Stephen
M. Walt
Biên dịch: Nguyễn
Huy Hoàng | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Như bạn có thể nhận thấy, sự lạc
quan cuồng nhiệt của những năm 1990 đã nhường đường cho cảm giác bi quan ngày
càng lớn – thậm chí sự báo động – về trật tự tự do hiện tại. Roger Cohen của tờ The
New York Times, một nhà tự do chủ nghĩa sâu sắc và tận tâm, tin rằng “các lực
lượng của sự tan rã đang trên đà tiến tới” và “những nền tảng của thế giới hậu
chiến… đang lung lay.” Một bản sách trắng của Diễn đàn Kinh tế Thế giới hồi
tháng 4 cảnh báo rằng trật tự thế giới tự do “đang bị thách thức bởi nhiều thế
lực – các chính phủ chuyên chế mạnh và các phong trào bảo căn chủ nghĩa phản tự
do.” Và trên tạp chí New York, Andrew Sullivan cảnh báo rằng chính
nước Mỹ cũng có thể bị đe dọa bởi vì nó đã trở nên “quá dân chủ.”
Những nỗi sợ như vậy là điều dễ
hiểu. Ở Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập – và thậm chí ở ngay tại Mỹ
– người ta đang chứng kiến hoặc chủ nghĩa chuyên chế hồi sinh hoặc một khát
khao có một “nhà lãnh đạo mạnh mẽ” với những hành động táo bạo để quét sạch những
bất mãn hiện nay. Theo chuyên gia về dân chủ Larry Diamond, “từ năm 2000 đến
năm 2015, các nền dân chủ đã đổ vỡ tại 27 quốc gia,” trong khi “nhiều chế độ
chuyên chế hiện tại đã trở nên ít cởi mở, thiếu minh bạch, và ít đáp ứng các
công dân của họ hơn.” Vương quốc Anh đã bỏ phiếu rời EU; Ba Lan, Hungary, và
Israel đang đi theo các phương hướng phi tự do; và một trong hai đảng chính trị
lớn của Mỹ sắp đề cử một ứng cử viên tổng thống công khai miệt thị sự khoan
dung vốn là trung tâm của một xã hội tự do, liên tục bày tỏ những niềm tin phân
biệt chủng tộc và những lý thuyết âm mưu vô căn cứ, và thậm chí còn nghi ngờ ý
tưởng về một nền tư pháp độc lập. Với những người trung thành với những lý tưởng
tự do cốt lõi, đây không phải là khoảng thời gian hạnh phúc.
Có thể tôi có quan điểm hiện thực chủ
nghĩa về chính trị quốc tế và chính sách đối ngoại, nhưng tôi không hề
có bất cứ niềm vui nào trước những diễn biến ấy. Như Robert Gilpin, “nếu bị ép
buộc thì tôi sẽ mô tả mình là một nhà tự do chủ nghĩa trong một thế giới hiện
thực chủ nghĩa,” tức là tôi đánh giá cao những phẩm chất của một xã hội tự do,
biết ơn vì được sống trong một xã hội như thế, và cho rằng thế giới trên thực tế
sẽ là một nơi tốt hơn nếu các thể chế và các giá trị tự do được áp dụng rộng
rãi hơn – thậm chí phổ quát. (Tôi nghi ngờ sâu sắc về khả năng tăng tốc tiến
trình ấy của chúng ta, đặc biệt là bằng lực lượng quân sự, nhưng đó là một vấn
đề khác.) Do đó mọi chuyện sẽ hoàn toàn tốt đẹp với tôi nếu những hy vọng trước
đây của các nhà tự do chủ nghĩa đã trở thành hiện thực. Nhưng chúng chưa hề, và
điều quan trọng là phải xem xét tại sao.
Vấn đề đầu tiên là các nhà bảo vệ chủ nghĩa tự do đã
quá đề cao sản phẩm của họ. Chúng ta được bảo rằng nếu các nhà độc tài tiếp tục
ngã ngựa và nhiều nhà nước tổ chức các cuộc bầu cử tự do, bảo vệ tự do ngôn luận,
thực thi pháp quyền, chấp nhận các thị trường cạnh tranh, và tham gia EU và/hoặc
NATO, thì một “vùng hòa bình” rộng lớn sẽ được tạo ra, thịnh vượng sẽ lan rộng,
và bất kỳ bất đồng chính trị kéo dài nào cũng sẽ dễ dàng được giải quyết trong
khuôn khổ của một trật tự tự do.
Khi mọi chuyện không diễn ra suôn
sẻ như thế, và khi một số nhóm trong các xã hội tự do ấy trên thực tế lại bị tổn
hại trước những diễn tiến này, một mức độ phản ứng nhất định là không thể tránh
khỏi. Thậm chí giới tinh hoa ở nhiều nước tự do còn mắc một số sai lầm nghiêm
trọng, bao gồm việc tạo ra đồng euro, xâm lược Iraq, nỗ lực sai lầm trong việc
kiến thiết đất nước ở Afghanistan, và cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
Chúng cùng những sai lầm khác đã góp phần làm suy yếu tính chính danh của trật
tự hậu Chiến tranh Lạnh, mở cửa cho các thế lực phi tự do, và khiến một số nhóm
xã hội dễ bị những lời kêu gọi của chủ nghĩa bản địa “tấn công”.
Những nỗ lực truyền bá một trật tự
thế giới tự do cũng phải đối mặt với sự phản đối như được dự đoán từ các nhà
lãnh đạo và các nhóm người bị đe dọa trực tiếp bởi những nỗ lực của chúng ta.
Ví dụ, khó mà ngạc nhiên được khi Iran và Syria đã làm mọi thứ có thể để ngăn
chặn những nỗ lực của Mỹ ở Iraq, bởi chính quyền George W. Bush đã nêu rõ những
chế độ ấy cũng nằm trong danh sách tấn công của họ. Tương tự, tại sao các nhà
lãnh đạo Trung Quốc và Nga cho rằng những nỗ lực truyền bá các giá trị “tự do”
của phương Tây là mối đe dọa, hay tại sao họ đã thực hiện nhiều bước khác nhau
để ngăn chặn chúng, có khó hiểu hay không?
Các nhà tự do chủ nghĩa cũng quên
rằng các xã hội tự do thành công đòi hỏi không chỉ các thể chế dân chủ hình thức.
Chúng cũng phụ thuộc vào một cam kết sâu rộng với các giá trị nền tảng của một
xã hội tự do, đáng chú ý nhất là sự khoan dung. Tuy nhiên, như những sự kiện ở
Iraq, Afghanistan, và một số nơi khác đã chứng minh, viết một bản hiến pháp,
thành lập các đảng chính trị, và tổ chức các cuộc bầu cử “tự do và công bằng” sẽ
không tạo ra một trật tự tự do đích thực trừ khi cá nhân và các nhóm trong xã hội
cũng theo đuổi các quy chuẩn tự do chủ chốt. Dạng cam kết văn hóa và chuẩn tắc
này không thể được xây dựng qua một đêm hay áp đặt từ bên ngoài, và chắc chắn
không phải bằng những máy bay không người lái, các lực lượng đặc nhiệm, và những
công cụ bạo lực khác.
Một điều rất rõ ràng khác là các
nhà tự do chủ nghĩa hậu Chiến tranh lạnh đã đánh giá thấp vai trò của chủ nghĩa
dân tộc và các hình thức bản sắc địa phương khác, bao gồm chủ nghĩa bè phái, sắc
tộc, các liên kết bộ lạc, v.v… Họ cho rằng những niềm tin nguyên thủy như vậy sẽ
chết dần, bị giới hạn trong các biểu đạt phi chính trị, văn hóa, hoặc được cân
bằng và quản lý một cách khéo léo trong các thể chế chính trị được thiết kế tốt.
Nhưng hóa ra nhiều người ở nhiều
nơi vẫn quan tâm đến bản sắc dân tộc, thù hằn lịch sử, biểu tượng lãnh thổ, và
các giá trị văn hóa truyền thống nhiều hơn quan tâm đến “tự do” như định nghĩa
của các nhà tự do chủ nghĩa. Và nếu Brexit có nói với chúng ta điều gì, thì đó
là một số cử tri (đa phần là người lớn tuổi) dễ dàng lay động trước những sức
hút như vậy hơn là trước những cân nhắc mang tính duy lý kinh tế thuần túy (ít
nhất là cho đến khi họ cảm nhận được những hệ quả). Chúng ta có thể cho rằng những
giá trị tự do của mình có giá trị phổ quát, nhưng đôi lúc những giá trị khác sẽ
đánh bại chúng. Những tình cảm truyền thống như vậy sẽ xuất hiện đặc biệt lớn
khi sự thay đổi xã hội diễn ra nhanh chóng và khó đoán, và nhất là khi các xã hội
từng thuần nhất buộc phải thu nạp và đồng hóa những người có nền tảng khác và
phải làm điều đó trong thời gian ngắn. Các nhà tự do chủ nghĩa có thể nói tất cả
những gì họ muốn về tầm quan trọng của sự khoan dung và những phẩm chất của chủ
nghĩa đa văn hóa (và tôi đồng tình với họ), nhưng thực tế là pha trộn các nền
văn hóa trong một chính thể duy nhất chưa bao giờ là trơn tru hay đơn giản. Những
căng thẳng kéo theo sẽ có lợi cho các nhà lãnh đạo dân túy hứa hẹn bảo vệ các
giá trị “truyền thống” (hoặc “làm đất nước vĩ đại trở lại.”) Hoài niệm không
còn như trước đây, nhưng vẫn có thể là một ẩn dụ chính trị đáng gờm.
Quan trọng nhất, các xã hội tự do
ngày nay gặp rắc rối là do chúng dễ bị tổn thương khi bị tấn công bởi các nhóm
hoặc cá nhân đang lợi dụng chính những tự do vốn là nền tảng của các xã hội tự
do. Như Donald Trump đã chứng tỏ cả năm nay (và như Jean-Marie Le Pen, Recep
Erdogan, Geert Wilders, và những “con buôn chính trị” khác thể hiện trong quá
khứ), các nhà lãnh đạo hoặc các phong trào mà sự cam kết với các nguyên tắc tự
do của họ hời hợt đều có thể lợi dụng các nguyên tắc của xã hội mở và sử dụng
chúng để tập hợp một đám đông ủng hộ. Và không gì trong một trật tự dân chủ có
thể đảm bảo những nỗ lực như vậy sẽ luôn thất bại.
Trong thâm tâm, tôi cho rằng điều
này giải thích tại sao rất nhiều người ở Mỹ và ở châu Âu đang tuyệt vọng muốn
Chú Sam tiếp tục can dự đầy đủ vào châu Âu. Đó không hẳn là vì nỗi sợ về một nước
Nga đang suy thoái nhưng vẫn quyết đoán; mà là nỗi sợ của họ về chính châu Âu.
Các nhà tự do chủ nghĩa muốn châu Âu tiếp tục hòa bình, khoan dung, dân chủ, và
nằm trong khuôn khổ EU, và họ muốn kéo các nước như Gruzia hay Ukraina rốt cuộc
sẽ can dự sâu hơn vào vòng tròn dân chủ của châu Âu. Nhưng trong thâm tâm, họ
không tin người châu Âu có thể quản lý tình hình này, và họ sợ rằng tất cả sẽ
suy thoái nếu cái “núm vú giả của Mỹ” bị cắt bỏ. Bất chấp tất cả những phẩm chất
giả định của chủ nghĩa tự do, rốt cuộc những người bảo vệ nó không thể rũ bỏ mối
nghi ngờ rằng phiên bản chủ nghĩa tự do châu Âu quá mong manh đến mức nó cần sự
hỗ trợ từ Mỹ. Ai mà biết được? Có thể họ đúng. Nhưng trừ khi bạn nghĩ rằng Mỹ
có nguồn lực vô hạn và sự sẵn lòng vô bờ bến để trợ cấp cho việc phòng thủ các
nước giàu khác, thì vấn đề là: những ưu tiên toàn cầu nào khác là thứ mà các
nhà tự do chủ nghĩa sẵn sàng hy sinh để bảo vệ những gì còn lại của trật tự
châu Âu?
Stephen M. Walt là Giáo sư ngành
Quan hệ Quốc tế tại Trường Quản trị Kennedy thuộc Đại học Harvard.
Nguồn: http://nghiencuuquocte.org/2016/07/04/su-sup-do-cua-trat-tu-the-gioi-tu-do/