhập bình quân đầu người từ $1000 đến
$3000, đảo chính thường xảy ra và thành công; ngược lại, ở các nước có thu nhập
trên $3000, đảo chính ít khi nào xảy ra, và khi xảy ra, cũng ít thành công [6]. Ngoài
ra, những cuộc đảo chính chống lại dân chủ thường do các sĩ quân đội cấp tá với
trình độ học vấn tương đối thấp , hơn là các tướng lãnh, lãnh đạo và chủ
trương. Nói chung, giới sĩ quan cao cấp, có trình độ học vấn khá nhận
ra rằng can thiệp bằng quân sự không phải là giải pháp tối ưu để giải quyết các
vấn đề dân chủ.
Nguy cơ mới
Mối
đe dọa cho các nền dân chủ trong thế kỷ 21 sẽ không xuất phát từ giới tướng
lãnh cao cấp hay giới làm cách mạng, nhưng có thể xuất phát từ những người trực
tiếp tham gia vào quá trình dân chủ hóa. Những người có tiềm năng đe
dọa này là các lãnh tụ chính trị đã thắng cử, nắm chính quyền, rồi thao túng
các cơ chế dân chủ để cướp đi hay tiêu diệt nền dân chủ. Trong quá
khứ, khi một nền dân chủ sụp đổ do đảo chính hay cách mạng, sự chuyển tiếp sang
một chế độ chuyên quyền thường ngắn và bi thảm. Với làn sóng dân chủ
thứ ba, vấn đề không phải là đảo chính, mà là sự xói mòn: sự suy yếu dần dần của
nền dân chủ mà "tác giả" là những người được bầu lên lãnh đạo.
Những
đe dọa này thường xảy ra ở nhiều dạng. Một là dưới dạng "khứ
hồi đỏ", tức là những người cộng sản phục hồi quyền lực qua bầu cử dân
chủ. Hiện tượng này đã xảy ra ở Đông Âu và các nước trong liên bang
Xô-viết cũ. Thực vậy, ngoại trừ Tiệp, phần lớn chính quyền trong các
nước khác trong khối này thường do các đảng viên đảng cộng sản, hay nguyên là
lãnh đạo dưới thời cộng sản, cầm đầu. Ở vài nước, các đảng cộng sản
thường tái xuất hiện dưới những cái tên mang tính dân tộc, ái quốc, và chiếm đa
số phiếu trong các kỳ bầu cử. Tuy nhiên, điều khích lệ là hầu như những
người cộng sản (hay từng là cộng sản) chấp nhận và tuân thủ theo các luật chơi
dân chủ, và chính sách kinh tế của họ thường đặt nặng vào tự do thị trường và
an sinh xã hội, tức là không theo loại hình kinh tế tập trung như thời xã hội
chủ nghĩa. Có thể tiên đoán rằng hiện tượng khứ hồi đo có
thể, một lúc nào đó, trở nên một mối đe dọa cho các nền dân chủ trong các nước
cộng sản cũ, như trường hợp ở Slovakia hiện nay, khi mà cộng sản bị mất chính
quyền qua bầu cử, nhưng sau này lại quay trở lại nắm chính quyền cũng qua bầu cử
dân chủ. Nhưng hiện tượng này cũng có thể là dấu hiệu cho thấy những
người cộng sản có khả năng chính trị vượt lên trên ý thức hệ chuyên quyền để trở
thành những người dân chủ thật sự.
Tiềm
năng đe dọa thứ hai là những đảng phái được đắc cử nhờ vào đường lối hay ý thức
hệ phản dân chủ. Điều này đã xảy ra ở các nước Hồi giáo, nơi mà những
nhóm Hồi giáo cực đoan lợi dụng cơ chế bầu cử để nắm lấy chính quyền. Năm
1992, ở Algeria, nhóm quân sự hủy bỏ cuộc bầu cử vì họ thấy đảng Islamic
Salvation Front chắc chắn sẽ thắng cử. Vấn đề này cũng xảy ra ở Thổ
Nhĩ Kỳ, nơi mà đảng theo Hồi giáo, Wefare Party, không những được nhiều phiếu
mà còn chiếm đại đa số trong kỳ bầu cử quốc hội vừa qua. Câu hỏi được
đặt ra là thắng lợi của các đảng phái như thế có phải là lí do chính đáng để
đình chỉ quá trình dân chủ hóa hay không? Câu trả lời là
không. Chưa có bằng chứng nào cho thấy các nhóm cực đoan này nắm
chính quyền qua quá trình dân chủ hành xử như khi họ chiếm chính quyền qua cách
mạng đảo chính (như ở Iran) hay qua dàn xếp (như ở Sudan). Thêm vào
đó là có lí do kinh tế thúc đẩy họ phải hành xử một cách ôn hòa để thu hút đầu
tư và viện trợ từ phương Tây. Ngoài ra, một khi các nhóm cực đoan trở
thành quá khích trong nền dân chủ, một giải pháp kiểu Pinochet vẫn có thể đem
ra ứng dụng. Nhóm quân sự ở Algeria có thể đã can thiệp như Pinochet
từng can thiệp vào chính quyền khi thấy đường lối của chính phủ của Allende di
chuyển sang cánh tả quá nhiều. Pháp, Mỹ, và Tây phương nói chung đã từng
làm hại cho nền dân chủ khi họ không cản trở và không can thiệp khi nhóm quân sự
ở Algeria nắm lấy chính quyền.
Mối
đe dọa thứ ba và cũng là mối đe dọa nguy hiểm nhất là sự tự tin, thậm chí kiêu
căng, của tổ chức hành pháp, nhất là khi một lãnh tụ có quá nhiều quyền hành
trong tay, sẵn sàng đình chỉ hoạt động của tổ chức lập pháp, và cai trị bằng sắc
lệnh. Điều này đã xảy ra ở Nga, Balarus, một số nước trong khối Liên
Xô cũ, và ngay cả ở Châu Mỹ Latin, nơi mà người ta thường mệnh danh là những nền
"dân chủ chuyên chế" (authoritarian democracy), "dân chủ ủy quyền"
(delegative democracy), "Người hùng giới hạn" (bounded strongman),
hay "Lãnh đạo bằng thỏa thuận" (Caudillos by consent). Ở Á
Căn Đình và Venezuela, tổng thống cai trị chủ yếu bằng lệnh. Năm
1995, tổng thống Colombia, khi bị tố cáo có dính dáng vào việc buôn bán á phiện,
ông ta bèn đặt nước này vào tình trạng khẩn cấp và cai trị bằng lệnh trong vòng
ba tháng sau đó. Trong một trường hợp cực đoan khác, ở Peru, tổng thống
Fujimori làm đảo chính nắm lấy chính quyền, đóng cửa cơ quan lập pháp, tư pháp
và các đảng phái chính trị, bỏ tù chính trị gia và các nhà trí thức, kiểm duyệt
truyền thông, và giảm thiểu nhân quyền. Tuy nhiên, sau này Fujimori
cũng dùng quyền chuyên chế này để vô hiệu hóa ảnh hưởng của nhóm khủng bố
Sendero Luminoso (Shining Path), phục hồi trật tự xã hội, ổn định trị giá đồng
tiền, khuyến khích đầu tư từ ngoại quốc, biến nước này có nền kinh tế phát triển
nhanh nhất trong vùng, và cuối cùng ông được đắc cử với đại đa số phiếu. Trong
một trường hợp tương tự, tổng thống Menem của Á Căn Đình cũng tái đắc cử qua những
chính sách và đường lối phi dân chủ, thậm chí phản dân chủ. Câu hỏi ở
đây là có phải việc thực hiện những biện pháp phi dân chủ này cung cấp một
phương tiện để chính phủ đạt được những mục tiêu mà họ không đạt được qua
phương tiện dân chủ? Ngay sau khi Fujimori cướp chính quyền, Bộ trưởng
Ngoại giao Mỹ, James Baker, nói "Anh không thể cứu vớt nền dân chủ bằng
cách triệt phá nó," nhưng có lẽ Fujimori chỉ làm như thế!
Sau
cùng, nhiều chính phủ dân chủ mới không ngần ngại giảm bớt quyền chính trị và
dân sự của quần chúng. Tự do truyền thông bị hạn chế, báo chí, đài
truyền hình, và đài phát thanh bị chính phủ kiểm duyệt hay kiểm soát. Người
đối lập chính trị bị quấy rầy, làm khó làm dễ. Những yêu sách chính
đáng của người thiểu số bị khước từ. Nhiều khi, người thiểu số bị
đàn áp tàn bạo, như đã xảy ra ở Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Dương, và Trung Quốc.
Một
xu hướng chung trong làn sóng dân chủ thứ ba là các nước này không hoàn toàn
dân chủ. Trong một phân tích do tổ chức Freedom House (Mỹ) thực hiện
năm 1995, các nhà nghiên cứu ghi nhận 114 nước có thể chế dân chủ. Nhưng
trong số này, có đến 37 nước (hay một phần ba) là có "tự do chừng mực"
(partly free) bởi vì chính phủ ở các nước này giới hạn tự do chính trị và nhân
quyền. Trong một nghiên cứu tương tự được tiến hành vào năm 1993,
nhà nghiên cứu Larry Diamond cho thấy trong các nước ở Châu Mỹ Latin, chỉ có 4
nước là hoàn toàn dân chủ, 3 nước theo thể chế chuyên quyền, và phần còn lại 15
nước là dân chủ nửa vời. Trong những năm cuối thế kỷ 20, trong số 22
nước đó đó có 11 nước trở thành kém dân chủ hơn, 5 trở thành dân chủ hơn, và 6
không thay đổi vị trí, so với thập niên 80 [7]. Thành ra, sự
phân phối các nước trong trục số từ phi dân chủ đến dân chủ theo dạng hình cái
chuông: một số lớn các nước theo thể chế dân chủ nửa vời, nằm phần chính giữa,
giữa hai cực Trung Quốc và Đan Mạch.
Lựa chọn khác?
Winston
Churchill, cựu thủ tướng Anh, từng nhận xét rằng dân chủ là một hình thức chính
phủ tồi nhất, nhưng ngoài nó ra, không có hình thức nào khá hơn. Nếu quả
thật không có hình thức chính phủ nào thay thế thì điều gì sẽ xảy ra? Trong
các nước đã phát triển, giàu có, đa số quần chúng trở nên xa lánh chính trị,
ghét những chuyện thế sự, cực kỳ hoài nghi những nhà chính trị, và nhất là
không tin tưởng người khác. Những thái độ này có lẽ phản ánh sự vắng
mặt của một hệ thống chính quyền khác với dân chủ, hay một ý thức hệ khác có khả
năng cạnh tranh với ý chủ nghĩa tư bản. Nếu sự lựa chọn là giữa một
chính phủ tồi nhất và vô chính phủ, người dân có thể chọn lựa vô chính phủ.
Tình
thế này có thể xảy ra trong làn sóng dân chủ thứ ba hay không? Có một
nền dân chủ nào khác khá hơn hay không? Ở một mức độ, câu trả lời là
không. Trên thế giới, tôn trọng các ý tưởng và thủ tục dân chủ là một điều
cần thiết. Tính hợp pháp của chính phủ tùy thuộc vào chừng mực mà ý
muốn của người dân, những người đã ủng hộ (hay không ủng hộ) chính phủ trong lần
bầu cử. Song, đó không phải là một trường hợp đại chúng cho toàn thế
giới, vì có ít nhất là hai hệ thống chính trị khác với dân chủ đã được đề cập
hay đề nghị cho các nước trong thời kỳ hậu cộng sản. Một là thể chế
Hồi giáo, một hệ thống chính trị dựa vào kinh Koran và luật Sharia. Tuy
nhiên, cơ cấu và tổ chức các cơ sở chính trị trong hệ thống chính trị Hồi giáo
vẫn chưa được rõ ràng, và thường thường nằm dưới dạng quân chủ chuyên chế (như ở
Saudi Arabia) hay bán tôn giáo (như trường hợp của Iran). Nhưng chưa
có một quốc gia tổ chức chính phủ theo mô hình Hồi giáo nào đã thành công trong
kinh tế hay đạt được một sự ổn định chính trị để làm gương cho các nước khác
noi theo. Thành ra, mô hình tổ chức chính phủ Hồi giáo không hấp dẫn
được ngay cả những nước theo Hồi giáo!
Mô
hình thứ hai có khả năng cạnh tranh với dân chủ là Chủ nghĩa độc đoán theo kiểu
Á châu ("Asian authoritarianism"). Những thành công ngoạn
mục về kinh tế của Nam Hàn, Đài Loan, Hồng Kông, và Tân Gia Ba (Singapore) dưới
sự cầm quyền của các chính phủ phi dân chủ, cùng với những kỷ lục phát triển
kinh tế ở Mã Lai, Thái Lan, Nam Dương, và quan trọng hơn hết, Trung Quốc, cũng
dưới sự lãnh đạo của các chính phủ phi dân chủ. Ngoại trừ Nhật Bản,
chưa có một nước dân chủ nào trên thế giới đạt được một tỉ lệ tăng trưởng kinh
tế 8% hoặc cao hơn dưới sự lãnh đạo của các chính phủ chuyên quyền ở Đông Nam Á
châu. Trường hợp thành đạt của những nước này, trước hết, là một chứng
minh hùng hồn cho thấy dân chủ không phải là một mô hình chính trị lí tưởng duy
nhất cho thế giới. Các nước trong khối Liên Xô cũ rất ngưỡng mộ mô
hình chính phủ chuyên quyền ở Đông Nam Á, và có thời nghĩ rằng họ sẽ áp dụng một
thể chế tương tự. Mô hình lãnh đạo của các nước Đông Nam Á đã được
thai nghén từ giữa thập niên 1980s ở Trung Quốc, qua khái niệm "Chủ nghĩa
độc đoán mới" ("New authoritarianism"). Các lí thuyết
gia Trung Quốc muốn dùng học thuyết này thay thế cho lí thuyết của chủ nghĩa
Mác-Lê, làm nền tảng cho việc từ bỏ chế độ cực quyền (totalitarianism), tiến đến
một nền kinh tế thị trường, và duy trì một hệ thống chính trị chuyên
chế. Gần đây nhất, những khái niệm tương tự cũng được Thủ tướng
Mahathir (Mã Lai) và đáng chú ý hơn là Lý Quang Diệu (Singapore) đề
xuất một cách khá chi tiết. Vài năm qua, người ta chứng kiến một cuộc
vận động mà có thể gọi là "Chiến dịch văn hóa Tân Gia Ba"
(Singaporean cultural offensive). Người Tân Gia Ba lí giải rằng có
nhiều khác biệt cơ bản giữa các tiêu chuẩn Á châu và Tây phương: người Á châu
đánh giá cao cộng đồng, trật tự, kỹ luật, và kính trọng nhà chức trách; người
Tây phương phóng túng, đặt nặng tự do cá nhân, và bất kính với nhà chức
trách. Lý Quang Diệu và đồng nghiệp của ông lí giải rằng tự do cá
nhân và bất kính với nhà chức trách là lí do làm cho đạo đức bị suy đồi và tan
rã xã hội ở các nước Tây phương; và muốn phòng ngừa những tình trạng đó trong
xã hội Á châu, người Á châu phải cưỡng lại những áp lực của Tây phương về vấn đề
nhân quyền và dân chủ. Lý Quang Diệu và các nhà lãnh đạo khác ở Đông
Nam Á lí luận rằng cái mà người dân Á châu mong muốn và cần không phải là một
chính phủ dân chủ, mà là một chính phủ giỏi, một chính phủ có khả năng quản lí
một nền kinh tế thịnh vượng, ổn định chính trị, duy trì trật tự xã hội, khuyến
khích hoà hợp cộng đồng, và có khả năng quản lí hữu hiệu và trong sạch.
Sự
tương phản giữa mô hình mà Lý Quang Diệu đề xuất và mô hình dân chủ theo kiểu
Tây phương thường được biểu hiện qua những khác biệt giữa Tân Gia Ba và Đài
Loan (Đài Loan theo mô hình dân chủ Tây phương), mà tờ New York Times đã
có lần tóm tắc một cách tuyệt vời: "trong sạch và bần tiện" (clean
and mean) một mặt, và "thô tục và tự do" (filthy and free) mặt
khác. Tân Gia Ba và Đài Loan là hai xã hội Trung Hoa thành công nhất
trong 5000 năm lịch sử của văn minh Trung Hoa, và một trong hai xã hội này sẽ
là mô hình tương lai cho Trung Quốc [8].
Một
số chính phủ độc đoán, như Tân Gia Ba chẳng hạn, đã thành công một cách ngoạn mục
trong việc phát triển kinh tế, duy trì trật tự xã hội, và đem lại một cuộc sống
thịnh vượng cho người dân. Nhưng một số chính phủ độc đoán khác lại
là những thảm họa: kinh tế tụt hậu, bạo động xã hội, tham nhũng lan tràn, và bất
bình đẳng nghiêm trọng trong xã hội. Nói chung các chính phủ chuyên
chế gặp hai khó khăn sâu sắc và cố hữu. Thứ nhất, các chính phủ này
không có một cơ chế phản hồi (feedback mechanism), và do đó những dấu hiệu về một
tai họa sắp xảy ra đều bị bỏ qua. Nhà kinh tế học Amatya Sen (người
đoạt giải Nobel kinh tế năm 1998) nhận xét rằng một nước dân chủ như Ấn Độ chẳng
hạn, dù không có tỉ lệ phát triển kinh tế cao như một Trung Quốc phi dân chủ,
nhưng Ấn Độ sẽ không phải gặp một nạn chết đói như Trung Quốc từng trải qua [9]. Chính
trị gia lo lắng tái đắc cử sẽ không dám để cho dân chúng thiếu ăn hay chết
đói. Thứ hai, lí luận cho rằng chính phủ chuyên chế là chính phủ giỏi
hàm ý cho rằng những người nắm quyền cai trị trong các chính phủ này là những
người tài giỏi, tốt. Tuy nhiên, điều này không hoàn toàn đúng với thực
tế. Ngay cả những người khởi đầu sự nghiệp chính trị khao khát được
làm điều tốt cho quần chúng, nhưng khi đã có quyền lực trong tay, họ bị cám dỗ
bởi những đặc lợi cá nhân và trở nên tham nhũng. Nói một cách ngắn gọn,
mô hình chính phủ độc đoán được xây dựng trên thiện chí và bản tính của con người,
nhưng là những thiện chí và bản tính thiếu thực tế.
Dân
Tân Gia Ba có thể có lí do để tự hào về sự thành công của họ cũng như hệ thống
chính phủ trong sạch của họ, một thành tựu vĩ đại nhất của Lý Quang Diệu. Song,
trong khi một chính phủ chuyên chế có thể là một chính phủ tài giỏi trong một
thập niên, hay thậm chí cả một thế hệ, nó không thể "và trong lịch sử
chưa bao giờ" là một chính phủ tài giỏi lâu dài. Các
chính phủ chuyên chế có thể vận hành rất tốt trong một thời gian ngắn, nhưng
kinh nghiệm các nước Tây phương cho thấy chỉ có một chính phủ dân chủ mới có khả
năng tồn tại và đem lại một hệ thống chính quyền tốt về lâu về dài. Hệ
thống chính phủ chuyên chế thiếu một cơ chế tự cải cách: tranh luận công cộng,
tự do ngôn luận, biểu tình, đảng phái chính trị đối lập, và tranh cử. Ngược
lại, chế độ dân chủ được xây dựng trên nền tảng của những quan điểm thực tế về
bản tính của con người, và thừa nhận rằng, như James Madison từng nói: "tham
vọng phải được tạo ra để chống lại tham vọng" (ambition must be made
to counteract ambition). Nền tảng của thể chế dân chủ có lẽ được diễn
đạt một cách ngắn gọn qua câu nói của Reinhold Niebuhr: "Khả năng tiếp
thu công lí của con người làm cho dân chủ có thể tồn tại; nhưng khuynh hướng bất
công của con người làm cho dân chủ trở nên cần thiết" [10].
Chú thích:
[1] Xem sách
"Public papers and addresses of Franklin D. Roosevelt", New
York: Nhà xuất bản Russell and Russell, năm 1969.
[2] Xem
bài báo "The end of history" của Tiến sĩ Francis Fukuyama, đăng trên
Tập san The National Interest, số 16, năm 1989. Trích
trang 4: "The end point of man's ideological evolution and the
universalization of Western liberal democracy as the final form of human
government."
[3] Sách
"The third wave: Democratization in the late twentieth century"
của Samuel P. Huntington, Oklahama: Nhà xuất bản Oklahama University Press, năm
1991, 366 trang.
[4] Một số
tranh luận về lợi và hại của dân chủ được công bố trên Tập san International
Security: bài "Politics and peace" của Henry S. farber, Joan
Gowa, số 20, năm 1995, trang 123-146; "Kant or Cant: the myth of
democratic peace" của Christpher Layne, số 19, năm 1994, trang 5-49;
"The insignificance of liberal peace" của David Spiro, số 19, năm
1994, trang 50-86; "Correspondence: the democratic peace", số 19, năm
1995, trang 164-184; và cuốn "Grasping the democratic peace: principles
for a post Cold war world" của Bruce M. Russett, Princeton: Nhà xuất bản
Princeton University Press, năm 1993.
[5] Xem bài
"Democratization and the danger of war" của Edward Mansfield và Jack
Snyder, Tập san International Security, số 20, năm 1995, trang 5-6.
[6] Xem bài
"Reforming civil-military relations" của Samuel P. Huntington, Tập
san Journal of Democracy, số 6, năm 1995, trang 14-16.
[7] Xem bài
"Democracy in Latin America: degrees, illusions, and directions for
consolidations," của Larry Diamond, trong sách "Beyond
sovereignty: collectively defending democracy in a world of sovereign states",
Baltimore: Nhà xuất bản John Hopkins University Press, năm 1996.
[8] New York
Times, số ra ngày 5 tháng Hai, năm 1995. Trong một cuộc kiểm tra về
tham nhũng trong 45 nước trên thế giới, các nhà nghiên cứu xếp hạng tham nhũng
(1=trong sạch nhất, đến số cao: tham nhũng nhất), thì kết quả như sau: Tân Gia
Ba được xếp hạng 3 (sau Tân Tây Lan và Đan Mạch) trong các nước trong sạch nhất,
trong khi đó Hồng Kông được xếp hạng 17; Đài Loan, 25; trong khi đó, Trung Quốc
là nước được xếp vào hạng 44, chỉ trước Nam Dương (hạng 45) là hai nước
tham nhũng nhất thế giới.
[9] Xem sách
"Hunger and public action" của Jean Dreze và Amartya Sen,
Oxford: Nhà xuất bản Claredon Press, năm 1989, trang 210-215.
[10] Tạm dịch từ "Man's
capacity for justice makes democracy possible; but man's inclination to
injustice makes democracy necessary", trích trong quyển "Children
of light and children of darkness: a vindication of democracy and a critique of
its traditional defense" của Reinhold Niebuhr, New York: Nhà xuất bản
Charles Scribners's Sons, năm 1950, trang xi.
Nguồn:http://www.giaodiemonline.com/thuvien/doithoai/Btd_lydanchu.htm