Nguyễn Duy Dũng
Khi nghiên cứu về xã hội Nhật Bản
người ta không thể nói đến sự phát triển đầy kỳ tích của dân tộc này. Hiện đại
hoá được thực hiện một cách khá nhanh chóng và thành công bởi mục tiêu cháy bỏng
đưa đất nước “mặt trời mọc” đuổi và vượt các nước phương Tây. Đó là quá trình
đan xen phức tạp bởi nhiều yếu tố và nhiều lĩnh vực từ tư tưởng, kỹ thuật, nhân
lực đến lãnh đạo, văn hoá… Đặc biệt, sự dung hoà và bản địa hoá một cách tài
tình những tinh hoa của văn hoá nhân loại nhất là hai dòng văn hoá chủ yếu:
phương Tây (nhất là Mỹ), phương Đông (chủ yếu là Trung hoa) đã tạo nên những
nét rất riêng của Nhật Bản trong công cuộc xây dựng đất nước. Có thể nói đó
cũng chính là quá trình Nhật Bản mở cửa hội nhập quốc tế và đi tìm những giá trị
phổ biến của nhân loại để phục vụ cho công cuộc hiện đại hoá. Bài viết này đi
sâu phân tích một số kinh nghiệm chủ yếu mà khoa học của Nhật Bản nói chung,
khoa học xã hội nói riêng đã trải nghiệm và đóng góp vào việc tiếp thu các giá
trị văn hoá nhân loại, phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước trước đây cũng
như hiện nay.
I. Tích cực chủ động hội nhập, tiếp
thu nhanh chóng những tri thức và tinh hoa của nhân loại
Khi đề cập đến sự phát triển của xã
hội Nhật Bản người ta đều cho rằng những kỳ tích mà nước này đạt được là nhờ sớm
hoà nhập với thế giới và tiếp thu tài tình những tinh hoa và giá trị của nhân
loại. Quả vậy, một đất nước nghèo nàn, khan hiếm tài nguyên và có điều kiện
thiên nhiên khá khắc nghiệt, song Nhật Bản đã vươn lên trở thành một trong những
siêu cường của thế giới. Rõ ràng, thành công của Nhật không thể tách rời với
quá trình chủ động hội nhập quốc tế của nước này.
Hiện đại hoá xã hội Nhật Bản đã
diễn ra trong một bối cảnh trong nước và quốc tế khá phức tạp. Đó là quá trình
tiếp nhận nhiều dòng văn hoá, tinh hoa của thế giới: văn hoá phương Đông, văn
hoá phương Tây, văn hoá Mỹ. Sự xâm nhập của chúng bằng nhiều cách thức khác
nhau vừa cả tự giác và không tự giác. Vì thế, không hoàn toàn dễ dàng khi các
dòng văn hoá nhân loại đi vào Nhật Bản, một đất nước mà chủ nghĩa dân tộc luôn
tự vệ mạnh mẽ, thậm chí đôi khi còn rất cực đoan. Song, lịch sử đã cho thấy,
trong tiến trình hiện đại hoá đất nước, người Nhật đã biết tiêu hoá và tiếp thu
một cách có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại và bản địa hoá nhanh chóng để
biến chúng thành những giá trị của chính mình phục vụ cho mục tiêu của đất nước
đề ra. Vì vậy, khi đề cập đến ảnh hưởng quốc tế đối với hiện đại hoá Nhật
Bản không thể không nói đến truyền thống văn hoá Trung Quốc. Bằng nhiều con đường
khác nhau văn hoá Trung Quốc đã truyền bá, thẩm thấu khá mạnh mẽ vào đất nước mặt
trời mọc. Thực tế lịch sử đã chỉ ra rằng: cách đây hàng vạn năm từ thời đại
Yayoi văn hoá nước ngoài đã du nhập vào Nhật Bản do dân di cư từ Trung Quốc và
Bán đảo Triều Tiên mang đến. Từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 6 đã chứng kiến sự
du nhập mạnh mẽ của văn hoá Trung Hoa, kể cả đạo Khổng và đạo Phật qua con đường
Triều Tiên. “Dạng chữ viết Trung Quốc dựa vào hình tượng đã được áp dụng và nhờ
vào phương tiện này người Nhật đã học được các kiến thức sơ đẳng về y học, các
công trình về lịch sử và thiên văn, và triết lý của Đạo Khổng. Đạo Phật được
đưa từ Ấn Độ vào Nhật Bản thông qua Trung Quốc và Triều Tiên vào năm 538. Hệ thống
chính quyền Trung Quốc là mô hình được các nhà cầm quyền Nhật Bản vận dụng xây
dựng hệ thống riêng của mình.”([1])
Điều muốn nói là Nhật Bản đã chủ
động tiếp thu những thành tựu của văn minh nhân loại vào thời điểm đó chính là
văn minh Trung Hoa. Nhật Bản đã cử khá nhiều học sinh sang du học Trung Quốc. “
Những học sinh Nhật Bản học ở Quốc Tử Giám nhà Đường, phạm vi học rất rộng, thời
gian học có khi tới hai, ba mươi năm. Không những họ nghiên cứu truyền thống
nho giáo mà đồng thời cũng nghiên cứu thiên văn, y học pháp luật và văn học
Trung Quốc.”([2]).
Không chỉ có tiếp thu văn minh
Trung Hoa mà người Nhật đã học hỏi và tiếp thu các dòng văn minh khác của nhân
loại. Trên thực tế ban đầu việc mở cửa với phương Tây không hoàn toàn suôn sẻ.
Song, chính quyền nhận ra rằng, việc đóng cửa với thế giới, nhất là với phương
Tây chỉ đem lại sự cô lập và nghèo nàn mà thôi. Vì vậy, sau khi chính quyền Mạc
Phủ nới lỏng quan hệ với bên ngoài và nhất là dưới áp lực của phương Tây, Nhật
Bản đã dần nhận ra sự cần thiết phải hội nhập quốc tế nhanh chóng. Chính phủ đã
chú trọng phát triển giáo dục, đào tạo trí thức, vì vậy tinh thần học tập đã được
khơi dậy và khuyến khích. Trong đó nổi bật là phong trào học tập Hà Lan (
Rangaku-Lan học) và dần về sau là Tây phương học (Yogaku). Điều đáng chú ý là
nhờ chính sách mở cửa, xoá bỏ bài ngoại mà chỉ trong một thời gian ngắn
hàng loạt công trình nghiên cứu cũng như tài liệu sách vở phục vụ cho học tập
đã được xuất bản. Cho đến thời kỳ Eđo ( 1600-1868) việc học tập giao lưu đã trở
thành nhu cầu bức thiết của xã hội và thực tế đây cũng là giai đoạn xã hội Nhật
Bản (trong đó có KHXH) đã đạt được những thành tựu khá rực rỡ. “ Nhiều học giả
Nho giáo đã đi sâu vào việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của Tống Nho
để vận dụng vào xã hội Nhật Bản. Dựa trên bộ Tự trị thông giám của Trung Quốc đời
Tống Hayashi Razan (Lâm La Sơn, 1583-1657) cùng con là Hayashi Shunsai (Lâm
Xuân Tế, 1618-1680), đã biên soạn bộ biên niên sử Honcho Tsugan ( Bản triều
thông giám) gồm 300 cuốn, hoàn thành năm 1671). Trước đó, năm 1643 Shusan đã xuất
bản bộ Kanei Keizu cũng gồm 300 cuốn ghi lại lịch sử tất cả những dòng họ lớn ở
Nhật Bản”.([3]) Ở
giai đoạn này nhiều công trình khá đồ sộ về lịch sử cũng đã được xuất bản.
Trong đó đáng chú ý là Dai Nihon Shi (Đại Nhật Bản sử) với 397 cuốn đã hoàn
thành vào năm 1906. Chính ở thời kỳ này nhiều tác gia nổi tiếng đã cho ra đời
nhiều công trình đồ sộ có giá trị trong lĩnh vực KHXH. Đó là Arai Hakuseki
(1657-1725), Iida Tadahiko (1816-1861), Rai Sanyo ( 1780-1832)…
Khi nói đến mở cửa của Nhật Bản ở
thời kỳ này không thể không nhắc đến phong trào Hà Lan học và Tây phương học.
Điều đáng chú ý là để việc học tập đạt kết quả tốt thì việc biên soạn sách giáo
khoa cũng như từ điển là hết sức cần thiết. Các bộ Từ điển Nhật- Hà do Aoki
Konyo chủ biên năm 1745, cuốn sách Kaitai shinsho (Giải thể tân) do
Sughita Gempaku dịch …và nhiều công trình khác đã góp phần quan trọng vào việc
truyền bá những kiến thức khoa học đối với dân chúng. Việc cử các nhà khoa học
ra nước ngoài, thành lập các trường dạy về phương Tây và Hà Lan, xuất bản sách…
không chỉ nâng cao trình độ văn hoá trong dân chúng mà còn tạo nên sự phong phú
và khả năng tiếp nhận các dòng văn hoá tri thức của nhân loại. Do vậy, cách thức
hội nhập trên của giáo dục khoa học và văn hoá Nhật Bản cũng là kinh nghiệm
đáng quý để chúng ta tham khảo. Rõ ràng, mở cửa chỉ là điều kiện cần còn quan
trọng là hấp thụ có hiệu quả tinh hoa của bên ngoài. Muốn vậy, không chỉ quán
triệt sâu sắc chủ trương mở cửa hội nhập mà cần thiết phải nâng cao trình độ tiếp
nhận và nội địa hoá thành vốn tri thức của chính mình. Để làm được điều đó khoa
học nói chung, KHXH nói riêng đóng vai trò hết sức quan trọng.
Như vậy, có thể nói rằng không phải
chỉ đến thời kỳ Minh Trị Nhật Bản mới mở rộng cửa với thế giới bên ngoài, nhất
là với phương Tây mà ở các mức độ khác nhau các dòng văn hoá nhân loại cũng đó
xâm nhập vào Nhật Bản. Dấu ấn mạnh mẽ của chính quyền Minh Trị chính là thực hiện
chủ trương hội nhập quốc tế như là một phương thức quyết định đến sự tồn vong
và phồn thịnh của đất nước.
Như chúng ta đã biết, chỉ sau một
thời gian ngắn trị vì đất nước Thiên hoàng Minh Trị đã làm được điều kỳ diệu :
đó là tạo lập được một đất nước Nhật Bản với cơ cấu tổ chức xã hội, thể chế
chính trị và các ngành công nghiệp hiện đại. Nhật Bản rất coi trọng tinh hoa của
văn minh Trung Hoa và thực sự đã biến những giá trị đó thành sức sống và tinh
thần Nhật Bản. Sự hoà đồng văn hoá với việc giữ vững cốt cách truyền thống của
dân tộc đã là bí quyết làm nên sức mạnh của đất nước. Điều này được thể hiện
trong ý thức, phong cách quản lý, trong kết cấu tập đoàn và cách thức tổ chức đời
sống xã hội cũng như trong hoạt động kinh tế. Ở đây, những giá trị của Nho giáo
không chỉ được gieo mầm, nảy nở mà đã biến thành những đạo lý, luân lý tích cực
phục vụ cho sự nghiệp chấn hưng dân tộc cũng như rèn luyện đạo đức con người. Đặc
biệt tinh thần học tập, đức hy sinh…đã có tác dụng cực kỳ to lớn cho mỗi một cá
nhân cũng như công ty và đất nước.
Ngay từ khi mới lên cầm quyền
Minh Trị đã giương cao khẩu hiệu Fukoku kyohei (phú quốc, cường binh). Để thực
hiện thành công công cuộc hiện đại hoá đất nước, chính quyền không chỉ tiếp tục
giữ gìn những giá trị truyền thống của dân tộc và những tinh hoa văn minh Trung
Hoa đã thu nhận mà họ đã coi mở cửa học tập phương Tây như là điều kiện tiên
quyết để chấn hưng đất nước thời bấy giờ. Điều này được thực hiện bằng các quy
định pháp lý cụ thể và bằng các hình thức học tập phong phú đa dạng. Trong đó mở
cửa và khuyến khích công dân ra nước ngoài học tập là một chủ trương được coi
trọng. Điều này có thể nhận thấy rất rõ trong Bản quy ước có tính cách như Hiến
pháp tạm thời, theo đó tại Điều 5 quy định: “Trí thức được xuất dương du học để
xây dựng cho tiền đồ của dân tộc.” Rõ ràng, chính quyền đã nhận thức được rằng:
Nhật Bản đang kém xa các nước phương Tây và chỉ có học tập họ mới có cơ hội và
điều kiện để vươn lên. Vì vậy, việc chính quyền mới thành lập đã coi việc học
kinh nghiệm và tiếp thu công nghệ, cách thức tổ chức của xã hội phương Tây như
là phương thức cần thiết để hiện đại hoá đất nước và thực hiện điều đó bằng việc
chủ động mở cửa hội nhập quốc tế. Với quan điểm trên cho thấy, Nhật Bản đã chấp
nhận các yếu tố của văn minh phương Tây. Điều này có vẻ giống với cách thức mà
hơn một ngàn năm trước đó quốc đảo này học hỏi và tiếp nhận văn hoá Trung Quốc.
Điểm khác biệt chính là ở chỗ họ tiếp nhận chủ yếu bằng việc ý thức khá rõ điều
đó và được thực hiện một cách bài bản với quy mô và tốc độ nhanh hơn, thực tế
hơn. Chính phủ đã thực hiện chủ trương học tập phương Tây bằng hai cách thức chủ
yếu: gửi người ra nước ngoài đào tạo và thuê chuyên gia nước ngoài. Việc gửi
người sang các nước phương Tây cũng có sự lựa chọn khá kỹ về ngành nghề, nước
đào tạo. Mục tiêu chung là lựa chọn những nước, ngành học mà có thể về sử dụng
phục vụ trực tiếp cho công cuộc kiến thiết nước nhà. Trong lĩnh vực khoa học xã
hội nhân văn họ đã chọn Pháp để học về hành chính và luật, sang Mỹ, Đức học về
kinh doanh…Có thể thấy rõ điều đó qua việc Nhật Bản chọn hệ thống giáo dục Pháp
làm mô hình tham khảo. “Phỏng theo hệ thống giáo dục Pháp, cả nước chia thành 8
khu đại học, mỗi khu đại học chia thành 32 khu trung học, mỗi khu trung học lại
chia thành nhiều trường hay nhiều ban”([4]).
Hoặc Nhật Bản tham khảo và tìm kiếm nhằm xây dựng hệ thống luật pháp hiện đại
theo kiểu phương Tây. Trong đó đáng chú ý là Nhật đã lựa chọn mô hình Hiến pháp
Đức và mời các chuyên gia Pháp xây dựng luật dân sự theo kiểu Pháp và dĩ nhiên
đã có sửa đổi để phù hợp với xã hội Nhật Bản. Điều đáng chú ý là không chỉ có
các nhà nghiên cứu, các giáo sư được cử ra nước ngoài mà tham gia các chuyến
tham quan học tập đó còn có khá đông các nhà lãnh đạo hàng đầu đất nước. Từ năm
1871 đến 1873 đích thân Iwakura đã dẫn đầu một đoàn trong đó tới nửa là các nhà
lãnh đạo chóp bu ra nước ngoài, trước tiên là Mỹ sau đó là châu Âu”([5]).
Chính những chuyến đi khảo sát cùng với các nhà khoa học đã giúp những nhà lãnh
đạo hiểu biết xã hội phương Tây và cùng nhau thảo luận tìm kiếm mô hình
xây dựng xã hội mới phù hợp và hiệu quả. Để hiện thực hoá mục tiêu học tập
phương Tây, không chỉ cử người ra nước ngoài mà Nhật đã tích cực mời chuyên gia
bạn sang làm việc ở Nhật. Trong thời kỳ đầu tổng số giáo viên 214 người đông nhất
là người Anh với 149 người, Pháp có 50, Mỹ có 19, Trung Hoa có 9, Đức có 8…số
chi phí về lương bổng cho tổng số 214 người đó lúc đầu là 534.492 yên vài năm
sau lên đến 1 triệu yên chiếm một khoản lớn trong ngân sách giáo dục”([6]).
Tuy nhiên, người Nhật không hoàn toàn lệ thuộc vào đội ngũ chuyên gia mà họ đã
khẩn trương thay thế bằng chính người Nhật được đào tạo trong nước và từ nước
ngoài trở về. “Cho đến trước khi bước sang thế kỷ 20 số lượng người nước ngoài
làm việc trong chính phủ hay các trường của chính phủ còn rất ít, ngoại trừ
lĩnh vực giảng dạy các ngôn ngữ phương Tây”.([7])
Để học tập các tri thức khoa học
cũng như cung cấp thông tin cần thiết về phương Tây, Nhật Bản rất chú trọng dịch
và xuất bản các tài liệu nước ngoài. Các sách giáo khoa dùng trong nhà trường
phần lớn dịch của Mỹ. Tuy nhiên, không thể không kể đến những đóng góp nổi bật
của các nhà khoa học xã hội Nhật Bản trong lĩnh vực này. Trong đó Fukuzawa
Yukichi (Phúc-Trạch-Dụ-Cát) người được coi như một nhà tư tưởng, nhà cải cách lớn
của Nhật Bản cuối thời Edo, đầu thời Minh Trị. Từ năm 1860 ông đã hai lần tham
gia các đoàn khảo sát sang các nước phương Tây. Những chuyến đi nước ngoài của
ông cùng với tư tưởng cách tân đã đưa ông trở thành người “truyền bá tư tưởng tự
do bình đẳng, đề xướng dân quyền, xúc tiến “văn minh khai hoá”… người đi đầu
trong việc xây dựng một chế độ học tập, đào tạo nhân tài, mở mang trí và đức
cho nhân dân”…và cũng là người “có ảnh hưởng không nhỏ trong các trào lưu tư tưởng
của các nước phương Đông thời cận đại”…Trong đó có cả Việt Nam và nhất là với
những nhà chí sỹ yêu nước như Phan Bội Châu”([8]).
Không những là nhà tư tưởng cách
tân mà ông cũng là học giả uyên bác trong lĩnh vực KHXH. Fukuzawa Yukichi đã để
lại cho đời nhiều trước tác nổi tiếng với số lượng hàng vạn trang (ông đã viết
trên 100 đầu sách), trong đó tiêu biểu phải kể đến là Khuyến học (Gakumon no
susume), Khái lược luận thuyết về văn minh (Bunmerion no gairyaku), Seiyo Jijo
(Tình hình châu Âu), Phúc ông tự truyện (Fukuo Jiden)…([9]) .
Ông còn là người xây dựng nên Trường Khánh Ứng Đại học nổi tiếng cho đến tận
bây giờ. Ngoài Fukuzawa Yukichi còn có nhiều nhà trí thức nổi tiếng như Gia Đằng
Hoàng Chí (1836-1916), Cơ Tác Lân Tường (1846-1902)…đã là những chí sĩ
truyền bá tư tưởng tự do, khai trí văn minh cho Nhật Bản. Không chỉ học hỏi tiếp
thu tư tưởng, kỹ thuật mà chính sự hội nhập cũng tạo điều kiện để du nhập văn
hoá đại chúng của phương Tây vào Nhật Bản: từ phim ảnh, ca nhạc cho đến quán ăn
vũ trường và thể thao... Đáng chú ý là hàng vạn cuốn sách được dịch sang tiếng
Nhật và xuất bản rộng rãi với giá rẻ, trong đó có những tác phẩm nổi tiếng như:
The Spirit of Laws, Histore de La Revolution Francaise… Không chỉ có kiến thức
khoa học, văn học mà các tài liệu về tôn giáo tư tưởng cũng được truyền bá khá
rộng rãi: các triết học gia phương Tây Auguste Conte (Pháp), John Stuart
Mill (Anh), Hebert Spencer (Anh), Alexis Clerles de Tocqueville (Pháp), Francoi
Guizot (Pháp)…Chủ nghĩa Mác và tư tưởng XHCN cũng đã có chỗ đứng ở xã hội Nhật
Bản lúc bấy giờ và sau cách mạng tháng 10 Nga trong các phong trào của công
nhân lao động tư tưởng Mácxít đã chiếm ưu thế trong một thời gian khá dài. Hiện
nay, ở Nhật Bản ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác vẫn còn khá sâu rộng. Đặc biệt
trong lĩnh vực KHXH: phương pháp nghiên cứu, tư tưởng và các nguyên lý Mácxít vẫn
đựơc các nhà khoa học coi trọng, nhất là trong các bộ môn: kinh tế, xã hội học,
tâm lý…Các nhà KHXH Nhật Bản đã đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc mở cửa
và hội nhập của đất nước không chỉ ở thời kỳ ban đầu mà cả sau này, đúng như nhận
định: “Cái vĩ đại của thế giới trí thức Nhật Bản là nhận ra được lý do tiên quyết
để thực thi đưa nước Nhật thành một quốc gia giàu mạnh là phải xoá bỏ cho bằng
được lề thói cố hữu tư duy bằng những ý niệm trực giác của nhân dân Nhật Bản.
Và họ đã bền bỉ làm công việc này một cách có ý thức rõ rệt. Và họ đã làm được
điều đó. Nước Nhật ngày nay là một minh chứng hùng hồn.”([10])
2. Tiếp tục tìm kiếm học hỏi và vận
dụng những giá trị nhân loại trong bối cảnh mới
Khi nghiên cứu về mở cửa và hội
nhập thế giới của Nhật Bản, người ta khẳng định rằng, Nhật Bản đã không ít hơn
hai lần bước ra thế giới. Lần thứ nhất, đó là cải cách Minh Trị với chủ trương
mở cửa với phương Tây để thực hiện khẩu hiệu “nước giàu, quân đội mạnh”. Lần thứ
hai, khi Nhật Bản ký Hiệp ước hoà bình San Francisco năm 1951 với 48 nước đánh
dấu sự trở lại với thế giới của Nhật Bản. Lần đầu bước ra thế giới, Nhật Bản
không chỉ chủ trương “tinh thần Nhật Bản, kỹ thuật phương Tây” để thực
hiện chấn hưng đất nước mà còn với tư tưởng “thoát Á, nhập Âu”. Ở lần thứ
hai, Nhật Bản bước ra thế giới và đã làm được điêù kỳ diệu, đó là biến nước Nhật
từ đổ nát hoang tàn sau chiến tranh trở thành cường quốc của thế giới, trở về với
châu Á và thực hiện thành công chiến lược “nhập Á, nhập Âu”.
Để làm được điều đó, dĩ nhiên mở
cửa và hội nhập trở thành điều kiện tiên quyết. Tuy nhiên, khác với những lần
trước ở giai đoạn này sự hỗ trợ trực tiếp cho hội nhập càng trở nên thuận lợi
hơn, nhất là khi có sự hiện diện, kiểm soát và điều hành ban đầu của quân chiếm
đóng ( SCAP) do Mỹ đứng đầu. Dù vẫn còn không ít những tranh luận về vai trò của
SCAP, việc tái tạo Nhật Bản (Remaking Japan)…song, không thể không nói đến đóng
góp của đội quân này, nhất là việc dân chủ hoá ở Nhật Bản. “Việc dân chủ hoá đã
có tác động đáng kể và làm biến đổi xã hội Nhật Bản theo các đường lối nguyên tắc
dân chủ Mỹ. Như Cohen đã cho thấy, đó thực sự là một loại cách mạng”.([11]) Với
sự hướng dẫn và điều hành của Mỹ, kết thúc thời kỳ chiếm đóng nền kinh tế Nhật
Bản đã đạt được những kết quả khả quan tạo tiền đề quan trọng cho công cuộc kiến
thiết đất nước. Để tiếp tục đưa Nhật Bản hội nhập quốc tế đạt kết quả cao,
trong giới khoa học xã hội Nhật Bản đã dấy lên những cuộc tranh luận khá sôi nổi
xung quanh chủ đề này. Dù các ý kiến đều đồng tình với việc đẩy mạnh phát triển
các ngành công nghiệp nặng hơn công nghiệp nhẹ, song lại quan điểm lại khác
nhau về việc phát triển nguồn lực trong nước hay tập trung xuất khẩu những sản
phẩm tốt nhất của Nhật. “Đó là sự tranh luận về những nguyên tắc giữa những người
ủng hộ việc phát triển hướng nội và những người tìm kiếm sự giàu có cho quốc
gia từ thương mại”.([12]) Đánh
giá một cách khách quan những thành công của cải cách và tìm kiếm cách thức hội
nhập quốc tế đạt kết quả tốt là những nội dung được các nhà hoạch định chính
sách, giới kinh doanh và các nhà khoa học Nhật Bản đầu tư tìm tòi nghiên cứu
trong giai đoạn này. Trên cơ sở phân tích những nhân tố quốc tế thuận lợi lúc
đó, nhận thức được chính xác khoảng cách về trình độ công nghệ của Nhật Bản với
thế giới…họ đã đưa ra chủ trương: đẩy mạnh nhập khẩu công nghệ từ bên ngoài nhằm
nhanh chóng thu hẹp khoảng cách với thế giới. Đây được coi như là cứu cánh quan
trọng trong việc xây dựng các ngành kinh tế then chốt của đất nước và
cũng là cách thức để “đi tắt đón đầu” có hiệu quả. Cũng cần phải nhắc lại là
trước đó Nhật Bản bị cô lập về công nghệ và ít có thông tin về những tiến bộ của
công nghệ thế giới. Chủ trương nhập khẩu công nghệ tiên tiến cũng là phương thức
đẩy mạnh KHCN trong nước, phục vụ cho phát triển kinh tế trong điều kiện mở cửa
hội nhập. Cũng ở giai đoạn này tự do hoá thương mại cũng là nội dung được các
nhà khoa học tranh luận, nhất là sau năm 1949 khi Nhật Bản tái tham gia vào hoạt
động của kinh tế khu vực và thế giới và trở thành thành viên của Hiệp định
chung về Thuế Quan và Thương mại (GATT) và (Quỹ Tiền tệ thế giới). Chương trình
tự do hoá thương mại bắt đầu vào năm 1960 và là một trong giải pháp chủ yếu
để thực hiện “Kế hoạch tăng gấp đôi thu nhập quốc dân” mà Nội các của Thủ
tướng Ikeda Hayato đề xướng vào đầu năm 1960. Điều mà ai cũng biết là kế hoạch
đầy tham vọng này đã được thực hiện một cách thành công ngoài mong đợi và đã tạo
nên hiện tượng “thần kỳ” Nhật Bản. Thực tế, chỉ sau gần hai năm vào tháng
10-1962 chỉ tiêu tự do hoá thương mại đã được thực hiện trước thời hạn đề ra.
Những kết quả đạt được không chỉ cho thấy chủ trương hội nhập, tự do hoá là hết
sức đúng đắn mà đó còn là dấu hiệu để Nhật Bản có thể tin tưởng hơn vào
khả năng cạnh tranh của mình trên trường quốc tế. Đây cũng là cơ sở quan trọng
để Nhật Bản tiếp tục hội nhập sâu rộng hơn trên các lĩnh vực: tự do hoá vốn, tiền
tệ, quản lý, đào tạo…
Kết thúc thời kỳ tăng trưởng
nhanh, Nhật Bản đã đạt được những kỳ tích rực rỡ, nhất là trong kinh tế và cải
thiện đời sống. Giới khoa học xã hội Nhật Bản không chỉ tổng kết mổ xẻ những
nguyên nhân thành công mà còn chỉ ra những sự thay đổi của xã hội và nhất là những
khó khăn và thách thức ở phía trước. Lý giải về kỷ nguyên tăng trưởng các nhận
định đều cho rằng: những nỗ lực của “kỷ nguyên Minh Trị, hoặc thậm chí sớm hơn,
của những năm cuối của chế độ Tokugawa, rốt cuộc đã đơm hoa kết trái”.([13]) Thành
công đó còn do “những người đề xướng ra sự tăng trưởng nhanh là những người đổi
mới, cả lớn lẫn nhỏ, cạnh tranh lẫn nhau để áp dụng công nghệ mới, phát triển sản
phẩm mới, và thay đổi cách điều hành doanh nghiệp của mình. Các chính sách của
chính phủ đã hỗ trợ và đôi khi công khai giúp đỡ cho các nỗ lực này.”([14]) Kết
quả tăng trưởng cho thấy, Nhật Bản đã gạt bỏ được tính tự ti mặc cảm và có thể
sánh ngang với các nước phương Tây không chỉ trong phát triển kinh tế mà còn ở
các lĩnh vực khác nữa. Đầu những năm 1980 đến nay, Nhật Bản đã phải đối mặt với
nhiều vấn đề kinh tế nan giải và bài toán đặt ra là làm thế nào để duy trì sự
phát triển kinh tế đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng hơn? Thực tế đã và
đang đặt ra nhiều vấn đề mới đòi hỏi người dân Nhật Bản nói chung, giới KHXH
nói riêng tiếp tục nỗ lực để đưa đất nước đi lên. Trong đó “những trách nhiệm
toàn cầu của Nhật Bản với tư cách là một cường quốc kinh tế đã đè nặng hơn bao
giờ hết lên đôi vai của nó”([15]).
Vì thế, hội nhập mở cửa và tiếp thu những giá trị văn hoá mới của nhân loại vẫn
sẽ là chủ đề nóng hổi của Nhật Bản và cũng là nội dung quan tâm hàng đầu của
các nhà khoa học và các nhà lãnh đạo Nhật Bản hiện nay. Chắc chắn với những
kinh nghiệm dày dạn vốn có của mình, người Nhật Bản sẽ tìm kiếm được những cách
thức có hiệu quả đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong bối cảnh quốc tế
mới.
Có thể khẳng định rằng: Các nhà
lãnh đạo và khoa học tâm huyết của Nhật Bản đã đồng hành cùng với sự phát
triển của dân tộc và có nhiều đóng vào sự phồn vinh của quốc gia này. Tính thực
dụng, làm việc có hiệu quả cao của người Nhật nói chung, các nhà
khoa học nói riêng đã thể hiện rất rõ trong hoạt động nghiên cứu, tiếp thu các
giá trị nhân loại trong tiến trình mở cửa hội nhập quốc tế. Trong quá trình đó,
họ không chỉ tập trung làm rõ những nội dung thời sự cần thiết của đất nước, mà
còn nghiên cứu cả những vấn đề truyền thống và tương lai. Hơn thế nữa, đó cũng
chính là cơ hội để chính những người lãnh đạo, các nhà khoa học, giới doanh
nghiệp, kỹ trị và cả người dân tự đổi mới, chủ động mở cửa, hội nhập và nâng
cao năng lực của chính mình. Bằng sự nỗ lực không mệt mỏi của các nhà khoa học
đã cho ra đời những công trình khoa học nghiêm túc, có chất lượng đóng góp có
hiệu quả cho công cuộc hiện đại hoá đất nước. Trước đây cũng như hiện nay,
không chỉ nhiệm vụ của quốc gia đặt ra buộc Nhật Bản tìm tòi khám phá những vấn
đề cơ bản và cần thiết của đất nước mà còn phải tiếp tục bồi đắp những giá trị
của dân tộc bằng chính sự tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của nhân loại.
Kết luận
Có thể lấy kết luận của Giáo sư
Furuta Motoo thay cho lời nhận xét về sự cần thiết đầu tư nghiên cứu tiếp thu
các giá trị văn hoá của nhân loại trong bối cảnh mới: “xu hướng toàn cầu hoá
kinh tế đang phát triển tất yếu sẽ tạo ra một nền văn minh chung cho nhân loại,
nhưng đồng thời điều đó không có nghĩa là là các dân tộc phải gạt bỏ văn hoá đặc
sắc riêng của mình đang và sẽ mạnh lên.”([16]) Những
kinh nghiệm của Nhật Bản về mở cửa hội nhập, tiếp thu và phát huy các giá trị sẽ
là những bài học quý để chúng ta tham khảo, nhất là trong bối cảnh mới khi Việt
Nam đang tích cực tham gia vào dòng chảy chung của nhân loại trên tất cả các
lĩnh vực.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Arthur M.Whitehill, Quản
lý Nhật Bản: truyền thống và quá độ, TTNCNB, Hà Nội năm 1996.
2. Furuta Motoo: Giới
Khoa học xã hội Nhật Bản với đặc điểm xã hội Nhật Bản, T/C NCNB số 4 tháng
12 năm 1997.
3. Fukuzawa Yukichi Phúc
ông tự truyện, Nxb thế giới.
4. Edwin O.Reischauer, Nhật
Bản câu chuyện về một quốc gia, Nxb Thống kê, Hà Nội 1998.
5. GS Nakamura Takafura: Những
bài giảng về Lịch sử kinh tế Nhật Bản hiện đại, NxbCTQG, Hà Nội năm 1998.
6. Hoàng Đại Tuệ, Khảo
sát lịch sử quốc tế hoá của Nhật Bản, T/C NCNB số 4-1996
7. Iaxuhico Nacaxone, Chiến
lược quốc gia của Nhật Bản trong thế kỷ 21, Nxb Thống tấn, trang 346.
8. Nguyễn Quốc Hùng (chủ biên), Lịch
sử Nhật Bản, Nxb Thế giới, Hà nội năm 2007.
([1]) Nhật
Bản ngày nay, Hiệp hội Quốc tế về Thông tin giáo dục 1989, trang 5
([2]) Lê Đức
Niệm, Giao tiếp….. T/C NCNB Tháng 4-6/1995 trang 48.
([3]) Nguyễn
Quốc Hùng (chủ biên), Lịch sử Nhật Bản, Nxb Thế giới, Hà nội năm
2007, trang 234.
([4]) Vĩnh
Sính, Nhật Bản cận đại, trang 122.
([5]) Edwin
O.Reischauer, Nhật Bản câu chuyện về một quốc gia, Nxb Thống kê, Hà
Nội 1998.
([6]) Nguyễn
Ngọc Nghiệp: Nhật Bản học tập phương Tây thời Minh Trị, Tạp chí
NCNB và Đông Bắc Á, Số 2/4-2003, trang 59.
([7]) Edwin
O.Reischauer: Nhật Bản câu chuyện về một quốc gia, Sđd, trang
150-151.
([8]) Fukuzawa
Yukichi Phúc ông tự truyện, Nxb thế giới. Lời dẫn của GS Chương
Thâu trang 16-18
([9]) Như
trên trang 27-28
([10]) Nguyễn
Thạch Giang với sự cộng tác của Megumikudo, Những nhận xét rút ra
từ bộ Nhật Bản tư tưởng sử của Ishida Kazuyoshi, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản,
số 2-1999, trang 42.
([11]) GS
Nakamura Takafura, Những bài giảng về Lịch sử kinh tế Nhật Bản hiện đại,
NxbCTQG, Hà nội năm 1998, tr.212.
([12]) GS
Nakamura Takafura , Sđd, Tr. 253.
([13]) GS
Nakamura Takafura , Sđd, Tr. 373.
([14]) GS
Nakamura Takafura , Sđd, Tr. 373.
([15]) GS
Nakamura Takafura , Sđd, Tr. 450
([16]) Furuta
Motoo, Giới Khoa học xã hội Nhật Bản với đặc điểm xã hội Nhật Bản,
T/C Nghiên cứu Nhật Bản số 4 tháng 12 năm 1997, Tr.10
Nguồn: http://www.inas.gov.vn/461-nhat-ban-voi-viec-tiep-thu-cac-gia-tri-nhan-loai.html