Nguyễn Hưng
Quốc
Hầu như mọi người đều đồng ý: dân
chủ là một thể chế tốt nhất trong lịch sử, ít nhất cho đến lúc này. Tốt về
phương diện đạo đức: Nó tôn trọng những giá trị căn bản và phổ quát của nhân loại,
trong đó, quan trọng nhất là sự tự do, bình đẳng và nhân quyền. Tốt về phương
diện kinh tế: Dân chủ phát huy sáng kiến và năng lực của mọi người vốn là những
yếu tố cần thiết cho sự phát triển và ổn định. Và tốt về phương diện chính trị,
cả về đối nội lẫn đối ngoại: được xây dựng trên nền tảng pháp quyền vững chắc,
các quốc gia dân chủ vừa tránh được các cuộc bạo loạn trong nội bộ vừa tránh được
các xung đột vũ trang giữa họ với nhau.
Ngay cả những nhà độc tài hiện
nay dường như cũng không phản đối những điều vừa kể. Họ cũng nói đến dân chủ,
cũng tự cho chế độ họ là dân chủ, dù là một kiểu dân chủ… khác. Ở các nước xã hội
chủ nghĩa, trước đây, họ vừa tuyên dương dân chủ vừa chủ trương chuyên chính vô
sản; sau, tất cả đều đồng loạt từ bỏ khái niệm “chuyên chính” và chỉ nói đến
dân chủ, dù là dân chủ…xã hội chủ nghĩa.
Ai cũng đồng ý với nhau như vậy.
Tuy nhiên lại có một nghịch lý: trên thế giới, quá trình dân chủ hóa lại rất chậm
chạp và đầy khúc khuỷu.
Năm 1991, trong cuốn The Third
Wave: Democratization in the Late Twentieth Century, Samuel P. Hungtington chia
làn sóng dân chủ thành ba đợt: Đợt thứ nhất, mở đầu bằng cuộc cách mạng ở Mỹ
vào năm 1776 và sau đó, cuộc cách mạng ở Pháp năm 1789, dẫn đến việc hình thành
của gần 30 nền dân chủ. Đợt thứ hai diễn ra ngay sau chiến tranh thế giới lần
thứ hai: Ở đỉnh cao của nó, đầu thập niên 1960, có cả thảy 36 quốc gia được xem
là dân chủ. Đợt thứ ba bắt đầu từ năm 1974, thoạt đầu, ở Bồ Đào Nha, sau, lan
ra nhiều quốc gia khác vùng châu Mỹ La Tinh, sau nữa, châu Á (Philippines, Hàn
Quốc và Đài Loan), và cuối cùng, vào cuối thập niên 1980, các nước Đông Âu với
sự sụp đổ toàn diện của chủ nghĩa Cộng sản. Gần đây, một số nhà nghiên cứu nói
đến đợt dân chủ hóa lần thứ tư bắt đầu với các cuộc cách mạng ở Trung Đông, lật
đổ các chính quyền độc tài ở Tunisia, Ai Cập, Yemen, Libya, v.v..
Điều cần chú ý là: bên cạnh các đợt
dân chủ hóa ấy, người ta còn ghi nhận những đợt thoái trào của dân chủ. Đầu thế
kỷ 20, có lúc trên thế giới có đến 29 quốc gia được xem là dân chủ, thế nhưng,
từ đầu thập niên 1920 đến đầu thập niên 1940, với sự bành trướng của chủ nghĩa
phát xít, số lượng các nước dân chủ bị tuột xuống nhanh chóng, có lúc, chỉ còn
khoảng 12. Trong đợt dân chủ hóa lần thứ hai cũng vậy. Ở cao điểm của nó, có 36
nước dân chủ; lúc thoái trào, từ đầu thập niên 1960 đến giữa thập niên 1970, chỉ
còn 30. Rồi đợt thứ ba cũng có thoái trào: Ngay chính Nga, sau sự sụp đổ của chủ
nghĩa Cộng sản, dưới thời Vladimir Putin, lại trở thành độc tài. Và ở làn sóng
dân chủ thứ tư, tuy chưa hẳn đã chấm dứt, sự thoái trào đã thấy rõ trong tình
trạng bất ổn định ở Ai Cập và Libya.
Những làn sóng dân chủ làm giới
quan sát vui mừng và phấn khởi bao nhiêu, những cuộc thoái trào càng làm cho họ
hoang mang và lo lắng bấy nhiêu. Người ta thấy rõ: Con đường đến với dân chủ là
một con đường hết sức gập ghềnh và đầy bất trắc. Chính vì thế, một câu hỏi được
nhiều người đặt ra là: Làm thế nào để xây dựng dân chủ?
Nói đến việc xây dựng một chế độ
dân chủ nói chung hay ở Việt Nam nói riêng, người ta hay nghĩ ngay đến một khía
cạnh: bộ máy chính quyền; và một điều kiện: những người lãnh đạo trong bộ máy ấy
phải được dân bầu một cách tự do và minh bạch.
Tuy nhiên thiết chế và bầu cử chỉ
là hai khía cạnh của dân chủ, thậm chí, chỉ là hai khía cạnh ở mặt nổi. Tự bản
thân chúng, cả hai khía cạnh ấy đều không bảo đảm được dân chủ. Thiết chế chỉ
là phương tiện, với nó, người ta có thể nhắm đến những mục đích khác nhau, có
những cách hành xử khác nhau, có khi hoàn toàn đi ngược lại dân chủ, hơn nữa,
chà đạp lên dân chủ. Bầu cử cũng vậy. Không hiếm chính phủ được ra đời như kết
quả của một cuộc bầu cử tự do, cuối cùng, kết thúc như một chế độ độc tài vô
cùng tàn bạo. Hitler là một ví dụ. Ở Việt Nam, chính phủ đầu tiên của ông Hồ
Chí Minh năm 1946 cũng là kết quả của một cuộc bầu cử.
Thiết chế và bầu cử chỉ có thể
song hành với dân chủ với điều kiện đầu tiên là chúng phải được xây dựng trên nền
tảng, và được vận hành trên nguyên tắc, của một nền pháp quyền (rule of law) vững
chắc. Pháp quyền đặt ra những giới hạn để bảo đảm thiết chế không bị lợi dụng và
bầu cử không bị biến dạng, để người cầm quyền bị kiểm soát và do đó, biết tự kiềm
chế, và để những người bị trị tiếp tục tin tưởng vào hệ thống, từ đó, tin tưởng
lẫn nhau.
Nói như vậy cũng là nói, pháp quyền,
thật ra, tự nó chưa đủ bảo đảm cho dân chủ. Pháp quyền chỉ là nguyên tắc và cái
gọi là “pháp” (law) trong pháp quyền cũng chỉ là một văn kiện và chữ nghĩa, những
thứ có thể được diễn dịch và ứng dụng theo nhiều cách khác nhau. Tuỳ nơi. Tuỳ
người. Bởi vậy, cũng có thể nói, yếu tố quyết định trong việc xây dựng dân chủ
chính là con người.
Nhưng không phải người nào cũng
muốn và cũng có khả năng xây dựng dân chủ. Rõ ràng là có rất nhiều người không
hề muốn có dân chủ: những nhà độc tài và những người ăn theo các nhà độc tài. Độc
tài thì chỉ có một người hoặc một nhóm người, nhưng đám ăn theo độc tài thì có
thể rất đông: Đó có thể là một giai cấp (ví dụ giai cấp quý tộc ngày xưa) hay một
đảng (ví dụ đảng Nazi, phát xít hay Cộng sản). Những người không có khả năng
xây dựng dân chủ thì lại càng nhiều: Đó là những kẻ có căn tính nô lệ hoặc vô cảm,
hoàn toàn hờ hững với mọi chuyện, kể cả thân phận cũng như cuộc sống của mình
và của cả cộng đồng.
Trong cuốn The Rise of Global
Civil Society: Building Communities and Nations from the Bottom Up (Encounter
Books, 2008), Don Eberly lặp đi lặp lại một câu nói mà tôi rất tâm đắc: “Dân chủ
được làm cho những người dân chủ” (Democracy is made for democrats). Trong hai
chục năm vừa qua, Mỹ đã bỏ công, bỏ tiền và bỏ cả xương máu với ý định mang dân
chủ đến tặng cho Afghanistan và Iraq, nhưng ở cả hai nơi, sau các cuộc bầu cử
khá tự do, dân chủ vẫn không, hoặc ít nhất, chưa bén rễ được. Tại sao? Tại ở những
nơi đó vẫn chưa có những người có văn hoá dân chủ.
Văn hoá dân chủ là văn hoá của
các công dân (civic culture), của những người sống và hành xử như những công
dân. Một cá nhân có thể là một cái gì độc lập, nhưng một công dân, tự bản chất,
bao giờ cũng là một thành viên của một cộng đồng, chủ yếu là của một đất nước.
Trong ý niệm công dân, do đó, đã có sẵn hai ý niệm khác: sự liên đới và trách
nhiệm. Biểu hiện của hai ý niệm ấy là sự quan tâm đối với cái chung và hơn nữa,
sự tham gia vào những vấn đề chung.
Xin lưu ý: công dân là một hiện
tượng lịch sử khá mới. Xưa, chỉ có thần dân. Khái niệm công dân chỉ ra đời từ
thời hiện đại. Có điều, trong thời hiện đại, không phải ở đâu người ta cũng tìm
cách nuôi dưỡng hoặc phát triển những phẩm chất vốn gắn liền với ý niệm công
dân. Chủ nghĩa thực dân bao giờ cũng tìm cách chia rẽ dân chúng các nước thuộc
địa để họ không còn nghĩ đến cái chung; hoặc nếu nghĩ, chỉ thấy những cái chung
ấy đều là những thứ đáng bị chối bỏ: chúng là di sản của tình trạng mọi rợ hoặc
bán khai. Các chế độ độc tài theo thần quyền cũng phủ nhận tư cách công dân, và
thay vào đó, họ chỉ vun bồi một nền văn hoá sùng kính và tuân phục, ở đó, chỉ
có, trên cao, các sứ giả và dưới thấp là các tín đồ. Dưới các chế độ độc tài xã
hội chủ nghĩa cũng vậy, một mặt, với nguyên tắc “dân chủ tập trung”, người ta
thâu tóm hết quyền hành vào tay một số người và đẩy tất cả những người còn lại
vào thế ngoại cuộc; mặt khác, với chủ trương thần thánh hoá lãnh tụ, người ta
biến cái “dân chủ tập trung” ấy thành một thứ siêu quyền lực, khống chế toàn bộ
guồng máy lãnh đạo, và mọi công dân biến thành “thần dân” chỉ biết cúi đầu vâng
dạ như xưa.
Trong văn hoá dân chủ, ngược lại,
công dân luôn luôn cảm thấy mình là một thành viên của cả cộng đồng, mình chia
sẻ trách nhiệm với cộng đồng, và mình có quyền để thực hiện những điều được
chia sẻ ấy. Ý thức dân chủ, trước hết, là ý thức về quyền; nhưng một ý thức về
quyền đúng đắn và thực sự dân chủ bao giờ cũng gồm hai mặt: quyền của mình và
quyền của người khác. Đối diện với hai loại quyền ấy, người ta vừa biết tranh đấu
lại vừa biết đối thoại, thương thảo, nhân nhượng và thoả hiệp.
Một kiểu văn hoá dân chủ như thế
không phải tự nhiên mà có. Hai bài học lớn nhất Mỹ rút ra được sau khi lật đổ
chính quyền Sadam Hussein ở Iraq là: Một, trong công cuộc xây dựng dân chủ cho
một nước, việc thay đổi guồng máy cai trị chỉ là phần nhỏ; và hai, người ta
không thể đem dân chủ từ nước này sang “trồng” vào một nước khác: Dân chủ chỉ
có thể nảy nở từ bên trong.
Từ sau chiến tranh thế giới lần
thứ hai, Mỹ luôn luôn có tham vọng gieo rắc dân chủ khắp nơi trên thế giới vì họ
tin đó là lý tưởng lớn và chính đáng nhất, hơn nữa, đó cũng là phương cách tốt
nhất để bảo vệ hoà bình trên thế giới. Tuy nhiên, Mỹ chỉ thành công được ở hai
nơi: Nhật và Đức. Ở những nơi khác, họ đều thất bại. Vì không hợp… thổ nhưỡng.
Cái gọi là “thổ nhưỡng” ấy chính
là văn hoá. Để xây dựng dân chủ, như vậy, trước hết, là xây dựng văn hoá dân chủ.
Văn hoá dân chủ được xây dựng bằng
cách nào? Một trong những cách chính được ghi nhận trong suốt mấy chục năm nay
là: xây dựng xã hội dân sự (civil society).
Nhận định về cuộc Cách mạng Hoa hồng
tại Georgia, Tổng thống Mikheil Saakashvili cho đó là đóng góp của xã hội dân sự
tại nước ông. Sự thành công của Nam Phi trong việc chuyển tiếp từ chế độ phân
biệt chủng tộc sang một chế độ dân chủ cũng được xem là một thành tích của xã hội
dân sự. Fareed Zakaria đề nghị chính phủ Mỹ, khi hoạch định chính sách ngoại
giao, nên xem việc thay đổi chính phủ như là phó sản (byproduct) của xã hội dân
sự. Liên Hiệp Quốc xem xã hội dân sự đóng vai trò trung tâm trong việc xây dựng
dân chủ. (1)
Dĩ nhiên, tự nó, xã hội dân sự,
dù phổ biến và mạnh mẽ đến mấy, cũng không thể làm lật đổ được một chế độ độc
tài. Nhưng không có xã hội dân sự, không có một nền dân chủ nào có thể được xây
dựng và vững mạnh cả.
***
Chú thích:
1. Các chi tiết nêu trong đoạn
này được trích từ Don Eberly (2008), The Rise of Global Civil Society: Building
Communities and Nations from the Bottom Up, New York: Encounter Books, tr.
234-7.
Nguồn:http://www.voatiengviet.com/a/xa-hoi-dan-su-va-dan-chu/1760886.html