Biên dịch và hiệu đính: Lê Xuân Hùng
Vào những năm 30 của thế kỷ trước, du
khách trở về từ nước Ý của Mussolini, nước Nga của Stalin hay nước Đức của
Hitler thường ca ngợi lòng nhiệt thành với lý tưởng chung mà họ được chứng kiến
tại các quốc gia này. So với tinh thần đó, chế độ dân chủ ở đất nước họ dường
như thật yếu đuối, bất lực và hèm kém.
Các nền dân chủ hiện đại cũng đang trải
qua một gian đoạn của lòng ghen tị và chán nản (từ phía người dân – ND) như thế.
Đối thủ của họ – những nền chính trị chuyên chế lại đang rạng rỡ với niềm tự
tin đến kiêu ngạo. Trong thập niên 1930, người phương Tây đến Nga để chiêm ngưỡng
các ga tàu điện ngầm của Stalin tại Moscow; ngày nay họ đến Trung Quốc để lên
những chuyến tàu cao tốc từ Bắc Kinh đến Thượng Hải.
Và giống như những năm 1930, họ tự hỏi
làm thế nào các chế độ độc đoán chỉ qua một đêm mà xây xong đường sắt cao tốc
như vậy, trong khi các nền dân chủ phải tốn đến 40 năm mới có thể đi đến quyết
định là họ thậm chí không thể bắt đầu những công việc này. Dấu ấn của Francis
Fukuyama vào năm 1989 – khi ông nói với người dân các nước phương Tây rằng
chế độ dân chủ tự do là dạng thức cuối cùng mà tất cả các nền chính trị đều phấn
đấu trở thành – lúc này không khác gì một di vật lạ lùng thuộc về một thời khắc
đơn cực (unipolarity moment) đã lùi vào dĩ vãng.
Lần đầu tiên kể từ khi Chiến tranh Lạnh
chấm dứt, bước tiến của chủ nghĩa dân chủ hợp hiến (democratic
constitutionalism) đã phải ngừng lại. Quân đội đã tiến hành đảo chính
ở Thái Lan, còn ở Miến Điện thì vẫn chưa rõ liệu các tướng lĩnh quân đội có cho
phép chế độ dân chủ bén rẽ hay không. Với mỗi quốc gia châu Phi như Ghana, nơi
mà các thể chế dân chủ dường như đã khá vững vàng, lại có một Mali, một Bờ Biển
Ngà, hay một Zimbabwe, nơi mà nền dân chủ vẫn đang gặp nhiều khó khăn.
Tại châu Mỹ Latinh, chế độ dân chủ đã
chắc rễ ở Chile, nhưng ở Mexico và Colombia, nó vẫn đang bị đe dọa bởi bạo lực,
còn ở Argentina thì nó đang nỗ lực để trút bỏ di sản của chủ nghĩa Peron.[2] Tại Brazil, dường như việc hàng triệu
người xuống đường biểu tình để phản đối nạn tham nhũng trong tháng sáu vừa qua
không hề có tác động gì đến chủ nghĩa thân hữu (cronysim) trong chính
quyền Brasilia. Tại khu vực Trung Đông, chế độ dân chủ đã có được chỗ dựa vững
chắc tại Tunisia, nhưng hỗn loạn vẫn đang tiếp diễn ở Syria; tại Ai Cập, nền
chính trị độc tài dân cử (plebiscitary authoritarianism)[3] đang thống trị; còn tại các nhà nước
quân chủ (như Ả-rập Saudi – ND), chủ nghĩa chuyên chế (absolutism) đang
trên đà tiến lên.
Tại châu Âu, trong khi giới tinh hoa
chính trị vẫn kiên định rằng liều thuốc cho những khó khăn của châu lục này là
“tăng cường châu Âu hóa” thì một phần ba cử tri của họ lại tỏ ra không hề thiết
tha với điều này. Từ Hungary đến Hà Lan, ở cả Pháp và Anh, phe cánh hữu chống
châu Âu đang củng cố sức mạnh bằng chính sách phản đối Liên minh châu Âu nói
chung, và chống nhập cư nói riêng. Tại Nga, thời khắc dân chủ trong những năm
1990 giờ đây chỉ xa vời như giai đoạn quân chủ lập hiến 1905 – 1914.
Cái bắt tay gần đây giữa Vladimir
Putin và Tập Cận Bình không chỉ nhằm ghi nhận một vụ mua bán khí đốt lớn; hơn
thế nữa, nó báo trước sự trỗi dậy của một liên minh giữa các nhà nước độc tài,
với dân số 1,6 tỉ người sống trên một dải không gian Á-Âu rộng lớn, trải dài từ
biên giới với Ba Lan đến Thái Bình Dương, từ Bắc Cực đến biên giới giáp với
Afghanistan.
Khu vực này bao gồm cả những quốc gia
phụ thuộc (client state) ương ngạnh như Bắc Triều Tiên và những chế độ
chuyên chế gia trưởng (patriarchal despotism) như các nước cộng hòa Hồi
giáo thuộc Liên Xô cũ. Nó cũng bao gồm những đất nước không dễ bảo như Gruzia,
Armenia, và Moldova, nơi mà khát vọng độc lập và dân chủ của người dân đang bị
những nhà lãnh đạo độc tài lên tiếng ngăn cản trong thời gian gần đây – một phần
rút ra từ bài học mà Ukraine đang phải lãnh chịu.
Ukraine là nơi diễn ra cuộc chiến
tranh giành ảnh hưởng giữa những nền dân chủ bạc nhược của phương Tây và những
“quần đảo chuyên chế” đang trỗi dậy ở phương Đông. Nếu như Ukraine không được
phép lựa chọn con đường dân chủ cho chính mình, một số quốc gia có đường biên
giới với Nga cũng sẽ bị ngăn chặn nếu muốn tiến vào con đường này – đặc biệt là
những nước có các nhóm thiểu số nói tiếng Nga.
Sự cạnh tranh giữa chủ nghĩa chuyên chế
và dân chủ
Người ta nói rằng xung đột giữa chủ
nghĩa chuyên chế và chế độ dân chủ không phải là một cuộc Chiến tranh Lạnh mới,
vì những chế độ độc tài ngày nay không có một hệ tư tưởng bành trướng như chủ
nghĩa cộng sản. Điều đó không đúng. Chủ nghĩa cộng sản với tư cách là một hệ thống
kinh tế có thể đã hết thời, nhưng với tư cách là một mô hình thống trị của nhà
nước đối với xã hội, thì nó vẫn còn sống khỏe ở cả Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
lẫn nhà nước cảnh sát của Putin.
Chủ nghĩa độc tài mới này cũng chẳng
thiếu một chiến lược phát triển kinh tế. Mục tiêu của nó là một phương thức hiện
đại hóa quen thuộc: bảo đảm những lợi ích của hội nhập toàn cầu mà không phải
hy sinh quyền thống trị về mặt chính trị và tư tưởng trong nước. Mô hình kinh tế
của nó là chủ nghĩa tư bản có sự can thiệp của nhà nước (price-fixing state
capitalism). Thay vì chế độ pháp quyền, hệ thống pháp lý của nó lại chịu sự
điều hành bằng mệnh lệnh (thường là những mệnh lệnh biến chất). Hệ luân lý của
nó từ chối thuyết đạo đức phổ quát (moral universalism), và khẳng định rằng
các nền văn minh của Trung Hoa và Nga là những hệ thống luân lý hoàn chỉnh và khép
kín. Thế nên việc truy tố những người đồng tính luyến ái không phải là những
hành vi thái quá nhất thời, mà thuộc về bản chất lý tưởng muốn ngăn chặn chủ
nghĩa cá nhân từ phương Tây của họ.
Dù tầm nhìn chiến lược của Nga và
Trung Quốc xuất phát từ những kinh nghiệm lịch sử khác nhau, nhưng những thông
điệp mà họ rút ra từ lịch sử đất nước mình lại khá tương đồng. Cả hai đều ghi
nhớ những mối sỉ nhục mà phương Tây gây ra cho đất nước họ. Cả hai đều thẳng thừng
chối bỏ mô hình chính trị dân chủ tự do. Cả hai đều quả quyết rằng kinh nghiệm
về những cuộc cách mạng và nội chiến trong thế kỷ hai mươi đòi hỏi họ phải có một
chế độ trung ương tập quyền và trị vì với một “bàn tay sắt”.
Những biến thể của phương thức hiện đại
hóa theo chủ nghĩa chuyên chế tại Trung Quốc và Nga sử dụng những nguồn lực
khác nhau, và cả hai vẫn là những đối thủ cạnh tranh xét về chiến lược địa
chính trị (geostrategic) – một nước đang trỗi dậy, còn nước kia thì đang
cố ngăn cản sự tụt dốc của mình – nhưng trong trung hạn, cả hai bên đều có những
lý do thích hợp liên kết lợi ích với nhau. Sự tương đồng về lợi ích (giữa hai
nước này – ND) khá là nổi bật – cả hai bỏ phiếu như nhau trong Hội đồng Bảo
an Liên Hợp Quốc, đều truy tố những người bất đồng chính kiến trong nước, và
cùng nhau ủng hộ chế độ độc tài cuồng sát tại Syria. Chia sẻ sự phẫn uất đối với
trật tự thế giới do Hoa Kỳ thống trị, Trung Quốc và Nga đã nói chung một giọng
kể từ ngày người Mỹ ném bom đại sứ quán Trung Quốc tại Belgrade (thủ đô Nam Tư
cũ, nay là thủ đô Serbia – ND) vào năm 1999.
Những chế độ độc tài mới nổi này chỉ
ra cho giới tinh hoa của châu Phi và đại lục Á-Âu một con đường khác với phương
Tây để phát triển trong thời hiện đại: tăng trưởng nhưng không có dân chủ và tiến
bộ mà không cần tự do. Đó là bản nhạc mê hồn mà một vài nhân vật trong giới
tinh hoa chính trị – đặc biệt là những tên tham quan (kleptocrat) – tại
Á, Phi, và Mỹ Latinh luôn sẵn sàng lắng nghe.
Sự suy đồi của mô hình chính trị Hoa Kỳ
Đối mặt với sự hồi sinh của những chế
độ độc tài, nước Mỹ lại làm một tấm gương xấu cho các nước đồng minh và các quốc
gia thân hữu noi theo. Bộ máy pháp quyền của đất nước này từng được ngưỡng mộ
trên khắp thế giới trong suốt hai thế kỷ. Giờ đây, trong tay các phe phái chính
trị tại Washington và trong nội bộ hai đảng, nó chỉ gây ra tình trạng tê liệt.
Những người nước ngoài hâm mộ nước Mỹ có thể chấp nhận thực tế rằng đồng tiền
có tiếng nói trong chính trị tại Washington, vì tiền bạc luôn có tiếng nói trong
bất cứ nền chính trị nào, nhưng họ không thể coi sự biện minh cuồng nhiệt về mặt
tư tưởng cho quyền lực của đồng đô la tại Washington là điều bình thường. Lý luận
của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ cho rằng đồng tiền trong chính trị cần được bảo vệ y
như quyền tự do ngôn luận là một lý thuyết điên rồ trong mắt người dân của các
quốc gia dân chủ tự do khác. Đối với những nền dân chủ khác ở phương Tây, tiền
chỉ đơn giản là quyền lực chứ không thể thay thế ngôn luận, và nó cần phải được
điều tiết để bảo đảm sự tự do của người dân.
Khó có thể bảo vệ nền dân chủ tự do ở
hải ngoại một cách hăng hái nếu như nó hoạt động kém đến vậy ngay trong nước.
Suy nghĩ này khiến Chủ tịch Hội đồng về Quan hệ Ngoại giao (Council on
Foreign Relations) Richard Haass phải tranh luận trong bài viết Foreign
Policy Begins at Home (Chính sách đối ngoại bắt đầu từ trong nước) rằng
nước Mỹ cần phải chỉnh đốn lại nội bộ trước khi tuyên truyền cho những giá trị
và thể chế của nó ở nước ngoài. Những mục tiêu đối nội hợp với lý lẽ thường
tình mà ông nêu ra trong bài viết – kiểm soát tài chính công, cải cách luật bầu
cử và luật vận động tranh cử, đầu tư vào giáo dục – như một lời kêu gọi hành động,
nhưng để thực hiện những mục tiêu rất cơ bản này trong hoàn cảnh mâu thuẫn đảng
phái như hiện nay quả là một điều không tưởng. Một chế độ dân chủ chỉ có thể hoạt
động nếu như đấu tranh chính trị trong nước được tiến hành bởi những đối thủ cạnh
tranh (politics of adversaries); nhưng hiện tại thì Hiến pháp của Hoa Kỳ
lại đang bị tê liệt bởi một nền chính trị của những kẻ thù (politics of
enemies).
Theo nhà chính trị học lỗi lạc của Học
viện Công nghệ Massachussette (MIT), Barry Posen, vấn đề của nước Mỹ không phải
là sự rối loạn chức năng của nền dân chủ (democratic dysfunction) trong
đối nội, mà là sự quá đà trong đối ngoại. Trong cuốn sách mới của mình với tiêu
đề Restraint (Tự kiềm chế), ông cho rằng nước Mỹ đã đâm đầu
vào những cuộc chiến mà nó không nên gây ra và theo đuổi những mục tiêu mà nó
không thể đạt được, như là nhân quyền, dân chủ và kiến thiết quốc gia (nation-building,
ý chỉ nỗ lực kiến thiết các nhà nước theo mô hình dân chủ tự do của Mỹ ở nước
ngoài – ND), nhằm mục đích thiết lập cái gọi là “bá quyền tự do” (liberal
hegemony). Do đã đầu tư vào quốc phòng nhiều hơn tất cả các quốc gia thân hữu
lẫn kẻ thù, nước Mỹ cho phép các đồng minh châu Âu được ngồi không hưởng lợi (free
riding), và tạo điều kiện cho Israel “cậy thế làm càn” (chủ yếu thông qua
việc xây dựng các khu định cư trên lãnh thổ Palestine).
Theo ông, nếu nước Mỹ có thể cắt giảm
chi phí quốc phòng từ 7,5 % GDP như hiện nay xuống còn 2,5 %, nó có thể buộc
các nước đồng minh phải tự bảo vệ mình và có thêm 75 tỉ đô la để tái thiết đất
nước. Việc một nhà lý luận hiện thực chủ nghĩa bảo thủ đưa ra lời khuyên kiểu
này quả là điều bất ngờ; nó cho thấy mức độ đồng tình giữa những người theo chủ
nghĩa hiện thực và phe cấp tiến trong việc phê phán các khoản chi tiêu quân sự
bị thổi phồng và sự kiêu ngạo của nước Mỹ tại hải ngoại. Cả hai cực tả – hữu
trong hệ thống chính trị dường như đang tiến đến sự đồng thuận rằng “tự kiềm chế”
phải là nguyên tắc tổ chức trong chiến lược đối ngoại của Hoa Kỳ.
Tự kiềm chế có nghĩa là phải biết liệu
cơm gắp mắm, và điều đó đồng nghĩa với việc phải hạn chế sử dụng sức mạnh quân
sự của Hoa Kỳ trong phạm vi cần thiết để bảo vệ những lợi ích sống còn của quốc
gia; không can dự vào các cuộc nội chiến hay những thảm họa nhân đạo ở các nước
khác, dù điều đó có làm lương tâm day dứt đến mức nào; không khuyến khích ủng hộ
dân chủ và nhân quyền ở những nơi mà các giá trị đó khó có thể bén rẽ; buộc các
đồng minh như Nhật Bản, Israel và các nước châu Âu phải tự gánh thêm một phần
ngân sách quốc phòng của họ; và từ bỏ tham vọng định đoạt trật tự công cộng và
hàng hóa công toàn cầu (global public goods and public order).
Bài phát biểu mới đây của Tổng thống
Obama tại Học viện Quân sự West Point cho thấy rằng ông đang lắng nghe lời kêu
gọi của học thuyết tự kiềm chế. Về tư tưởng, ông vẫn tin vào nghĩa vụ ủng hộ
nhân quyền và dân chủ ở hải ngoại, nhưng trọng tâm thật sự trong chính sách đối
ngoại của ông lại là rút quân về nước, hạn chế tình trạng sa lầy ở nước ngoài,
và tập trung vào kiến thiết quốc gia trong chính nước Mỹ. Dù nó là chủ nghĩa hiện
thực tỉnh táo hay chỉ là chủ nghĩa biệt lập (isolationism) trá hình, sự
đồng thuận ngày càng gia tăng xoay quanh đức tính tự kiềm chế thể hiện tâm trạng
của các thành viên của cả phe bảo thủ lẫn cấp tiếp, rằng nước Mỹ đã không còn đủ
sức để định đoạt trật tự thế giới như xưa nữa. Cụ thể hơn, nước này đã không
còn tự coi mình là nền dân chủ tiên phong cho một trật tự thế giới đang trên đà
tiến lên của các nền dân chủ nữa.
“Cuộc cách mạng thứ tư”
Đây chính là bối cảnh u ám được tổng
biên tập John Micklethwait và thư ký tòa soạn Adrian Wooldrigde của tờ The
Economist dùng làm nền cho cuốn sách The Fourth Revolution (Cuộc
Cách Mạng Thứ Tư), một ghi chép về sự phát triển của nhà nước qua năm thế kỷ và
cuộc đấu tranh hiện nay giữa chế độ dân chủ và các nền độc tài đối thủ của nó.
Mục tiêu công kích chính của họ là sự kém cỏi của nhà nước hiện đại:
Sự quá tải của nhà nước hiện đại là một
mối đe dọa với chế độ dân chủ: con thủy quái (Leviathan, theo tên tác phẩm
kinh điển về nhà nước của Hobbes – ND) càng đảm nhận nhiều trách nhiệm bao
nhiêu thì nó càng hoạt động tệ đi và khiến người dân giận dữ bấy nhiêu, và điều
đó chỉ khiến người dân đòi hỏi thêm sự trợ giúp từ nhà nước.
Cách duy nhất để chế độ dân chủ tự do
đương đầu được với thách thức của chủ nghĩa độc tài từ bên ngoài và sự bất mãn
đang ngày một gia tăng ở trong nước, theo họ, là nhà nước phải trở nên gọn nhẹ
hơn, làm ít việc hơn nhưng với hiệu quả cao hơn.
The Fourth Revolution có tất cả những điểm mạnh – và một
vài điểm yếu của chính tờ The Economist. Điểm mạnh là sự tò mò bất
tận và nhiệt huyết đối với cải cách, còn điểm yếu chính là sự vội vã quá đà của
nó. Chỉ trong gần năm mươi trang giấy, hai tác giả lái độc giả phóng qua ba cuộc
cách mạng trong lịch sử nhà nước hiện đại: nhà nước chuyên chế (absolutist)
được tạo ra vào năm 1650 với nhà tư tưởng chính là Thomas Hobbes; nhà nước lập
hiến tự do (liberal constitutional) với John Stuart Mill là người phát
ngôn tiêu biểu nhất; và nhà nước phúc lợi hiện đại, mà theo họ được tạo ra bởi
hai nhà lý luận xã hội chủ nghĩa người Anh, hội viên Hội Fabian[4] là Beatrice và Sydney Webb.
Ronald Reagan và Margaret Thatcher lên
nắm quyền với lời hứa sẽ tiến hành một cuộc cách mạng thứ tư nhằm thuần hóa con
quái vật nhà nước, nhưng họ đã không thể xóa bỏ được nhà nước phúc lợi. Quy mô
của nhà nước, xét theo số lượng công chức hay tỉ lệ thu nhập quốc nội mà chính
phủ tiêu tốn, tiếp tục tăng lên trong thời gian cầm quyền của họ. Những chính
trị gia bảo thủ phát hiện ra rằng họ khó có thể thay đổi được những hy vọng và
quyền lợi đang được cung cấp bởi các nhà nước hiện đại. Nhiều đảng viên đảng
Cộng hòa theo phong trào Tiệc trà (Tea Party Republican) sẵn sàng từ bỏ
phương thuốc vạn năng của chủ nghĩa tự do cá nhân (libertarianism) trong
nháy mắt, nếu lý tưởng đó dẫn đến việc cắt giảm mức bảo hiểm y tế và an sinh xã
hội của chính họ.
Phải chăng các chính trị gia đương thời
của cả hai đảng đang tiến hành những biện pháp để giúp cho nhà nước trở nên
công chính và hiệu quả hơn? Tuy Micklethwait và Wooldrigde có tìm được ở đâu đó
một vài người hùng của nền dân chủ, phần lớn là thị trưởng các thành phố lớn,
những người đang cố gắng giúp chính quyền trở nên hiệu quả hơn; nhưng nhìn
chung thì các tác giả đã vẽ nên một bức tranh khá nghiêm trọng về sự rối loạn
chức năng của nền dân chủ ở cấp độ quốc gia. Khi phe bảo thủ thắng cử, lợi ích
của các doanh nghiệp lên ngôi. Khi phe cấp tiến giành lại quyền lực, họ thường
chỉ thành công trong việc làm cho Nhà nước trở nên độc đoán hơn. Khi phe bảo thủ
trở lại nắm quyền, họ lại tiến hành cắt giảm. Cứ như vậy, một tiến trình chính
trị luân phiên được duy trì, mặc cho nhà nước tiếp tục trì trệ, và tệ nhất là
khiến nó can thiệp ngày càng sâu hơn vào đời sống người dân. Cả hai phe trong nền
chính trị dân chủ hiện đại đều tự nhận mình là người bảo vệ quyền tự do của người
dân, nhưng cả hai cuối cùng chỉ tiếp sức cho quyền kiểm soát của nhà nước đối với
xã hội.
Bị hành hạ bởi sự luân phiên chính trị
ngày càng trở nên vô nghĩa này, nhà nước tự do đang ngày càng ít tự do hơn và
ngày càng thiếu khả năng điều tiết những lợi ích mà lẽ ra phải thuộc quyền hạn
quản lý của nó. Các đặc quyền làm biến dạng hệ thống thuế và trợ cấp đến nỗi nó
đã không còn khả năng phân phối công bằng. Không những không thể giảm thiểu
tình trạng bất công, nhà nước hiện đại đang làm cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn.
Theo quan sát của Micklethwait và Wooldridge, “Nếu các bạn gộp các khoản chi
tiêu và thuế, bao gồm tất cả những khoản khấu trừ thuế, vào với nhau, chính phủ
hóa ra tiêu phí nhiều tiền bạc vào 5% trên cùng hơn là vào 5% dưới cùng trong bảng
phân bố thu nhập, xét về tổng thể”.
Dù phê phán nhà nước Leviathan, hai
tác giả này lại không thể chấp nhận ảo vọng muốn phá hủy nó của những người
theo chủ nghĩa tự do cá nhân. Nhà nước hùng mạnh hóa ra lại là phát minh cực kỳ
quan trọng của phương Tây. Đế chế Trung Hoa cũng từng có một nhà nước
Leviathan, nhưng nhà nước đó duy trì trật tự nhưng đồng thời cũng bóp nghẹt sự
sáng tạo của người dân. Nhà nước của phương Tây độc đáo ở chỗ nó duy trì một trật
tự với sức mạnh cưỡng chế nhưng không kìm hãm sự sáng tạo của cá nhân. Thành tựu
nổi bật của phương Tây, ngọn nguồn của tất cả các thành tựu khác, chính là nền
quản trị được giới hạn bởi các quyền cá nhân, trong đó quyền lực của nhà nước bị
kiểm soát bởi ngành tư pháp độc lập, tự do báo chí, nghị viện, và chế độ pháp
quyền.
Mô hình nào ưu việt hơn?
Trong nỗ lực kiếm tìm con đường để tái
lập nhà nước tự do, Micklethwait và Wooldrigde hối thúc các nhà lãnh đạo dân chủ
phương Tây học hỏi từ những đối thủ độc tài chủ nghĩa của mình. Thế nên họ lao
đến Singapore để tìm hiểu xem người của Lý Quang Diệu đã cắt giảm các chế độ và
giảm bớt thuế má mà vẫn đảm bảo được an sinh cho người nghèo như thế nào. Thay
vì tìm đến Học viện Kenedy của Harvard hay Học viện Hành chính Quốc gia của
Pháp (École National d’Administration), họ bay đến Học viện Cán bộ Phố
Đông của Trung Quốc (China Executive Leadership Academy in Pudong) để
tìm hiểu xem Đảng Cộng sản đã áp dụng truyền thống khoa cử để tạo ra một bộ máy
công chức hiệu quả và trọng dụng nhân tài như thế nào.
Việc Singapore và Thượng Hải được điều
hành tốt hơn Detroit hay Los Angeles không phải là điều mới lạ. Vấn đề là liệu
quản trị theo chủ nghĩa độc tài có bền vững trong bối cảnh tầng lớp trung lưu
đòi quyền công dân, hay liệu hình thức quản trị đó có khả năng đối phó những cú
sốc mạnh, như là sự giảm tốc của nền kinh tế trong dài hạn mà đang được dự báo
là sẽ xảy ra với Trung Quốc, hay không.
Chế độ độc tài rất kiêu ngạo nhưng
cũng lại rất mỏng manh: nó phải kiểm soát tất cả, nếu không thì sớm muộn nó sẽ
chẳng kiểm soát được gì. Niềm an ủi đối với chế độ dân chủ chính là khả năng
thích nghi của nó. Sinh lực của nền dân chủ bắt nguồn từ chính sự bất mãn của
người dân. Sự bất mãn của dân chúng dẫn đến sự thay đổi chế độ chính trị một
cách hòa bình, và cũng tương tự như thay đổi các chế độ, các xã hội tự do có thể
đào thải những phương án phát triển thất bại.
Khả năng thích nghi của chế độ dân chủ
sẽ được kiểm định, đặc biệt là tại Ấn Độ, nơi mà Narenda Modi vừa mới nhận được
sự ủng hộ của đa số dân chúng để tiến hành cải cách nhà nước biến chất của dòng
họ Gandhi. Câu hỏi mấu chốt lúc này là liệu chế độ dân chủ có thể cạnh tranh với
con đường hiện đại hóa theo chủ nghĩa chuyên chế của Trung Quốc hay không. Tập
Cận Bình hiện đang tiến hành một chiến dịch chống tham nhũng tại Trung Quốc, đồng
thời nỗ lực giảm bớt gánh nặng của quản lý nhà nước đối với nền kinh tế. Giữa
ông và Modi, ai sẽ là người thành công hơn?
Micklethwait và Wooldridge cố gắng cưỡng
lại hào quang của của phương thức hiện đại hóa theo chủ nghĩa chuyên chế, nhưng
cũng giống như những nhà sáng lập theo chủ nghĩa thị trường tự do (free-market
liberal) của tờ The Economist vào những năm 1840, họ kêu gọi
tiến hành một cuộc cách mạng thứ tư nhằm trở về với chính phủ tối thiểu của thời
đại Victoria. Họ muốn tất cả các nền dân chủ đơn giản hóa hệ thống thuế của
mình, loại trừ các lỗ hổng, giảm bớt gánh nặng thuế má, tiếp sức cho các mạng
lưới từ thiện và các gia đình để giảm thiểu sự phụ thuộc vào nhà nước phúc lợi.
Họ muốn giải phóng thị trường khỏi những quy định phiền nhiễu và gia trưởng, để
thị trường có thể tự do tiến hành công việc phá hủy mang tính sáng tạo (creative
destruction – khái niệm được đưa ra bởi nhà kinh tế học người Áo,
Joseph Schumpeter – ND) của mình. Tuy nhiên, họ đồng thời cũng muốn điều tiết
chủ nghĩa tư bản để kiểm soát sức mạnh của đồng tiền trong chính trị. Họ có một
định hướng khá rõ ràng, dù cho chi tiết của bản kế hoạch đó vẫn còn mơ hồ.
Người hùng của họ chính là lãnh tụ của
đảng Tự do, William Ewart Gladstone, người từng bốn lần giữ chức Thủ tướng Anh.
Gladstone đã tiến hành giảm thuế và giúp kích thích tăng trưởng bằng việc “tiết
kiệm cả những lát pho mát và những mẩu nến”.“Chủ nghĩa tự do tinh giản chính phủ”
(lean government liberalism) của ông là một sự hợp tác mang nhiều mâu
thuẫn nhưng cũng rất hiệu quả giữa các doanh nghiệp tư nhân và một nhà nước cải
cách. Các doanh nghiệp tư nhân đã xây dựng các các ga đường sắt – những thánh
đường của thời đại Victoria – trong khi nhà nước cung cấp một trật tự công cộng
ít tốn kém, bao gồm cải cách vệ sinh nhằm cải thiện đời sống cho giai cấp công
nhân, cải cách quyền bầu cử để họ có thể tham gia vào chính trị, và duy trì lực
lượng cảnh sát tuần tra (bobby on the beat) để giữ gìn trật tự.
Ai mà cưỡng lại được sức hút của tính
tằn tiện, tình yêu đối với đổi mới và sáng tạo, và tinh thần quốc tế chủ nghĩa
cao cả của Gladstone? Tuy nhiên, không rõ là liệu Gladstone có thể đưa ra một
hướng dẫn có giá trị nào cho các nhà nước đương đại hay không. Các nhà nước
này đang phải chịu áp lực từ các nhu cầu về dịch vụ y tế, bảo hiểm thất
nghiệp và hưu trí mà Gladstone chưa từng dám mơ tới chứ đừng nói là cho phép;
và ông cũng không phải đối mặt với những vấn đề dài hạn như là biến đổi khí hậu.
Chưa có cơ sở nào để khẳng định “đổi mới
phương thức quản trị” (governance innovation) – thứ đồ trang sức mà
Micklethwait và Wooldridge, thông qua việc quan sát tiến trình các nhà cải cách
giúp tăng cường hiệu quả cho chính phủ ở Chicago, Sacramento, Singapore và
Stockholm, đã tìm kiếm xuyên suốt ba châu lục – có làm nên trò trống gì hay
không. Nhà nước tự do không thiếu các kỹ thuật quản lý hiện đại, phần mềm tốt,
hay các kế hoạch khác nhau để cải thiện “giao diện” giữa công chức và công
chúng. Bằng việc tập trung vào vấn đề cách tân chính quyền, Micklethwait và Wooldridge
lập luận rằng nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước chính là vấn đề mấu chốt.
Nhưng điều chúng ta cần là một sự thay đổi mang tính căn bản và truyền thống
hơn: một sự trở về với chính chế độ dân chủ hợp hiến, với các tòa án và các cơ
quan quản lý không bị thao túng bởi sức mạnh của tiền bạc hay ảnh hưởng của những
kẻ có quyền thế trong xã hội; với các cơ quan lập pháp nghiêm túc, chứ không phải
các gánh xiếc như hiện nay; với một ngành hành pháp có khả năng chịu trách nhiệm
trước công luận và hợp tác hành động khi có một sự đồng thuận rộng rãi trong xã
hội; với các vị Tổng thống biết hành xử như những lãnh đạo thực sự, chứ không
phải như những diễn viên hài.
Micklethwait và Wooldrigde muốn buộc
nhà nước tự do phải thắt lưng buộc bụng một cách quá đà. Họ chẩn đoán được các
triệu chứng bệnh tật của nhà nước, nhưng phương pháp của họ, nếu được áp dụng
như một liều thuốc chính sách, có thể sẽ chỉ “chữa lợn lành thành lợn què”. Vấn
đề cần phải được nhìn nhận theo một hướng khác. Kích thước quá khổ của nhà nước
hiện đại được tạo ra một phần bởi di sản của các cam kết trong quá khứ chưa được
xem xét lại trong hoàn cảnh những yêu cầu chiến lược mới, như trong trường hợp
của quân đội Hoa Kỳ. Ở một số quốc gia, tình trạng này được tạo ra bởi các công
đoàn đầy thế lực của công chức nhà nước vẫn đang kiểm soát nguồn ngân sách dành
cho nhân sự; hoặc ở một số nước khác, do tầng lớp tinh hoa dân tuyển kền kền đã
để cho các khoản thu nhập quốc dân chảy vào túi mình. Tuy vậy, ở các nhà nước tự
do khác, các chính phủ thanh liêm và quản trị hiệu quả lại đang gặp rất nhiều
khó khăn vì không có đủ nguồn lực để cung cấp cho người dân những dịch vụ quý
báu và cần thiết.
Cách giảm bất bình đẳng và phục hồi
nhà nước tự do
Như vậy, Micklethwait và Wooldrigde
không cung cấp được cho chúng ta một phân tích thực tế về các vấn đề liên quan
đến nguồn lực của nhà nước hiện đại – cụ thể là tình trạng khủng hoảng tài
chính công mà các quốc gia gặp phải khi nhu cầu đối với các dịch vụ phúc lợi
tăng lên mà nguồn thu ngân sách lại đình trệ hoặc đi xuống. Nhà kinh tế học từng
được giải Nobel Joseph Stiglitz mới đây đã đưa ra một phân tích có tính bút chiến
nhưng rất thuyết phục trong một sách
trắng được ông viết cho viện Roosevelt. Stiglitz lập luận rằng tình trạng
khủng hoảng tài chính công của nhà nước tự do bắt nguồn từ ba hiện tượng có
liên hệ mật thiết với nhau: bất bình đẳng thu nhập đang ngày một gia tăng, quyền
lực của tiền bạc trong chính trị, và nạn trốn thuế một cách có hệ thống của các
đại gia và các tập đoàn quốc tế.
Theo Stiglitz, bất bình đẳng gia tăng
sẽ kìm hãm nhu cầu thực tế (effective demand). Các xã hội bất bình đẳng
tích lũy của cải trong tay nhóm thu nhập cao nhất thay vì kích thích tiêu dùng và
tăng cường đầu tư trong tầng lớp trung lưu. Bất bình đẳng kìm hãm nhu cầu và dẫn
đến việc các tập đoàn cứ giữ khư khư một kho tiền mà không muốn đầu tư hay tiêu
xài. Khi mà người giàu trốn thuế một cách ngày càng tinh vi hơn, toàn bộ gánh nặng
chi phí duy trì nhà nước tự do bị đổ lên đôi vai của tầng lớp trung lưu. Sự bất
bình đẳng quá mức (hyperinequality) đang bóp nghẹt nhu cầu và làm kiệt
quệ nhà nước tự do.
Stiglitz đưa ra một gói giải pháp toàn
diện. Ông đề nghị chính phủ đặt ra một mức thuế thu nhập 40% đối với những người
nắm trong tay 25% trên cùng của thu nhập quốc dân; mức thuế 20% đối với những
người nắm 25% tiếp theo, và khấu trừ thuế cho tất cả những người thuộc 50% dưới
cùng. Cơ cấu thuế này sẽ giải quyết được vấn đề nợ công. Ông cũng đề xuất một
“giải pháp kết hợp giữa các ưu đãi thuế và đầu tư”, theo đó chính phủ sẽ đặt ra
mức 15% đối với thuế thu nhập doanh nghiệp và 5% đối với thuế giá trị gia tăng.
Cuối cùng, một khoản thuế tiêu thụ carbon với mức chưa xác định sẽ thúc đẩy những
sáng kiến năng lượng sạch và hướng xã hội Mỹ đến với lối sống tiêu thụ ít
carbon.
Cơ cấu thuế mới này sẽ nâng nguồn thu
của nhà nước trên thu nhập quốc dân lên mức 26%. Theo tính toán của ông, những
biện pháp này sẽ giải quyết được khủng hoảng tài chính công của nhà nước tự do,
điều hòa tình trạng bất bình đẳng thu nhập và kích thích tăng trưởng, bởi vì
nhà nước sẽ sử dụng những tài sản mà hiện nay đang bị khóa kín trong các tài
khoản của các tập đoàn – một số trong đó đang nằm ở các ngân hàng nước ngoài –
và trong các tài khoản tiết kiệm cá nhân.
Mặc dù một số người sẽ coi biện pháp của
Stiglitz là một hình thức sung công, trong khi những người khác có thể sẽ hoài
nghi rằng ông đang muốn hệ thống thuế phải thực hiện một điều bất khả thi, phân
tích của ông đã xác định được vấn đề của nhà nước hiện đại một cách rõ ràng hơn
so với các biên tập viên của The Economist. Về cơ bản, nhà nước tự
do lâm vào khủng hoảng bởi vì các thể chế điều tiết kinh tế, pháp luật và chính
trị của nó đã bị chiếm đoạt hoặc đang bị vây hãm bởi các lợi ích mà lẽ ra phải
bị nó kiểm soát. Tuy không có tham vọng thực thi một chế độ công bằng phân phối
(distributive equality), nhà nước tự do luôn có nghĩa vụ phải ngăn chặn
sức mạnh của những khoản tiền lớn (big money) khỏi bóp nghẹt cạnh tranh
và làm biến chất hệ thống chính trị. Đây là nhiệm vụ mà ngày nay nó cần phải đấu
tranh để thực hiện và khôi phục nguyên trạng nếu muốn lấy lại niềm tin và sự ủng
hộ của đại đa số dân chúng.
Đây không phải là một thách thức mới.
Bất bình đẳng thu nhập đã nhiều lần đe dọa nhấn chìm bình đẳng trong chính trị,
điều kiện tiên quyết để nhà nước có thể hoạt động một cách công bằng. Mỗi lần
như vậy, trong thời đại Tiến bộ,[5] trong Chính sách Kinh tế mới của
Roosevelt hay vào buổi bình minh của các nhà nước phúc lợi tại châu Âu, những vệ
sĩ của nhà nước tự do đã đương đầu với thử thách và khôi phục vị trí của nhà nước
như là người bảo vệ trật tự và quyền tự do cho xã hội thị trường (market
society). Micklethwait và Wooldridge đã nói đúng một điều, đó là thiên tài
của phương Tây nằm trong việc phát minh ra một chính quyền với quyền lực hạn chế,
tôn trọng các quyền công dân và được xây dựng dựa trên sự tin tưởng có điều kiện
của những người dân thường. Chính các thể chế mạnh mẽ và trường tồn này đã,
đang, và sẽ tiếp tục tạo nên bản sắc của chúng ta, nếu như chúng ta khôi phục lại
được nguồn sinh lực pháp quyền cho chúng.
*Ghi chú: Các tiểu mục do
Nghiencuuquocte.net tự đặt
———————-
[1] Đây là bài điểm bốn cuốn sách:
1. Foreign Policy Begins at
Home: The Case for Putting America’s House in Order by Richard N.
Haass, Basic Books, 195 pp., $15.99 (paper);
2. Restraint: A New Foundation
for US Grand Strategy by Barry R. Posen, Cornell University Press, 234
pp., $29.95;
3. The Fourth Revolution: The
Global Race to Reinvent the State by John Micklethwait and Adrian
Wooldridge, Penguin, 305 pp., $27.95; và
4. Reforming Taxation to
Promote Growth and Equity, a white paper by Joseph Stiglitz Roosevelt
Institute, 28 pp., May 28, 2014; available at rooseveltinstitute.org
[2] Chủ nghĩa Peron (Peronism): một
phong trào chính trị dân túy và mang hơi hướng phát xít ở Argentina, theo tên cựu
Tổng thống, nhà độc tài quân sự Juan Domingo Peron – ND.
[3] Plebiscitary: (thuộc về) trưng cầu
dân ý (tiếng Latin plebis scitum – đạo luật của hội đồng bình
dân). Plebiscitary authoritarianism chỉ một nền chính trị độc tài dựa trên sự ủng
hộ của đa số dân chúng – ND.
[4] Hội Fabian là một tổ chức xã hội
chủ nghĩa lâu đời ở Anh Quốc, được thành lập từ năm 1884, mà mục đích là để đề
bạt những lý tưởng Xã hội chủ nghĩa qua chủ trương tiệm tiến (Gradualism) và cải
tổ dần dần (Reformism). Hội này đã đặt nền móng cho Công đảng Anh và ảnh hưởng
tới chính sách của nhiều nước mà hình thành sau sự phi thực dân hóa của đế quốc
Anh, chả hạn Ấn Độ và Singapore (theo Wikipedia) – ND.
[5] Thời đại Tiến bộ (Progressive
Era) trong lịch sử Hoa Kỳ: thời kỳ có nhiều phong trào và cải cách lớn trong
kinh tế – chính trị – xã hội của nước Mỹ, kéo dài từ 1890 đến thập niên 1920 –
ND.
Nguồn:http://nghiencuuquocte.org/2015/01/07/phai-chang-chu-nghia-chuyen-che-dang-thang-the/