Hà Huy Toàn
Nho giáo (còn được gọi là Khổng
giáo mà theo tiếng Anh gọi là Confucianism)
là một hệ tư tưởng lấy Nho gia hoặc Nho sỹ làm căn bản cho mình,
bao gồm các chuẩn mực về đạo đức, triết lý và tôn
giáo, được thực hành nhằm bảo tồn một nền chuyên chế bền vững,
theo đó cả ba quyền lực khác nhau: lập pháp, hành
pháp và tư pháp, đều được tập trung vĩnh viễn vào một
cá nhân duy nhất được gọi là Vuahoặc Thiên tử.
Theo Hán tự, chữ “Nho”
(儒)
được tạo thành bởi chữ “Nhân” (亻, tức là Người) ghép
với chữ “Nhu” (需, tức là Cần thiết hoặc Nhu
cầu). Chuyển dịch đầy đủ, “Nho” có nghĩa là người cần thiết
cho việc gì đóhoặc người cần được dùng vào việc nào đó. Từ đó
suy ra rằng, “Nho” có nghĩa là con người công cụhoặc con
người được dùng làm phương tiện (cho người khác sử dụng). Quả thật, thực
tế xã hội đã chứng thực rằng, nho sỹ (hoặc “nhà
nho” theo Việt ngữ) chẳng qua chỉ là người cần thiết để
các vua chúa trị nước mà thôi, tức là tầng lớp được đào tạo để làm tay
sai hoặc đầu sai cho vua chúa cai trị tất cả các tầng
lớp dưới (vì tầng lớp nho sỹ “có học” hoặc chỉ làm việc bằng đầu
óc nên nói “đầu sai” sẽ chính xác hơn nói “tay sai”). Vậy Nho
giáo (儒 教) chính là một
hệ tư tưởng vong thân, tức là cái hệ tư tưởng làm cho người ta bị mất
mình [1].
Khổng Tử chỉ là một trong nhiều người
đã tham gia phát triển Nho giáo nhưng đã đóng góp nhiều nhấtkhiến Nho
giáo được hiểu thành Khổng giáo như đã thấy về thuật
ngữ ở trên.
Nho giáo rất phát triển ở Đông
Á châu, bao gồm nước Tàu, Việt nam, Triều
tiên, và Nhật bản. Ở đó, những người chuyên thực hành các
chuẩn mực tín điều được xác lập bởi Nho giáo được gọi là Nho sỹ, hoặc nhà
Nho theo Việt ngữ.
Ở Việt Nam hiện nay có khoảng từ
60% đến 70% dân số theo Nho giáo, chưa kể một số đáng kể tín đồ thuộc về các
tôn giáo khác tuy tụng niệm kinh bổn theo các tôn giáo khác nhưng vẫn suy
nghĩ hoặc hành xử theo Nho giáo như một tập
quán lâu đời. Đó chính là lực cản lớn nhất đối với công cuộc dân chủ
hóatại Việt Nam. Người ta có thể dễ dàng nhận thấy Chủ nghĩa Marx – Lenin
tai ác như thế nào khiến người ta dễ dàng từ bỏ Chủ nghĩa Marx – Lenin nhưng thật
khó mà nhận thấy Nho giáo tai ác như thế nào khiến người ta rất khó từ bỏ Nho
giáo.
Nói đến Nho giáo, phải nói đến Nho
gia. Nho gia cấu thành cốt lõi cho Nho giáo lấy quân
tử làm trung tâm. Để tổ chức xã hội theo Nho
giáo, nhất thiết phải đào tạo bằng được người cai trị kiểu mẫu được
gọi là quân tử. Quân tức là kẻ làm vua, còn quân tử là
tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với “tiểu nhân” hoặc những
người thấp kém về địa vị xã hội. Sự thể này cho thấy Nho
giáo lấy những người cầm quyềnlàm đối tượng trung
tâm cho mình.
Để trở thành quân tử,
trước hết người ta phải “tự đào tạo” hoặc phải “tu thân” theo Tam
Cương. Tam Cương được lấy làm điểm xuất phát cho quá
trình tu thân đồng thời cũng được lấy làm điểm hồi quy cho
quá trình đó. Trong quá trình tu thân, nam giới phải đạt được Ngũ
Thường khiến nữ giới phải Tam Tòngđể đạt
được Tứ Đức. Xong quá trình tu thân, quân tử phải “hành đạo”,
tức là hành xử theo Đạo.
Đạo không đơn giản chỉ có đạo
lý, Nho gia hình dung cả vũ trụ được cấu thành từ các
nhân tố đạo đứckhiến Đạo ở đây bao hàm cả nguyên
lý chung cho vũ trụ vận hành, nguyên lý đó được xác lập bởi Nho gia (hoặc
như họ tự xác quyết mình đã phát hiện được) đòi hỏi phải được hiểu theo ý
nghĩa nho giáođồng thời cũng đòi hỏi mọi người phải tuân theo để đạt được Đạo.
Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng vào nhân loại sẽ biểu hiện thành Mệnh hoặc Mệnh
Trời làm cho mỗi người có một số mệnh. Trời chỉ giáng mệnh
làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là kẻ nào nắm được đạo trời hoặc biết
sợ mệnh trời sẽ cómệnh làm vua. Vậy về mặt chính trị, Đạo biểu
hiện cụ thể thành nguyên tắc chuyên chế.
Tu thân
Đó là quá trình giáo dục bắt
buộc mọi người phải học tậpTam Cương để nam
giới đạt được Ngũ Thường khiến nữ giới phải Tam
Tòng để đạt được Tứ Đức. Nho giáo lấyTam Cương, Ngũ Thường, Tam
Tòng, Tứ Đức, làmchuẩn mực nền tảng cho mọi sinh hoạt
xã hội: từ chính trị đến cả kinh tế lẫn tư
tưởng. Tam Cương cùng với Ngũ Thường là lẽ
đạo đức đòi hỏi nam giới phải tuân theo để bảo đảm một xã hội ổn định. Tam
Tòng cùng với Tứ Đứclà lẽ đạo đức được áp đặt cho nữ giới
phải tuân theo cũng chỉ để bảo đảm một xã hội ổn định. Khổng Tử cho rằng nếu mọi
người đều giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam
Tòng, Tứ Đức, thì xã hội được an bình.
1/ Tam Cương: Tam là Ba, Cương là Giềng
mối. Tam Cương tức là ba mối quan hệ bền vững: quân thần(quan
hệ giữa vua chúa với tôi tớ), phụ tử (quan hệ giữa cha
với con), phu phụ (quan hệ giữa vợ với chồng);
trong đó tôi tớ phải phục tùng vua chúa, con phải phục tùng cha, vợ phải phục
tùng chồng. Cả ba trường hợp đó đều chỉ có sự phục tùng tuyệt đối,
tức là sự phục tùng vô điều kiện. Trong xã hội chuyên
chế lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống,
các mối quan hệ này được xác lập theo những nguyên tắc chết người.
(a) Quân thần: “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”, có
nghĩa là dù vua chúa có bảo tôi tớ chết, tôi tớ cũng phải tuân lệnh; nếu tôi tớ
không tuân lệnh thì tôi tớ không trung thành với vua chúa; tôi tớ phải trung
thành tuyệt đối với vua chúa. Trong quan hệ vua tôi, vua chúa thưởng
phạt luôn luôn công minh, còn tôi tớ luôn luôn trung thành một dạ. (b) Phụ tử:
“phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu”, có nghĩa là cha khiến
con chết, con phải chết; nếu con không chết thì con không có hiếu với cha. (c)
Phu phụ: “phu xướng phụ tùy, phụ bất tuỳ bất nghĩa”, có
nghĩa là nếu chồng nói ra điều gì thì vợ phải tuân theo điều đó, nếu vợ không
theo thì vợ không có nghĩa với chồng. Xã hội vốn dĩ được cấu thành bởi nhiều
quan hệ khác nhau nhưng Nho giáo khái quát tất cả các quan hệ
đó thành Tam Cương [2].
2/ Ngũ Thường: Ngũ là Năm, Thường là Hằng
có. Ngũ Thường là năm điều hằng có ở đời, bao gồm:Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
(Nhân: lòng yêu thương đối với muôn loài hoặc vạn vật. Nghĩa: cư xử công bình
theo lẽ phải với mọi người. Lễ: tôn trọng người khác hoặc hòa nhã trong khi cư
xử với mọi người. Trí: thông hiểu lý lẽ hoặc biết phân biệt thiện với ác, hoặc
biết phân minh đúng với sai. Tín: giữ đúng lời hoặc đáng tin cậy).
3/ Tam Tòng: Tam là Ba; Tòng là Theo.
Tam Tòng là ba điều đòi hỏi nữ giới phải tuân theo, bao gồm: “tại gia tòng phụ,
xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” (Tại gia tòng phụ: nữ giới khi còn ở nhà phải
theo cha. Xuất giá tòng phu: nữ giới lấy chồng phải theo chồng. Phu tử tòng tử:
nếu chồng qua đời thì nữ giới phải theo con trai), để rồi mới có thể đạt được Tứ
Đức.
4/ Tứ Đức: Tứ là Bốn; Đức là Tính
Tốt. Tứ Đức là bốn tính nết tốt đòi hỏi phải có ở nữ giới, bao gồm:Công, Dung, Ngôn, Hạnh,
(Công: khéo léo trong việc làm. Dung: hòa nhã trong sắc diện. Ngôn: mềm mại
trong lời nói. Hạnh: nhu mỳ trong tính nết).
Trong quá trình tu thân,
người quân tử phải đạt được ba điều:
a/ Đạt đạo. Đạo ở đây
có nghĩa là “con đường” hoặc “phương cách” để người quân tử ứng xử
trong cuộc sống. “Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua
tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo
bạn bè” (sách Trung Dung), tương đương với “quân thần, phụ
tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu”. Đó
chính là Ngũ Thường hoặc Ngũ Luân. Trong xã hội, cách
thức cư xử tốt nhất là “trung dung”. Tuy nhiên, đến Hán
Nho, Ngũ Luân được quy tập lại thành Tam Cương hoặc Tam
Tòng chỉ còn bao gồm ba mối quan hệ quan trọng nhất
như đã thấy: quân thần, phụ tử, phu phụ.
b/ Đạt đức. Quân tử
phải đạt được ba đức: “Nhân – Trí – Dũng”.
Khổng Tử nói: “Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không
lo buồn, người trí không nghi ngại, người dũng không
sợ hãi” (sách Luận Ngữ). Về sau, Mạnh Tử thay “Dũng” bằng hai đức
khác: “Lễ” và “Nghĩa”, làm cho ba đức trở thành bốn đức:
“Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí”. Hán
Nho xác lập thêm “Tín” để có tất cả năm đức
hợp thànhNgũ Thường như đã thấy ở trên: “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí,
Tín”.
c/ Biết về Thi, Thư, Lễ, Nhạc.
Ngoài các tiêu chuẩn thuộc về cả “đạo” lẫn “đức”, người quân tử
còn phải thành thạo về “thi, thư, lễ, nhạc”, tức là người quân tử còn phải có vốn
văn hóa toàn diện theo Nho giáo.
Hành đạo
Sau khi tu thân, người quân tử phải
hành đạo, tức là phải làm quan hoặc làm chính trị theo nguyên
tắc chuyên chế, theo đó nếu kẻ nào có mệnh làm vua chúa thì làm vua chúa hoặc
nếu kẻ nào không có mệnh đó thì phải làm đầu sai hoặc tay
sai cho vua chúa mới đạt được Đạo vốn chỉ có thể phải
được hiểu thành Đạo Nho giáo, tức là Đạo Nô lệ hoặc Đạo
Vong thân, làm cho người ta bị mất mình hoặc bị
hoà tan thành nguyên tắc chuyên chế vốn nghiệt
ngã cùng cực. Nguyên tắc này được công thức hóa thành “tề gia, trị
quốc, thiên hạ bình”, tức là phải hoàn thành từ những việc nhỏ
– gia đình, cho đến việc lớn – trị quốc, rồi cuối cùng phải bình thiên hạ (thống
nhất thiên hạ). Kim chỉ nam cho người quân tử hành xử trong việc cai trị bao gồm hai phương
châm: Nhân trị cùng với Chính danh.
Nhân trị là cai trị bằng tình người, trong đó: nhân được xác định
là tình người, là yêu người hoặc coi người khác như chính mình. Khi
trả lời Trọng Cung hỏi thế nào là nhân, Khổng Tử nói: “kỷ sở bất
dục, vật thi ư nhân”, tức là nếu mình không muốn điều gì thì đừng
làm điều đó cho người khác (sách Luận Ngữ). Nhân được coi
là điều cao nhất cho luân lý hoặc đạo đức. Khổng Tử
nói: “nếu người không có nhân thì lễ mà làm gì, nếu người không
có nhân thì nhạc mà làm gì?” (sách Luận Ngữ). Chính danh là mỗi
sự vật phải được gọi theo đúng cái tên đã được đặt cho nó, theo đó mỗi người phải
làm đúng chức phận đã được quy định cho mình. “Nếu danh không chính thì lời
không thuận, lời không thuận tất việc không thành” (sách Luận
Ngữ). Khổng Tử nói với vua Tề Cảnh Công: “quân quân, thần thần, phụ
phụ, tử tử”, tức là vua chúa phải ra vua chúa, tôi
tớ phải ra tôi tớ, cha phải ra cha, con phải ra con (sách Luận
Ngữ). Đó chính là những điều quan trọng nhất cấu thành các kinh
sách cho Nho giáo, chúng được đúc kết thành chín chữ:
tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm
phục vụ việc cai trị mà thôi.
Lúc đầu “quân tử” có nghĩa
là người cai trị hoặc người có đạo đức (theo quan
điểm nho giáo) đồng thời cũng thành thạo về thi, thư, lễ, nhạc.
Về sau, “quân tử” còn được dùng để chỉ cả phẩm chất đạo đức: những người
nào có phẩm chất cao thượng hoặc phẩm chất tốt đẹp theo quan
điểm nho giáo sẽ được gọi là “quân tử”, phân biệt với “tiểu
nhân” bao gồm những người nào thiếu đạo đức hoặc có
đạo đức chưa hoàn thiện (cũng theo quan điểm nho giáo). Cả
“tiểu nhân” lẫn “quân tử” đều cho thấy Nho giáo lấysự
khác nhau giữa người với người làm phương pháp luận cho mình,
tức là xuất phát từ sự khác nhau đó để bảo tồn sự khác nhau đó đồng
thời lập luận bằng sự khác nhau đó để đạt được mục đích đó, Nho
giáo bỏ qua hoàn toàn mà không hề thấy sự giống nhau giữa người với người.
Muốn hiểu được đúng đắn về Nho
giáo hoặc muốn xác định được giá trị đích thực cho Nho giáo,
nhất thiết phải hiểu được đúng đắn nhân loại có bản chất như thế nào đồng
thời phải hiểu được đúng đắn vềđời sống chính trị. Một lý thuyết khoa học
về đời sống chính trị sẽ soi sáng tất cả những giá trị nền tảng cấu thành Nho
giáo [3].
Vừa nghiên cứu lý thuyết vừa trải
nghiệm thực tế, tôi nhận thấy nhân loại bao gồm tất cả các cá
nhân vừa khác nhau vừa giống nhau: khác nhau về cả thể chất lẫn tinh thần nhưng giống
nhau về bản năng sinh tồn, tức là bản năng ham sống hoặc bản
năng sợ chết, biểu hiện cụ thể qua mỗi cá nhân nhất địnhthành bản
tính vị kỷ. Bản tính vị kỷ chỉ tốt đẹp khi thúc đẩy người ta làm điều
tốt đẹp hoặc chỉ xấu xa khi thúc đẩy người ta làm điều xấu xa.
Điều xấu xa gây hại cho nhân loại đối lập với điều tốt đẹp làm lợi cho nhân loại.
Nho giáo chỉ có thể thấy được sự khác nhau về cả thể chất lẫn tinh thần giữa
các cá nhân mà không hề thấy sự giống nhau về bản tính vị kỷ giữa họ, lại càng
không thấy được bản tính vị kỷ có tính chất hai mặt như trên.
Đó là một khuyết tật nghiêm trọng làm cho Nho giáo trở thành một
trong những triết lý phiến diện nhất.
Bản tính vị kỷ biểu hiện thành xu
hướng tâm lý lấy mình làm mục đích đồng
thời lấy mọi thứ khác làmphương tiện để thoả
mãn mình; xu hướng đó biểu hiện thành ba phẩm chất cơ bản: ích
kỷ, tư lợi vàtham lam. Nho giáo không bao giờ thấy
được cái sự thật hiển nhiên như thế. Không thấy được cái sự thật hiển nhiên ắt
sẽ không tránh khỏi sự mê lầm dối trá. Không tránh khỏi sự mê lầm dối
trá đương nhiên phải trở thành một hệ tư tưởng vong thân, tức là
cái hệ tư tưởng làm cho người ta bị mất mình.
Với bản tính vị kỷ: ích kỷ, tư lợi
và tham lam, người ta sẵn sàng làm hại lẫn nhau đòi hỏi phải có pháp luật để ngăn
ngừa mỗi cá nhân nhất định gây nên tổn thất cho các cá nhân khác trong
khi theo đuổi mục đích riêng: tìm kiếm phương tiện riêng để thoả mãn nhu cầu
riêng; đồng thời khuyến khích mỗi cá nhân đó sẵn sàng phục vụ các cá nhân khác
để mình cũng được thoả mãn nhu cầu riêng.
Pháp luật (hoặc luật
pháp) là những quy tắc xử sự theo nguyên tắc bình đẳng mang
tính chất bắt buộc đối với mọi cá nhân cấu thành xã hội được quy định chung đồng
thời được bảo đảm thực hiện bởi ý chí chung biểu hiện thành những chuẩn mực cụ
thể về quyền lợi kèm theo nghĩa vụ tương ứng với quyền lợi:được làm gì, đồng
thời phải làm gì.
Nho giáo thấy được cái tất yếu về
sự cần thiết phải có pháp luật nhưng vì không thấy được cái sự thật hiển nhiên
nói trên nên nó không thể hiểu được rằng pháp luật có thể nghiêm minh nhưng
cũng có thể mù quáng. Nho giáo bắt đầu gây ra tai hoạ từ chính điểm này.
Muốn có pháp luật,
trước hết phải làm ra pháp luật; làm ra pháp luật rồi lại phải sử dụng pháp luật;
trong khi sử dụng pháp luật lại phải giữ gìn hoặc bảo vệ pháp luật. Nhưng muốn
làm được ba việc đó lại đòi hỏi phải có ba quyền
lực tương ứng: quyền lực lập pháp, quyền lực hành pháp và quyền
lực tư pháp; trong đó quyền lực lập pháp bao hàm cả quyền
lực hành pháp lẫn quyền lực tư pháp hoặc nếu không có quyền lực lập pháp thì
tuyệt đối không thể có cả quyền lực hành pháp lẫn quyền lực tư pháp; chính vì
bao hàm cả quyền lực hành pháp lẫn quyền lực tư pháp nên quyền lực lập pháp có hai chức
năng đối lập nhau: chức năng quy định đối lập với chức năng ngăn cản;
chức năng quy định là chức năng tự mình ra lệnh hoặc tự mình sửa lại quyết định
đã được đưa ra bởi người khác; chức năng ngăn cản là chức năng làm vô hiệu hoá
quyết định đã được đưa ra bởi người khác, nhưng nếu đã có thể ngăn cản được thì
cũng có thể phê chuẩn được, mà đã phê chuẩn tức là lại không ngăn cản nữa [4].
Mối quan hệ giữa ba quyền lực đó sẽ cấu thành ba trật tự khác
nhau để tổ chức xã hội.
Trật tự thứ nhất được gọi là chính
thể chuyên chế, theo đó cả ba quyền lực khác nhau: lập
pháp, hành pháp và tư pháp, đều được tập trung
cả vào một cá nhân duy nhất hoặc một số ít cá nhân nào
đó có chung cả quyền lợi lẫn ý đồ, trong đó lại chỉ có một cá nhân
duy nhất làm thủ lĩnh nắm quyền quyết định, tức là xét đến cùng chính
thể chuyên chế chỉ tập trung cả ba quyền lực đó vào một cá nhân duy nhất mà
thôi. Cá nhân đó được gọi là nhà độc tài (dictator), tức
là một người quyết định mọi việc. Nhà độc tài tập hợp một
đám tay chân thân tín thành nhà nước chuyên chế hoặc nhà
nước độc tài; trên cơ sở đó, nhà độc tài chỉ làm ra mệnh lệnh rồi
lại sử dụng mệnh lệnh đồng thời bảo vệ mệnh lệnh mà
không thể làm rapháp luật rồi lại không thể sử dụng pháp luật đồng
thời cũng không thể bảo vệ pháp luật. Mệnh lệnh biểu hiện thành vài
ba quy tắc độc đoán, các quy tắc đó chỉ biểu hiện ý chí riêng cho
chính nhà độc tài đồng thời chỉ bảo đảm lợi ích cho một số ít cá nhân
nào đó (một số ít cá nhân đó bao gồm nhà độc tài cùng
với đám tay chân thân tín làm tay sai cho chính nhà độc tài).
Theo bản tính vị kỷ thúc đẩy, nhà độc tài sẽ chỉ làm ra mệnh lệnh bằng các
phương pháp ngẫu hứng, rồi sử dụng (thi hành) mệnh lệnh bằng các
phương pháp tuỳ tiện đồng thời bảo vệ mệnh lệnh bằng các
phương pháp xiêu lệch, hãy nhớ lại câu chuyện dụ ngôn về chiếc Nhẫn
Thần sẽ hiểu được ngay về cái tất yếu đó [5]. Chính vì chỉ có
mệnh lệnhmà không có pháp luật nên chính thể chuyên chế chỉ
tồn tại được với ba điều kiện cơ bản: bạo hành,cướp
bóc và dối trá. Ba điều kiện đó bổ sung cho nhau đồng thời
dẫn đến ba hệ quả tương ứng: khiếp sợ, bất công và ngu
dốt. Sự thể như sau: bạo hành gây nên sự khiếp sợ (nhà độc
tài phải bạo hành với dân chúng làm cho dân chúng khiếp sợ mà phục tùng nhà độc
tài, nếu nhà độc tài không bạo hành với dân chúng thì dân chúng sẽ không phục
tùng nhà độc tài), cướp bóc gây nên sự bất công (nhà độc tài
phải cướp bóc dân chúng làm cho nhà độc tài trở nên giàu có nhưng dân chúng lại
trở nên nghèo khó, nếu không cướp bóc thì nhà độc tài sẽ không có phương tiện để
cai trị dân chúng), dối trá gây nên sự ngu dốt (nhà độc tài phải
dối trá với dân chúng làm cho dân chúng ngu dốt mà chấp nhận làm tôi tớ cho nhà
độc tài, nếu nhà độc tài không dối trá với dân chúng thì dân chúng sẽ chỉ đòi hỏi
quyền lợi cho mình mà không muốn phải thực hiện nghĩa vụ đối với nhà độc tài, tức
là dân chúng sẽ đòi hỏi được bình đẳng với nhà độc tài). Mệnh lệnh nhằm bảo tồn mâu
thuẫn đối kháng giữa người cai trị với người
bị cai trị vốn chỉ biểu hiện thành các quy tắc độc đoán không chỉ gây
nên xung đột giữa nhà độc tài với dân chúng mà còn gây nên xung đột giữa cá
nhân này với cá nhân khác, từ đó gây nên xung đột giữa nhóm người này với nhóm
người khác, làm cho mọi cá nhân đều bị đau khổ như nhau; tức là các
quy tắc đó không chỉ ngăn cản người ta làm điều tốt đẹp mà còn
thúc đẩy người ta làm điều xấu xa làm cho bản tính vị kỷ trở
thành bản tính xấu xa. Bằng mệnh lệnh, chính thể chuyên chế gò ép mỗi
cá nhân nhất định vào một khuôn khổ biệt lập phải sống bằng kinh
tế tự túc làm cho mỗi cá nhân đó trở thành một phần tử cô lậphoặc một
cá nhân phi xã hội [6]. Hệ quả này cho thấy mệnh lệnh không những
không nhắm đến mà còn đi ngược lại mục đích chân
chính đã được đề ra từ trước cho pháp luật, tức là
chính thể chuyên chế làm cho pháp luật trở thành con số
không với các điều luật loại trừ nhau, theo đó các điều luật
công bằng bị vô hiệu hoá bởi các điều luật xiêu lệch hoặc các điều luật bất
công. Hãy làm một phép toán đơn giản đểhiểu biết được đúng
đắn sự thể đó: a – a = 0 hoặc a +
(– a) = 0, từ đó suy ra rằng chính thể chuyên
chế không có pháp luật hoặc pháp luật không thể tồn tại được với
chính thể chuyên chế. Nếu nhà nước chuyên chế (nhà độc tài cũng
như vua chúa) bày đặt pháp luật thì pháp
luật phải mù quáng cùng cực vớicác điều luật loại
trừ nhau như đã nói ở trên kia để rồi trở thành pháp luật mù
quáng hoặc pháp luật tự phủ định chính mình. Chính vì
không có pháp luật hoặc chỉ quy pháp luật về bạo lực nên chính
thể chuyên chế làm cho nhà nước chuyên chế hoặc nhà nước
độc tài trở thành nhà nước bạo quyền, tức là nhà nước đó
chỉ tồn tại bằng bạo lực: được thiết lập bằng bạo lực đồng thời được bảo tồn bằng
bạo lực cũng như chỉ quản lý bằng bạo lực đồng thời bị quản lý bằng bạo lực. Bạo
lực làm cho đa số dân chúng khiếp sợ mà phục tùng thiểu số cái trị. Đây
chính là nguyên tắc cơ bản cho chính thể chuyên chế [7].
Ở Việt nam hiện nay, bạo lực thường được gọi bằng một danh từ đặc thù là Luật
Rừng làm cho người ta hiểu được rằng nhà nước bạo quyền có thể có hẳn
cả một Rừng Luật nhưng nhà nước đó chỉ có thể phải sử dụng Luật
Rừng mà thôi. Chừng nào mỗi cá nhân nhất định vẫn có thể tự thoả mãn được mình
trong khuôn khổ biệt lập, chừng đó chính thể chuyên chế còn có thể yên tâm tồn
tại được. Nhưng nếu nhu cầu mà mở rộng hơn khuôn khổ đó khiến mỗi cá nhân nhất
định phải thoả mãn mình bằng những phương tiện cần thiết bên ngoài khuôn khổ đó
mới tồn tại được thì chính thể chuyên chế sẽ bị đe doạ bởi các nguy cơ
thầm kín đến từ mỗi cá nhân nhất định, mỗi cá nhân đó sẽ tự phát phá vỡ
cái khuôn khổ biệt lập đang giam hãm mình: cá nhân này sẽ trao đổi hoạt động với
các cá nhân khác để thoả mãn mình, kinh tế đổi chác sẽ thay thế
kinh tế tự túc.
Trật tự thứ hai được gọi là chính
thể quý tộc, theo đó ba quyền lực khác nhau: lập pháp, hành pháp và tư
pháp, được phân chia cho hai cơ quan khác nhau: cơ quan lập
pháp thực hiện quyền lực lập pháp đồng thời thực hiện cả quyền lực tư
pháp đối lập với cơ quan hành pháp thực hiện quyền lực hành pháp đồng
thời cũng thực hiện cả quyền lực tư pháp, làm cho cơ quan này có thể
bị xét xử bởi cơ quan kia. Chính vì cùng thực hiện quyền lực tư pháp làm
cho cơ quan này có thể bị xét xử bởi cơ quan kia nên cơ quan lập pháp chỉ thực
hiện được nửa vời quyền lực lập pháp cũng như cơ quan hành pháp chỉ thực hiện
được nửa vời quyền lực hành pháp mà thôi. Cả ba quyền lực khác nhau: lập pháp,
hành pháp và tư pháp, đều chỉ được thực hiện nửa vời làm cho chính thể quý tộc
cũng không có pháp luật, y như chính thể chuyên chế, mà
chỉ có các quy tắc nửa vời. Các quy tắc này làm cho mọi cá
nhân đều phải hành xử theo danh diện (bao gồm cả danh
dự lẫn thể diện), theo đó mỗi người phải
biết hành xử theo một chuẩn mực riêng được quy định cho mình
phải làm mà không được hành xử theo các chuẩn mực khác được
quy định cho người khác phải làm, tức là chính thể quý
tộc chỉ có thể tồn tại được bằng danh diện. Danh diện chỉ đòi hỏi một
điều kiện duy nhất, đó là sự điều độ, theo đó cái gì
cũng phải điều độ. Nhưng vì cá nhân nào cũng có bản tính vị kỷ: ích
kỷ, tư lợi và tham lam, nên tuyệt đối không thể
có cái gì làm tiêu chuẩn hoặc cơ sở cho sự điều
độ. Sự điều độ không có cơ sở nào hoặc tiêu chuẩn nào để hiện hữu làm cho chính
thể quý tộc chỉ tồn tại mập mờ mà thôi, tức là chỉ được
xác định tương đối. Thực tế cho thấy chính thể quý tộc chỉ làm bước
quá độ giữa chính thể chuyên chế với chính thể
dân chủ. Chính vì chỉ làm bước quá độ như vậy nên chính thể quý tộc còn có
thể biểu hiện thành chính thể quá độ hoặc chính thể nửa
vời. Chính thể nửa vời chỉ có thể tồn tại mập mờ với nhiều hình
thái khác nhau nhưng có lẽ chính thể này biểu hiện rõ rệt nhất thành nền
chuyên chế giai cấp hoặc nền dân chủ giai cấp, như nền
dân chủ tư sản cũng như nền dân chủ chủ nô, v. v..
Nền chuyên chế giai cấp đòi hỏi phải tập trung cả ba quyền lực khác nhau: lập
pháp, hành pháp và tư pháp, vào một giai cấp nhất định để giai
cấp này thống trị tất cả các giai cấp khác. Việc tập trung cả ba quyền lực khác
nhau: lập pháp, hành pháp và tư pháp, vào một giai cấp nhất định lại đòi hỏi phải phân
chia đồng đều cả ba quyền lực kia cho tất cả
các cá nhân khác nhau hợp thành giai cấp đó, tức là phải áp dụng chính
thể dân chủ cho giai cấp đó, để nền chuyên chế giai cấp phải
biểu hiện trái ngược thành nền dân chủ giai cấp. Do có tính chất nửa vời: vừa
chuyên chế vừa dân chủ, hoặc chỉ bào đảm quyền lợi cho
giai cấp thống trị đồng thời áp đặt nghĩa vụcho các giai cấp bị thống
trị nên chính thể quý tộc không thể có pháp luật theo đúng ý
nghĩa đích thựccho khái niệm đó vốn đã được định nghĩa ở trên kia mà chỉ có
các quy tắc nửa vời: vừa độc đoán vừa nghiêm minh, biểu hiện thành
các đạo luật nửa vời: vừa mù quáng vừa nghiêm minh. Chính các quy tắc
đó đã giải thích được tại sao lại xảy ra cuộc Nội chiến
ở Mỹ từ năm 1861 đến năm 1865 hoặc tại sao nền dân chủ
chủ nô ở cả Hy lạp lẫn La mã vào thời
đại cổ xưa phải bị suy vong sau khi đã phát triển cùng cực bằng tinh
lực hạn chế được tạo ra bởi một số ít quy tắc nghiêm minh trong các
đạo luật nửa vời [8].
Trật tự thứ ba được gọi là chính
thể dân chủ, theo đó ba quyền lực khác nhau: lập pháp, hành pháp và tư
pháp, được phân chia độc lập với nhau cho ba cơ
quan khác nhau: cơ quan lập pháp thực hiện quyền lực lập pháp, cơ
quan hành pháp thực hiện quyền lực hành pháp và cơ quan tư
pháp thực hiện quyền lực tư pháp; ba cơ quan đó cấu thành nhà nước
dân chủ, tức là nhà nước dân chủ phải được tổ chức theo quy chế
phân lập tam quyền để ngăn ngừa quan chức nhà nước lạm dụng
quyền lực nhà nước [9]. Do quyền lực lập pháp có hai chức
năng đối lập nhau: chức năng quy định đối lập với chức năng ngăn cản,
nên cơ quan lập pháp phải được phân chia thành hai thiết chế
khác nhau: Thượng Nghị viện phân biệt với Hạ Nghị viện về cả số lượng
thành viên lẫn nhiệm kỳ hoạt động. Để ngăn chặn sự liên kết bất
chính giữa ba cơ quan đó, chính thể dân chủ phải có nguyên tắc
đa nguyên bình đẳng biểu hiện thànhnhiều đảng phái khác nhau hoạt
động bình đẳng theo nguyên tắc đa nguyên để nếu một
nhóm người nào đó mà nắm được cả ba quyền lực kia thì nhóm người đó sẽ phải bị
kiểm sát chặt chẽ (kiểm tra kết hợp với giám sát) bởi tất cả các nhóm người
khác, làm cho ba cơ quan kia phải thật sự độc lập với nhauđể cùng
nhau thực hiện ý chí chung. Tiếp theo, muốn cho nguyên tắc đa nguyên bình đẳng
được thực hiện triệt để, chính thể dân chủ phải có chế độ bầu cử tự do để ngăn
ngừa được tệ nạn quan liêu trong nhà nước dân chủ hoặc bảo đảm được sự
bình đẳng thật sự giữa nhà nước dân chủ với toàn
thể nhân dân bao gồm mọi cá nhân đều được quy định
thành công dân; chế độ bầu cử tự do làm cho người ta lựa chọn được những
người có cả tài năng lẫn đức hạnh làm người lãnh đạo đồng
thời cũng làm cho người lãnh đạo chỉ phụ thuộc vào nhân dân mà phải phục
vụ nhân dân, tức là làm cho nhân dân thật sự làm chủ đối với cả ba
cơ quan khác nhau cấu thành nhà nước dân chủ. Vậy xét đến cùng, chính thể
dân chủ làm cho mọi cá nhân đều có cả ba quyền
lực khác nhau: lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Mọi cá nhân đều làm ra pháp luật rồi lại đều sử dụng pháp luật đồng
thời đều bảo vệ pháp luật. Theo bản tính vị kỷ thúc đẩy, mọi cá nhân đều phải
làm ra pháp luật bằng các phương pháp công bằng, rồi
sử dụng (thi hành) pháp luật bằng các phương pháp tự
do đồng thời bảo vệ pháp luật đó bằng các phương pháp bác ái.
Một lần nữa câu chuyện dụ ngôn về chiếc Nhẫn Thần lại thể hiện giá trị
hiện thực ở đây (xin hãy xem lại chú thích 5). Chính vì phải
có pháp luật rồi mới có nhà nước dân chủ nên
chính thể dân chủ chỉ tồn tại được với ba điều kiện cơ bản: 1/
Nhà nước dân chủ phải được tổ chức theo quy chế phân lập tam quyền,
theo đó nhà nước này phải được phân chia thành ba cơ quan khác
nhau để thực hiện độc lập baquyền lực tương ứng: cơ quan lập pháp
thực hiện quyền lực lập pháp, cơ quan hành pháp thực hiện quyền lực hành pháp
và cơ quan tư pháp thực hiện quyền lực tư pháp; sự phân chia quyền lực như vậy
làm cho các nhà cầm quyền không thể lạm dụng được quyền lực nhà nước; 2/ Nhà nước
dân chủ phải được làm chủ theo nguyên tắc đa nguyên bình đẳng bởi toàn
thể nhân dân, theo đó nhà nước này phải bị kiểm sát chặt chẽ bởi nhiều
tổ chức độc lập để ngăn ngừa các điều luật bất công dẫn đến
tai hoạ cho dân chúng, cũng như phương tiện giao thông phải có
phanh hãm thật tốt để phòng tránh tai nạn giao thông; 3/
Nhà nước dân chủ phải được bảo tồn theo chế độ bầu cử tự do hoặc
phải hoạt động theonhiệm kỳ; sau mỗi nhiệm kỳ nhất định, nhà nước này phải thay
đổi nhân sự thông qua bầu cử tự do, theo đó mọi cá nhân đều
phải được tham gia lựa chọn những người có cả tài năng lẫn đức hạnh làm người
lãnh đạo đồng thời cũng đều phải được ứng cử làm người lãnh đạo, nhưng chỉ được
ứng cử vào mộttrong ba cơ quan khác nhau: lập
pháp, hành pháp và tư pháp, nếu ứng cử vào cơ
quan này thì không được ứng cử vào hai cơ quan kia hoặc nếu đắc cử vào cơ quan
này thì phải từ bỏ chức vụ ở hai cơ quan kia để người đắc cử chỉ nắm được một trong ba quyền
lực khác nhau: lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Quy chế phân lập tam quyền ngăn ngừa được các nhà cầm quyền lạm dụng
quyền lực nhà nước. Nguyên tắc đa nguyên bình đẳng bảo đảm cho nhân dân làm chủ
được các nhà cầm quyền. Chế độ bầu cử tự do làm cho nhà nước dân chủ phải phụ
thuộc vào nhân dân mà phục vụ nhân dân; chế độ bầu cử đó phải tuân thủ cả quy
chế phân lập tam quyền lẫn nguyên tắc đa nguyên bình đẳng để thực hiện được triệt
để cả hai thiết chế đó, tức là ba điều kiện đó bổ sung cho nhau đồng thời cùng
nhau bảo tồn pháp luật. Pháp luật chỉ có thể phải bao gồm các quy tắc
nghiêm minh biểu hiện thành các điều luật nghiêm minh, các
điều luật này bảo tồn tự do – bình đẳng – bác
ái. Tự do là tình trạng được làm tất cả những gì có lợi cho mình đồng
thời cũng có lợi cho cả người khác biểu hiện thành toàn bộ các quyền làm người
thuộc về mỗi cá nhân nhất định hoặc nhân quyền như vẫn thường gọi. Bình đẳng
là như nhau hoặc giống nhau về cả quyền lợi lẫn nghĩa vụ. Bác ái là yêu
thương người khác như yêu thương chính mình. Pháp luật bao gồm các quy tắc
nghiêm minh ngăn ngừa sự xung đột giữa người với người làm cho mọi cá
nhân đều được hạnh phúc như nhau; tức là pháp luật không chỉ ngăn cản
người ta làm điều xấu xamà còn thúc đẩy người ta làm điều tốt đẹp làm
cho bản tính vị kỷ trở thành bản tính tốt đẹp, hoặc
nói cụ thể hơn: pháp luật thúc đẩy người ta hành xử theo ĐẠO ĐỨC, tức
là khả năng làm theo cái THIỆNhoặc khả năng chống
lại cái ÁC [10]. Bằng pháp luật, chính thể dân chủ đặt để mỗi cá
nhân nhất định vào một khuôn khổ liên đới chỉ sống bằng kinh
tế đổi chác làm cho mỗi cá nhân đó trở thành một cá nhân xã hội.
Hệ quả này cho thấy pháp luật luôn luôn nhắm đến mục đích chân
chính đã được đề ra từ trước cho chính nó, tức là chính thể dân chủ bảo
đảm cho pháp luật tồn tại hoặc pháp luật chỉ tồn tại được với
chính thể dân chủ mà thôi. Cũng chính vì bảo đảm cho pháp luật tồn tại
nên chính thể dân chủ làm cho nhà nước dân chủ trở thành nhà
nước pháp quyền, tức là nhà nước này chỉ tồn tại bằng pháp luật: được thiết
lập bằng pháp luật đồng thời được bảo tồn bằng pháp luật cũng như chỉ quản lý bằng
pháp luật đồng thời được quản lý bằng pháp luật.
Như vậy, về mặt lý thuyết,
chỉ có ba trật tự khác nhau để tổ chức xã hội: chính
thể chuyên chế, chính thể quý tộc và chính thể dân
chủ. Ngoài ba trật tự đó sẽ không còn một trật tự nào khác. Xã hội ở bất cứ
đâu vào bất cứ thời đại nào cũng phải được tổ chức theo một trật tự nhất định
trong ba trật tự đó, nếu không phải trật tự này thì cũng phải trật tự khác chỉ
trong ba trật tự đó thôi [11].
Nho giáo không thể nào hình dung
nổi lại có thể có ba trật tự khác nhau như thế để có thể tổ chức xã hội theo ba
nguyên tắc khác nhau mà vì không thấy được bản tính vị kỷ hiện hữu ở mọi
cá nhân nên Nho giáo ắt phải giả định mặc nhiên rằng
chỉ có thể có một trật tự duy nhất mà thôi: chính thể chuyên
chế tập trung cả ba quyền lực khác nhau: lập pháp, hành pháp và tư pháp, vào một
cá nhân duy nhất (Vua chúa) hoặc một số ít cá nhân nào
đó có chung cả quyền lợi lẫn ý đồ (quân tử) nhưng trong
đó lại chỉ có một cá nhân duy nhất nắm toàn quyền quyết định, tức là xét đến
cùng chỉ có một cá nhân duy nhất (Vua chúa)nắm cả ba
quyền lực nói trên như đã được trình bày ở trật tự thứ nhất.
Rồi theo giả định đó, Nho giáo dồn hết mọi ưu tư triết học vào
củng cố chính thể chuyên chế bằng Tam Cương.
Do Tam Cương chỉ có sự
xiêu lệch hoặc sự bất bình đẳng đòi hỏi tôi tớ
phải phục tùng vua chúa, con cái phải phục tùng cha mẹ, vợ
phải phục tùng chồng bằng Tam Tòng, nên Ngũ Luân cũng
như Ngũ Thường(Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín)
cùng với Tứ Đức (Công, Dung, Ngôn, Hạnh)
đều bị tha hoá (chuyển hoá thành cái đối lập thù địch với mình
ở bên ngoài mình để chống lại chính mình) rồi bị vong thân (bị
mất mình).
Quả thật, bản tính vị kỷ vốn
có ở mọi cá nhân (cả vua chúa lẫn tôi tớ, cả cha mẹ lẫn con
cái, cả chồng lẫn vợ, v. v.) luôn luôn thôi thúc mọi cá nhân sẵn sàng lạm
dụng mọi thứ làm cho Ngũ Thường cũng nhưTứ Đức mà
được áp dụng sẽ bị lạm dụng, Ngũ Thường cũng như Tứ Đức mà bị lạm dụng
sẽ chuyển hoá thành các giá trị trái ngược với chúng để rồi chỉ
có tác dụng trái ngược với chính chúng, tức là bị tha
hoá, theo đó Nhân tha hoá thành Bất Nhân, Nghĩa tha hoá
thành Bạc Nghĩa, Lễ tha hoá thành Vô Lễ, Trí tha hoá
thành Loạn Trí, Tín tha hoá thành Bội Tín, Công tha hoá
thành Lãn Công, Dung tha hoá thành Lộn Dung, Ngôn tha
hoá thành Lộng Ngôn, Hạnh tha hoá thành Vô Hạnh, để rồi tất cả
các giá trị đó đều chỉ có tác dụng tai ác rồi bị vong
thân. Hãy chứng minh bằng thực tế. Bản tính vị
kỷ kích thích vua chúa lạm dụng “Nhân” để hãm hại
tôi tớ nhằm bảo tồn mình làm cho “Nhân” chỉ có
hại cho tôi tớ: tôi tớ càng “Nhân” với vua chúa sẽ càng bị hãm hại bởi
chính vua chúa. Nhưng bản tính vị kỷ cũng kích thích tôi tớ lạm dụng “Nhân”
để chống lại vua chúa nhằm bảo tồn mình làm
cho “Nhân” cũng chỉ có hại cho vua chúa: vua chúa càng “Nhân” với
tôi tớ sẽ càng bị hãm hại bởi chính tôi tớ. Vậy cả vua chúa lẫn tôi tớ đều chuyển
hoá thành kẻ bất nhân; cứ thế mở rộng cho tất cả các giá trị
khác trong tất cả các quan hệ kháclàm cho tất cả đều
trở thành những kẻ bất nhân, những kẻ bạc nghĩa, những
kẻ vô lễ, những kẻ loạn trí,những kẻ bội tín, v.
v., tức là tất cả đều bị tha hoá. Theo sự tha hoá, tất cả đều
hành xử bằng các thủ đoạn thâm độc: ngoài mặt phải tỏ ra Nhân – Nghĩa –
Lễ – Trí – Tín, nhưng trong lòng lại chỉ ấp ủ Bất Nhân – Bạc Nghĩa
– Vô Lễ – Loạn Trí – Bội Tín. Đến một mức độ nào đó, sự tha hoá sẽ đạt đến sự
vong thân biểu hiện thành chiến tranh với chết
chóc, đau thương, thù hận, v. v.. Như vậy Tam
Cương không thể mang lại sự ổn định cho xã hội mà chỉ có thể gây nên sự
hỗn độn cho xã hội, tức là Nho giáo cũng có mâu thuẫn giữa mục đích
với phương tiện làm cho Nho giáo trở thành một hệ tư tưởng
vong thân. Ngay từ thế kỷ XVIII, giới thức giả ở Tây phương đã
biết được những hệ quả đau đớn nhất được tạo ra từ Nho giáo,
như cha phải đem bán con gái hoặc quẳng con ra đường, v.
v., ở cả nước Tàu lẫn Việt nam[12]. Sự vong
thân như vậy cho thấy Tam Cương chỉ được dùng làm ba cái xiềng
xích chắc chắn nhất để trói chặt các Xã hội Nho giáo vào ách nô lệ: trói
chân, trói tay, và trói cả đầu nữa! Tam Cương
cũng làm cho các Xã hội Nho giáo dễ dàng tiếp nhận Chủ nghĩa Marx – một hệ tư
tưởng khác cũng mang tính chất vong thân y như Nho giáo. Chủ nghĩa Marx không
khắc phục được sự vong thân mà chỉ làm trầm trọng thêm sự vong thân: chế độ
phong kiến chỉ làm cho cha phải đem bán con gái hoặc quẳng
con ra đường, v. v., nhưng chế độ cộng sản lại làm cho cha
mẹ phải ăn thịt con cái [13].
(còn tiếp)
_____________________
_____________________
Ghi chú:
[1] Xin hãy xem thêm Hà Huy Toàn: Cần
cảnh giác với Học viện Khổng Tử ở bất cứ đâu. Việt nam Thời báo (http://www.ijavn.org/2015/01/can-canh-giac-voi-hoc-vien-khong-tu-o.html).
Do mổ xẻ trúng chủ đề quan trọng nên bài viết đó đã được đăng tải lại trên
nhiều trang mạng khác nhau. Bách khoa Toàn thư Mở bằng Việt ngữ nói
về Nho giáo (https://vi.wikipedia.org/wiki/Nho_giáo)
nhưng không chiết tựcho chữ “Nho” (儒) khiến độc
giả không thể hiểu đúng hoặc rất khó hiểu đúng về Nho giáo mà thường hiểu sai lạc
về Nho giáo. Nói về ảnh hưởng của Nho giáo đối với Công giáo, trang
này còn trình bày rất mù mờ khiến độc giả càng không thể hiểu đúng về mối quan
hệ thực tế giữa Nho giáo với Công giáo. Xin hãy xem chú thích 2 ở
dưới đây.
[2] Chớ nên đánh đồng Tam
Cương thuộc về Nho giáo với Mầu nhiệm Ba Ngôi (Trinité)
thuộc về Chúa giáo (Công giáo, Chính giáo, Tin lành, v. v.).
Trong “Phép giảng tám ngày” được viết bởi Alexandre de Rhodes,
tác giả này đã viết một đoạn văn như sau: “Bây giờ ta phải có ba đấng bề
trên được gọi là ba cha, ta phải thờ, ở đấng nào cho nên đấng ấy. Đấng dưới là
cha mẹ sinh thân xác cho ta; đấng giữa là vua chúa trị nước; đấng trên tức là đức
chúa trời đất, làm chúa thật trên hết mọi sự. Có ba đấng này ta mới được sống,
được ở. Vì chúng ta có cha mẹ, nên mới được thân xác thịt này sinh ra mà chớ…
Vua chúa cũng được gọi là cha cả và nước cùng các dân. Chẳng có vua chúa, thì
nước chẳng được ở an lành… Ắt thật thượng phụ là cha cả, chúa cả trên hết mọi sự,
có thưởng có phạt trọng”. Đoạn văn đó cho thấy A. Rhodes không hề
xác nhận Nho giáo có ảnh hưởng tốt đối với Công giáo mà chỉ vận
dụng Nho giáo để truyền bá Công giáo. Trong “Phép giảng tám ngày”,
A. Rhodes không hề tiếp nhận Nho giáo màchỉ bác bỏ Nho giáo thôi.
Có lẽ ông đã hiểu rõ sự xung khắc về logic nội tại giữa
Nho giáo với Chúa giáo. Thế nhưng Bách khoa Toàn thư Mở bằng Việt
ngữ nói về Nho giáo (https://vi.wikipedia.org/wiki/Nho_giáo)
đã trích dẫn đoạn văn trên rồi diễn dịch theo một cách thức mập mờ làm
cho độc giả dễ ngộ nhận rằng A. Rhodes tiếp nhận Tam
Cương để xác lập thần học về Ba Cha (Tam Phụ), từ đó làm cho
người ta có thể dễ dàng ngộ nhận rằng Tam Cương đồng nhất với Mầu nhiệm
Ba Ngôi. Thật ra, Tam Cương xung khắc với Mầu nhiệm Ba Ngôi y
như nước xung khắc với lửavậy! Tam Cương áp đặt sự bất bình
đẳng cho các quan hệ xã hội, đối lập với Mầu nhiệm Ba Ngôi xác lập
sự bình đẳng cho các quan hệ đó (xin hãy xem chú thích 7).
Khi viết rằng: “Các quân tử cứ lẽ tự nhiên đã suy đến sự ấy đã kể phép nhất
phu, nhất phụ trong ba giềng mối can hệ nhất trong thiên hạ quen gọi là Tam
Cương… Ví bằng người ta cẩn thận giữ cho phải miễn trong việc nhất phu, nhất phụ
thì các việc khác liền được an”, Giám mục Hermosilla (Liêm) cũng không
hề xác nhận Nho giáo có ảnh hưởng tốt đối với Công giáo mà chỉ
vận dụng Nho giáo để truyền bá Công giáo. Tương tự A. Rhodes, Giám mục
Hermosilla có lẽ cũng đã hiểu rõ sự xung khắc về logic
nội tại giữa Nho giáo với Chúa giáo. Nho giáo chấp nhận chế độ đa thê,
đối lập hẳn với Chúa giáo vốn chủ trương một vợ một chồng! NhưngBách khoa
Toàn thư Mở bằng Việt ngữ nói về Nho giáo (https://vi.wikipedia.org/wiki/Nho_giáo)
cũngđã diễn dịch mập mờ rằng Giám mục Hermosilla vận dụng cả Tam
Cương lẫn Ngũ Thường để hướng dẫn tín đồ sống đạo
theo tín lý đề cao hôn nhân một vợ một chồng làm cho độc giả có thể dễ dàng ngộ
nhận rằng Công giáo tiếp nhận quan điểm tiến bộ về hôn nhân từ Nho giáo. Xin nhắc
lại rằng sự xung khắc giữa Nho giáo với Chúa giáo đã giải thích được tại sao
các Học viện Khổng Tử đang bị tẩy chay hàng loạt ở Tây phương.
[3] Quý độc giả có thể sẽ thắc mắc
rằng: đang nói về Nho giáo tại sao tác giả lại chuyển sang nói
về mộtlý thuyết khoa học về đời sống chính trị? Tôi xin trả lời
ngay rằng vì bất cứ hệ tư tưởng nào cũng như bất cứ lý thuyết nào cũng có thể tự
biện minh cho mình nên theo định lý bất toàn (Incompleteness
Theorem), nếu chỉ nhận thức hoặc tìm hiểu một
hệ tư tưởng nào bằng chính hệ tư tưởng đó thì không thể nhận thức đúng về hệ tư
tưởng đó, tức là không thể nhận thấy hệ tư tưởng đó sai lầm hoặc tiêu cực
ở chỗ nàomà chỉ nhận thấy hệ tư tưởng đó đúng đắn hoặc tích cực ở bất
cứ chỗ nào. Vậy cần phải tìm hiểu Nho giáo bằng một lý thuyết
khoa học về đời sống chính trị mới có thể hiểu đúng về Nho giáo rồi mới
có thể xác định được giá trị đích thực cho Nho giáo.
[4] C. S. Montesquieu đã phát hiện
được quyền lực lập pháp có hai chức năng đối lập nhau: chức
năng quy định đối lập với chức năng ngăn cản, nhưng ông đã không giải thích tại
sao quyền lực lập pháp lại có hai chức năng đối lập nhau như thế
(Charles de Secondat Montesquieu: De l'Esprit des Lois. Bản dịch Việt
ngữ được thực hiện bởi Hoàng Thanh Đạm: Tinh thần Pháp luật. Nhà xuất
bản Giáo dục, Hà nội 1996. Quyển XI: Các luật tạo ra tự do chính trị
trong mối quan hệ với Hiến pháp, từ trang 98 đến trang 117. Chương 6: Hiến
pháp Anh quốc, từ trang 100 đến trang 113. Xin hãy xem trang 106. Nhà xuất
bản Lý luận Chính trị trực thuộc Học viện Chính trị Quốc gia tại Hà nội cũng đã
tái xuất bản bản dịch này vào năm 2006. Xin hãy xem thêm ấn bản đó. Quyển XI, từ
trang 103 đến trang 125. Chương 6, từ trang 105 đến trang 121. Xem điểm nhấn ở
trang 113). Ở đây tôi đã giải thích nguyên nhân làm cho quyền
lực lập pháp có hai chức năng đối lập nhau như trên bằng bản
tính vị kỷ vốn có ở mọi cá nhân sống vào mọi
lúc.
[5] Câu chuyện dụ ngôn về chiếc
Nhẫn Thần đã đưa ra một câu hỏi triết lý với nhiều câu
trả lời khác nhau sẽ làm cho người trả lời tỏ ra thiển
cận hay uyên bác: nếu may mắn mà nhặt được một chiếc Nhẫn Thần ước gì
được nấy thì bạn ước muốn điều gì đầu tiên? Người thiển cận sẽ chỉ ước muốn các
giá trị kinh tế, như thực phẩm ngon, y phục đẹp, nhà
ở lộng lẫy, v. v., nhưng người uyên bác sẽ phải ước muốncác
giá trị chính trị, rằng chiếc Nhẫn Thần đó sẽ mãi mãi thuộc về mình
để phục vụ mình. Câu chuyện dụ ngôn này không chỉ nói về bản tính vị kỷ mà
còn phân biệt người thiển cận với người uyên bác nữa, theo đó nếu người thiển cận
chiếm ưu thế trong xã hội thì xã hội chỉ có thể được tổ chức theo chính thể
chuyên chế nhưng nếu người uyên bác chiếm ưu thế trong xã hội thì xã hội lại có
thể được tổ chức theo chính thể dân chủ. Xin xem câu chuyện ngụ ngôn về
“Chiếc Nhẫn Thần” tại Bách khoa Tri thức(http://www.bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/1747-1550-633466395663437500/Truyen-co-tich-noi-tieng-The-gioi/Chiec-nhan-than.htm).
[6] Khuôn khổ biệt lập thường chỉ
tồn tại vô hình đối với cá nhân nào chấp nhận chính thể chuyên chế nhưng sẽ tồn
tại hữu hình đối với cá nhân nào chống lại chính thể đó. Với trường hợp này,
khuôn khổ biệt lập sẽ hiện hữu cụ thể thành cả ngục thất lẫn đao
phủ.
[7] C. S. Montesquieu đã phát hiện
được rằng sự khiếp sợ làm động cơ cho chính
thể chuyên chế. Nhưng ông lại cho rằng sự khiếp sợ đưa đến chính thể
chuyên chế, tức là ông quy định một trình tự trái ngược giữa
hai cái đó (Charles de Secondat Montesquieu: De l'Esprit des Lois.
Bản dịch Việt ngữ được thực hiện bởi Hoàng Thanh Đạm: Tinh thần Pháp luật.
Nhà xuất bản Giáo dục, Hà nội 1996. Quyển III:Bàn về những nguyên tắc của ba
loại chính thể, từ trang 54 đến trang 57. Chương 9: Nguyên tắc của
chính thể chuyên chế, trang 56. Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, Hà nội
2006. Quyển III, từ trang 55 đến trang 58. Chương 9, trang 58). Thực tế, chính
thể chuyên chế đưa đến sự khiếp sợ, nếu không có chính thể chuyên chế thì
đương nhiên không thể có sự khiếp sợ, chính thể chuyên chế làm cho hầu hết mọi
người đều khiếp sợ như nhau. Ở đây tôi đã đảo ngược cái trình
tự trái ngược đã được thiết lập bởi C. S. Montesquieu. Đây cũng là một điểm
khác biệt phân biệt tôi với ông.
[8] C. S. Montesquieu đã phát hiện
được rằng danh diện làm động cơ cho chính thể
quý tộc. Nhưng ông lại quy định rằng danh diện đưa đến chính thể quý tộc
(Charles de Secondat Montesquieu: De l'Esprit des Lois. Bản dịch Việt
ngữ được thực hiện bởi Hoàng Thanh Đạm: Tinh thần Pháp luật. Nhà xuất
bản Giáo dục, Hà nội 1996. Quyển III: Bàn về những nguyên tắc của ba loại
chính thể, từ trang 54 đến trang 57. Chương 7: Nguyên tắc của chính
thể quân chủ, từ trang 55 đến trang 56. Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, Hà
nội 2006. Quyển III, từ trang 55 đến trang 58. Chương 7, trang 57). Thực tế lại
trái ngược như vậy: chính thể quý tộc đưa đến danh diện (xin hãy xem thêm chú
thích 7). Ở đây cần chú ý rằng có lẽ vì nhận thấy chính thể
quý tộc có cùng bản chất với chính thể chuyên chế nên đôi
khi C. S. Montesquieu đã định danh cho chính
thể quý tộc bằng chính thể quân chủ làm cho độc giả dễ
bị nhầm lẫn chính thể chuyên chế với chính thể quý tộc. Muốn hiểu được đầy đủ
hơn về chính thể quý tộc, quý độc giả nên xem thêm Hà Huy Toàn: Nhận
xét khái quát về Hiến pháp Mỹ. Bauxite Việt nam (http://www.boxitvn.net/bai/32571).
[9] Việc lập luận bằng bản
tính vị kỷ đã cho phép tôi phát hiện được ý nghĩa sâu xa trong Mầu
nhiệm Ba Ngôi được xác lập bởi Chúa Jesus, tức là việc đó
cho phép tôi hiểu được tại sao Chúa lại thể hiện mình thành ba ngôi: Chúa
Cha (Đấng Toàn năng hoặc Đạo Vũ trụ), Chúa
Con (Chúa Jesus) và Chúa Thánh thần biểu hiện
cụ thể thành Giáo hội Chúa giáo với nhiều hình thức
khác nhau; từ đó tôi xác lập cho mình một niềm tin rằng
Chúa giáo (Christianity), bao gồm Công giáo (Catholicism), Chính
giáo(Orthodoxism), Tin lành (Protestantism), vân vân, là Tôn
giáo Về nền Cộng hòa (nền dân chủ với nhà nước pháp quyền được tổ chức
theo quy chế phân lập tam quyền, được kiểm sát theo nguyên
tắc đa nguyên bình đẳng và được bảo tồn theo chế độ bầu cử tự
do). Tôi không hề đi tiên phong trong việc xác lập mối
liên hệ thực tế giữa Chúa giáo với chính thể dân chủ. Trước tôi, cả Alexis
De Tocqueville (1805 – 1859) lẫn Friedrich August von Hayek (1899
– 1992) đã làm việc đó rất thành công. A. De Tocqueville đã giải thích được tại
sao cách mạng dân chủ xảy ra trước hết ở các nước nào theo Chúa giáo (Alexis De
Tocqueville: De la Démocratie en Amérique. G. F. Flammarion, 1981.
Bản dịch Việt ngữ được thực hiện bởi Phạm Toàn: Nền Dân trị ở Mỹ.
Nhà xuất bản Tri thức, Hà nội 2013. Phần III, từ trang 469 đến trang 557). F.
A. von Hayek đã chứng minh được rằng chủ nghĩa cá nhân, vốn phải làm nền tảng
tinh thần cho chính thể dân chủ, chỉ có thể xuất sinh từ chính Chúa giáo
(Friedrich August von Hayek: The Road To Serfdom (Con đường Dẫn
đến Nô lệ). Bản dịch Việt ngữ được thực hiện bởi Phạm Nguyên Trường: Đường
Về Nô lệ. Nhà xuất bản Tri thức, Hà nội 2008. Trang 71). Tôi chỉ khái quát
sâu rộng hơn để người đời thấy được rõ ràng hơn về mối liên hệ thực tế giữa
Chúa giáo với chính thể dân chủ. Về tên gọi cho tôn giáo này,
tôi xin giải thích rõ ràng hơn như sau: vì Kinh thánh nói Chúa
ở mọi nơi vào mọi lúcnên Christianity trong Anh
văn cần phải được chuyển dịch sang Việt ngữ thành Chúa
giáo mới thật sát nghĩa, nếu chuyển dịch Christianity thành Thiên
Chúa giáo thì “Thiên Chúa giáo” không thể hiện được hết ý
nghĩa đích thực cho Christianity; vì Thiên Chúa chỉ
có nghĩa là Chúa Trời nên danh xưng này dễ làm cho người ta hiểu
sai rằng Chúa chỉ có ở trên Trời, hiểu như vậy rất sai lạc
so với Kinh thánh. Tức là trong quan hệ ý nghĩa với
Christianity, Chúa giáo sát nghĩa hơn nhiều so với Thiên Chúa
giáo: nếuThiên Chúa giáo chỉ cho thấy Chúa ở trên Trời thì Chúa
giáo lại phải cho thấy Chúa ở mọi nơi vào mọi lúc (cả trên Trời lẫn dưới
Đất, cả trong Ta lẫn ngoài Ta, cả Không
gian lẫn Thời gian, v. v.). Đó chính là lý
do thực tế để tôi chỉ nói Chúa giáo mà không nói Thiên
Chúa giáo như nhiều người vẫn nói sai như vậy, nói như vậy
vừa sai lạc vừa dài dòng, thừa chữ nhưng thiếu
nghĩa.
[10] Charles de Secondat
Montesquieu: De l'Esprit des Lois. Bản dịch Việt ngữ được thực hiện
bởi Hoàng Thanh Đạm: Tinh thần Pháp luật. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà
nội 1996. Quyển III: Bàn về những nguyên tắc của ba loại chính thể,
từ trang 54 đến trang 57. Chương 3: Nguyên tắc của chính thể dân chủ,
từ trang 54 đến trang 55. Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, Hà nội 2006. Quyển
III, từ trang 55 đến trang 58. Chương 3, từ trang 55 đến trang 56. Ở đây, C. S.
Montesquieu đã phát hiện được rằng đạo đức làm động cơ cho chính
thể dân chủ. Nhưng ông lại quy định rằng đạo đức đưa đến chính thể
dân chủ trong khi thực tế chính thể dân chủ đưa đến đạo đức (xin hãy
xem thêm cả chú thích 7 lẫn chú thích 8).
[11] C. S. Montesquieu đã phát hiện
được ba chính thể khác nhau: chuyên chế, quý
tộc và dân chủ, nhưng ông đã không giải thích tại
sao lại chỉ có ba chính thể đó mà không thể hơn cũng như không thể kém
(Charles de Secondat Montesquieu: De l'Esprit des Lois. Bản dịch Việt
ngữ được thực hiện bởi Hoàng Thanh Đạm: Tinh thần Pháp luật. Nhà xuất
bản Giáo dục, Hà nội 1996. Từ Quyển II đến Quyển XI, từ trang 47 đến trang 117.
Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, Hà nội 2006. Từ trang 46 đến trang 125). Lập luận
bằng bản tính vị kỷ, tôi đã giải đáp được vấn đề này. Sự kiện này
có một ý nghĩa đặc biệt. Thứ nhất, nó cho phép chúng ta đặt để niềm tin vào quan
niệm cho rằng đời sống xã hội (social existence) cũng tồn tại theo các quy luật
tự nhiên như bao thực tại khác đành rằng các quy luật tự nhiên trong đời sống
xã hội chỉ biểu hiện qua hoạt động sống được thực hiện hiện thực
– dù tự phát hay tự giác, dù vô ý thức hay có ý thức, dù không trù định trước
hay có trù định trước – bởi mọi cá nhân. Thứ hai, nó cũng cho phép chúng ta
phát hiện được nhiều thiếu sót trong tất cả các hệ tư tưởng khác nhau, bao gồm
cảchủ nghĩa cá nhân lẫn chủ nghĩa xã hội, được lưu hành
từ trước đến nay theo một tiến trình phức tạp với vô số sự kiện làm trọng tài
trong cuộc đấu tranh giữa các hệ tư tưởng đó; thiếu sót chung cho tất cả các hệ
tư tưởng đó thể hiện qua tình trạng bị giam hãm vào vô số định kiến cố hữu về bản
tính vị kỷ khiến các hệ tư tưởng đó trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy nhân loại
lao vào các cuộc xung đột khốc liệt. Thứ ba, nó cho phép chúng ta xác lập được
một hệ tư tưởng thống nhất để có thể thống nhất tư tưởng vốn rất cần thiết cho
công cuộc thống nhất thế giới vào một trật tự ưu việt nhất hoặc một trật tự
thích hợp nhất với mọi cá nhân.
[12] Charles de Secondat
Montesquieu: De l'Esprit des Lois. Bản dịch Việt ngữ được thực hiện
bởi Hoàng Thanh Đạm: Tinh thần Pháp luật. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà
nội 1996. Quyển XXIII: Pháp luật trong quan hệ với dân số, từ trang
168 đến trang 174. Chương 16: Các quan điểm của nhà lập pháp trong vấn
đề sinh sôi nòi giống, trang 169. Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, Hà nội
2006. Quyển XXIII, từ trang 184 đến trang 191. Chương 16, từ trang 185 đến
trang 186. Tôi đau đớn tâm can khi đọc chương này. C. S.
Montesquieu bước đầu nhận thấy mối liên hệ thực tế giữa chính thể chuyên chế với
sự bùng nổ dân số hoặc nạn nhân mãn.
[13] Tân Tử Lăng: Mao Trạch
Đông – Ngàn năm công tội. Bản dịch Việt ngữ. Thông tấn xã
Việt nam, Hà nội 2008.
Nguồn: https://www.danluan.org/tin-tuc/20150810/ha-huy-toan-nho-giao-mot-he-tu-tuong-nguy-hiem-1