Nguyễn Văn Vượng
Có thể thấy rằng, trước sức ép của
phương Tây thời cận đại, hầu hết các quốc gia châu á đều thi hành chính sách
đóng cửa, đồng thời tiến hành các cuộc cải cách, nhằm canh tân đất nước nhưng đều
thất bại, tiêu biểu là Trung Quốc và Việt Nam. Khi sức mạnh dân tộc không
đủ để cứu nước, giới trí thức thức thời nhận ra rằng muốn cứu nước thì phải
dùng một hệ tư tưởng mới. Trong khi đó, Nhật Bản duy tân cải cách thành công,
trở thành tấm gương cho các quốc gia Châu Á học tập. Một dòng di cư rất lớn hướng
tới quốc gia trẻ trung Nhật Bản mong muốn học tập với ước vọng "Phú quốc
cường binh", tiêu biểu là hai nước Trung Quốc và Việt Nam mà lịch sử gọi
là phong trào Đông du. Trong xu thế hội nhập, mở cửa đang được đặt lên hàng đầu
cho mỗi quốc gia, nghiên cứu phong trào Đông du Trung Quốc và Việt Nam thời cận
đại sẽ mang lại nhiều ý nghĩa thiết thực.
I. Vài nét về phong trào
đông du
1. Phong
trào Đông du Trung Quốc
Năm 1840 nổ ra cuộc chiến tranh
thuốc phiện giữa Trung Quốc với liên quân các nước Châu Âu do Anh đứng đầu. Đến
ngày 29/8/1842 "Hiệp ước Nam Kinh" được ký kết. Các nước đế quốc buộc
Trung Quốc mở 5 cảng khẩu từ Quảng Châu đến Thượng Hải(1).
Trung Quốc sau năm 1842 với hiệp ước Nam Kinh phải chấp nhận mở cửa, hay nói
cách khác là bị "buộc cổ kéo đi". Với thái độ cam chịu, bị động, bảo
thủ không nhận thức hết mình, đến ngay cả khát vọng của giai cấp phong kiến có
nhận thức “Sư Dương Di trường kỹ dĩ chế Di”(2)
cũng không làm được.
Cuộc đọ sức giữa Nhật Bản với
Trung Quốc Mãn Thanh trong chiến tranh Giáp Ngọ (1894 – 1895), Nhật Bản với chiến
thắng đó đã làm cho người Trung Quốc khâm phục. Với sức cuốn hút của Nhật Bản bằng
khẩu hiệu "Học phương Tây, đuổi kịp phương Tây, vượt phương Tây"(3),
người Trung Quốc đã ồ ạt sang Nhật Bản du học để mong muốn tự cường dân tộc,
noi gương Nhật Bản.
Phong trào Đông du Trung Quốc thời
cận đại kéo dài từ năm 1896 - 1911, số lượng người Trung Quốc yêu nước sang Nhật
Bản du học là rất đông, trong đó lưu học sinh Đông du chiếm số lượng đông nhất.
Tính riêng từ năm 1896 - 1911 đã có tới hàng vạn người Trung Quốc sang Nhật Bản(4).
Phong trào diễn ra với nội dung đa dạng, phong phú.
Đông du Trung Quốc là phong trào
yêu nước thời cận đại. Tác động đến bước phát triển của phong trào yêu nước, cuối
thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Củng cố tinh thần ái quốc, đấu tranh chống đế quốc
- phong kiến, tạo nên nhiều phong trào vận động chính trị, xã hội, văn hóa sôi
nổi khắp đất nước Trung Hoa.Việc đưa thanh niên sang Nhật Bản để học tập là nền
tảng để duy tân, đổi mới đất nước, tạo điều kiện cho Trung Quốc nhanh chóng tiếp
cận với khoa học kỹ thuật phương Tây và trào lưu của thời đại. Thông qua phong
trào Đông du, nền kinh tế Tư bản chủ nghĩa một phần được du nhập vào Trung Quốc,
kích thích cho sự phát triển chủ nghĩa Tư bản ở Trung Quốc. Phong trào Đông du
Trung Quốc cắm mốc cho thời kỳ Trung Quốc mở rộng hoạt động ra bên ngoài, là thời
kỳ vận động cách mạng ở hải ngoại, là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn
đến cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911. Trung Quốc có mối giao lưu, quan hệ mật
thiết với các nước Châu Á như ấn Độ, Philippin, Việt Nam, Triều Tiên… Đồng thời,
Đông du Trung Quốc là một “hiện tượng lịch sử đảo chiều trong quan hệ giao lưu
văn hoá Trung – Nhật thời cận đại”(5).
2. Phong trào Đông du Việt Nam
Cũng như phong trào Đông du Trung
Quốc(6),
phong trào Đông du Việt Nam cho tới nay cũng có nhiều quan điểm khác nhau tranh
luận về thời gian bắt đầu và kết thúc. Có quan điểm cho rằng, phong trào Đông
du thời gian được tính từ tháng 2/1905 khi Phan Bội Châu, Tăng Bạt Hổ, Đặng Tử
Kính lên đường sang Nhật(7).
Một số ý kiến nhận định phong trào Đông du Việt Nam chỉ được bắt đầu khi Phan Bội
Châu đưa lớp thanh niên Việt Nam đầu tiên sang Nhật học vào khoảng tháng
6/1905. Có nhà nghiên cứu lại chia phong trào Đông du làm hai giai đoạn là
"Đông du cầu viện quân sự" và "Đông du cầu học"(8).
Về thời điểm kết thúc phong trào
Đông du Việt Nam, xuất hiện hai quan điểm khác nhau: Quan điểm cho rằng: phong
trào Đông du Việt Nam kết thúc vào tháng 10 - 1908 khi Phan Bội Châu bị trục xuất
khỏi Nhật Bản do chính phủ Nhật bắt tay với Pháp, ký hiệp ước vào năm 1907(9).
Còn theo Shiraishi Masaya với những tài liệu tương đối phong phú và đa dạng bằng
tiếng Việt, tiếng Trung, tiếng Pháp, tiếng Nhật, ông đã chỉ ra rằng, phong trào
Đông du Việt Nam kết thúc vào năm 1909, đánh dấu bằng việc "Bộ Nội Vụ và Sở
cảnh sát bắt đầu theo dõi các sinh viên Việt Nam tại Tokyo là đầu năm 1909, chứ
không phải là mùa thu 1908"(10).
Theo quan điểm của chúng tôi,
chúng tôi đồng ý với ý kiến lấy mốc tháng 2/1905 là thời điểm bắt đầu của phong
trào Đông du Việt Nam. Còn về thời điểm kết thúc của phong trào, chúng tôi
nghiêng về ý kiến là năm 1909, bởi vì đây là mốc được nhiều người chấp nhận,
cũng là một quan điểm mới, hơn nữa chúng tôi tin tưởng vào những nghiên cứu của
Shiraishi với những nguồn tài liệu phong phú ở nước ngoài.
Phong trào Đông du Việt Nam diễn
ra từ năm 1905 - 1909 đã lôi kéo được khoảng 200 lưu học sinh Việt Nam sang Nhật,
trong đó học sinh Nam kỳ hơn 100, học sinh Trung kỳ ước 50, học sinh Bắc kỳ ước
40 người(11).
Phong trào Đông du Việt Nam thực
chất là phong trào yêu nước, phong trào chính trị, một hiện tượng lịch sử mong
muốn bắt nhịp theo triền sóng của thời đại, thể hiện một nhận thức đúng quy luật
lịch sử. Phong trào Đông du là một trường học đào tạo và rèn luyện các mạng cho
thanh niên Việt Nam ở Nhật Bản đầu thế kỷ XX. Riêng Phan Bội Châu, người trực
tiếp lãnh đạo và tổ chức phong trào được tôn là “nhà cách mạng có tư tưởng canh
tân lớn nhất của Việt Nam đầu thế kỷ XX”(12).
Với những hoạt động của cụ và phong trào Đông du, đã để lại nhiều bài học kinh
nghiệm cho phong trào cách mạng Việt Nam những năm tiếp theo.
II. Một số điểm tương đồng và dị
biệt cơ bản của phong trào Đông du Trung Quốc và Việt Nam
1. Một số điểm
tương đồng
1.1. Về thời điểm lịch sử
Phong trào Đông du Trung Quốc và
Việt Nam diễn ra vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, khi hầu hết các cuộc đấu
tranh của cả hai dân tộc đều thất bại.
ở Trung Quốc, sau khi các nước tư
bản mở cửa vào năm 1840 bằng cuộc chiến tranh Nha phiến thì phong trào đấu
tranh yêu nước cũng bắt đầu. Phong trào Thái Bình Thiên Quốc thất bại, đánh dấu
sự thất bại của phong trào cứu nước theo đường lối của giai cấp nông dân, phong
trào Dương Vụ thất bại đánh dấu sự thất bại của con đường cứu nước theo tư tưởng
phong kiến, chính biến Mậu Tuất cũng bị đàn áp. Các nước đế quốc âm mưu chia cắt
Trung Quốc, nguy cơ Trung Quốc trở thành một nước phụ thuộc.
ở Việt Nam, sau hiệp ước 1862,
1874, 1883, 1884, Việt Nam dần dần trở thành một nước thuộc địa. Phong trào đấu
tranh của nhân dân Việt Nam cũng lần lượt thất bại.
Vậy là, cuối thế kỷ XIX - đầu thế
kỷ XX cả Việt Nam và Trung Quốc đều đặt ra câu hỏi lịch sử là phải có một đường
lối cứu nước mới, tư tưởng mới. Phong trào Đông du diễn ra khi nguy cơ dân tộc
đang đến gần mà những người yêu nước đã sớm nhận ra. Phong trào Đông du Trung
Quốc, Việt Nam như một hiện tượng lịch sử xã hội vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế
kỷ XX, phản ánh nhu cầu cận đại hoá của các quốc gia Châu Á, cũng là câu trả lời
của lịch sử khi phong trào cách mạng trong nước bế tắc.
1.2. Phong trào Đông du Trung Quốc,
Việt Nam đều chọn điểm đến là Nhật Bản
Các nhà chính khách của cả hai nước
đã đều tìm đến Nhật Bản để cầu viện trợ, cầu học, và một thời, họ đã gặp nhau tại
Tokyo, tạo nên một cộng đồng những người “đồng bệnh” ở Châu Á. Tại đây, quan hệ
cách mạng giữa Việt Nam, Trung Quốc và các nước châu á trở nên gắn bó, thắm
tình hữu nghị.
Công cuộc Duy Tân Nhật Bản đã hấp
dẫn những nhân vật trí thức có uy tín, các nhà cải cách, tầng lớp thanh niên mà
còn có sức hút lôi kéo cả thành phần rất đông đảo những người làm kinh tế đến
Nhật để học, để kinh doanh quản lý. Trong "nhật ký Đông du", được trực
tiếp chứng kiến đất nước Nhật Bản Duy Tân, Hoàng Khánh Trừng với tư cách là một
nhà kinh tế đã có nhận xét: "Nhật Bản sau Duy Tân đã thực hiện hiện đại
hóa. Học theo phương Tây: Cải chế, Tân chính, có quyết tâm, có nhiệt huyết cháy
bỏng. Phải có tinh thần quyết tâm đi tới mới Duy Tân thành công. Nếu bảo thủ do
dự nhất định bị thất bại"(13).
Theo Phan Bội Châu, Trung Quốc là
"nước già nua, họ cứu mình không xong, sức đâu mà cứu thiên hạ, chỉ có Nhật
Bản là giống da vàng, lại là nước tiên tiến"(14),
và ông khẳng định sang Nhật Bản là hơn cả. Trong lá thư gửi cho chính khách Nhật
Bản là Bá tước Ô Kuma Shigenobu tháng 6 - 1905, Phan Bội Châu đã coi Nhật Bản
là một cường quốc lớn trên thế giới. "Châu á là một châu lục lớn nhất
trong năm châu, đế quốc Nhật Bản là người đứng đầu ở châu á”, đặc biệt ông rất
tin tưởng ở Nhật vì một nước đồng chủng, đồng văn. Chính vì vậy ông tin tưởng
"Nhật Bản không thể thờ ơ ngồi nhìn các nước Đông Á như Miến Điện, Việt
Nam bị Pháp tuỳ ý xâm đạt được"(15).
Theo chúng tôi thì Phan Bội Châu đã biết được tương lai của Nhật Bản sẽ trở
thành một nước bá chủ Châu á và ý đồ bành trướng của Nhật Bản trước khi sang Nhật
Bản. Mục đích của Phan Bội Châu là "Nhật Bản sẽ bá chủ Châu á", vậy
thì họ giúp ta để trước bớt khí lực của Châu Âu cũng có lợi cho họ vậy"(16).
Ban đầu, phong trào cách mạng Việt
Nam ít có quan hệ với các bên ngoài. Mối quan hệ chính thức khi cả Việt Nam và
Trung Quốc gặp nhau trên đất Nhật Bản. Ngay trên mảnh đất này, Phan Bội Châu và
các đồng chí của ông đã có mối quan hệ giao lưu với Lương Khải Siêu, Tôn Trung
Sơn… Chính Phan Bội Châu cũng đã thừa nhận rằng "tôi vì ăn ở với người
Trung Quốc đã quá lâu ngày, nên khiến cho tôi tưởng tôi cũng ngấm ngầm xoay về
dân chủ"(17).
Cũng ngay trên đất Nhật, Phan Bội Châu đã trở thành một trong những thành viên
sáng lập và tham gia hoạt động tích cực ở hai tổ chức "Đông á Đồng Văn Hội"
và "Điền - Quế - Việt liên minh".
1.3. Phong trào Đông du Trung Quốc,
Việt Nam thực chất đều là phong trào yêu nước, những bộ phận lãnh đạo và tham
gia phong trào này đều là những người trí thức, tiên tiến của xã hội, đã lãnh đạo
một bộ phận đông đảo thanh niên trong xã hội tham gia hưởng ứng. Những người
trí thức Việt Nam, Trung Quốc đều nhận thấy rằng, muốn đánh được tư bản thì phải
học tập phương Tây. Việt Nam vốn có truyền thống chống ngoại xâm, Việt Nam luôn
học kẻ thù để chống lại kẻ thù. Đối với người Trung Quốc, họ cũng nhận thấy sự
thua kém của mình. Theo họ thì không có lực lượng nào quan trọng hơn là lớp
thanh niên. Đây là động lực chính của xã hội cần phải rèn luyện và xây đắp.
2. Một số điểm dị biệt
2.1. Phong trào Đông du Trung Quốc,
Việt Nam khác nhau về tính công khai hay mặt bí mật của từng nước. Điều này ảnh
hưởng rất lớn đến kết quả của phong trào Đông du hai nước
Đối với phong trào Đông du Trung
Quốc, vào thời điểm lúc bấy giờ, người Trung Quốc được tự do đi ra nước ngoài,
thanh niên đi du học rất thuận tiện. Ngoài ra, chính quyền nhà Thanh đã tài trợ
cho rất nhiều thanh niên đi du học, vì vậy phong trào Đông du phát triển mạnh mẽ
và lâu dài. Chính phủ hai nước Nhật - Trung cũng đã ký hiệp ước về vấn đề này,
học sinh Trung Quốc được hỗ trợ, ủng hộ hiệt tình từ phía Nhật Bản. Phong trào
Đông du Trung Quốc nhận được sự giúp đỡ của Nhật Bản trên cương vị quốc gia,
nhà nước.
Phong trào Đông du Việt Nam tiến
hành trong hoàn cảnh bí mật, nguồn tài chính rất khó khăn. Nhiều học sinh Việt
Nam đã phải cải trang để được vào học. Mặt khác cũng cần thấy rằng, sự giúp đỡ
từ phía Nhật Bản đối với Việt Nam chủ yếu dựa trên cương vị cá nhân. Vì vậy khi
thực dân Pháp biết được và cấu kết với Nhật Bản thì phong trào nhanh chóng thất
bại: Pháp đồng ý cho Nhật Bản vào buôn bán ở Việt Nam, còn Nhật thì cam đoan
không cho các nhà yêu nước Việt Nam trú ngụ và hoạt động trên đất Nhật(18).
2.2. Phong trào Đông du Trung Quốc,
về thời gian, qui mô và số lượng, tính chất đa dạng phong phú hơn Việt Nam rất
nhiều
Phong trào Đông du Việt Nam muộn
hơn phong trào Đông du Trung Quốc, thời gian lại ngắn hơn.
Về nội dung, phong trào Đông du
Trung Quốc diễn ra ở hầu hết các mặt của đời sống xã hội như chính trị, văn
hoá, xã hội, kinh tế, quân sự… còn phong trào Đông du Việt Nam theo chúng tôi,
kể từ khi sang Nhật Bản đến khi về nước thì Phan Bội Châu vẫn trung thành với một
mục đích lớn nhất là cầu viện về quân sự. Mục tiêu ban đầu của Đông du Việt Nam
gần giống với phong trào Dương vụ của Trung Quốc trước đó. Phong trào Dương vụ
Trung Quốc phủ nhận tất cả, mà chỉ chú trọng về khoa học - kỹ thuật - quân sự của
phương Tây. Mục tiêu ban đầu của phong trào Đông du Việt Nam là cầu viện về
quân sự, nhưng ngay cả đến khi đưa thanh niên sang du học thì ý tưởng học thiên
về quân sự vẫn là tư tưởng chủ đạo trong Phan Bội Châu: "Các nhà học đường
tư lập, chương trình thủ tục không thể nào bằng trường học công, không có khoa
luyện tập quân sự tức là trái với mục đích cầu học của bọn ta"(19).
Nhiệm vụ trước mắt của phong trào
Đông du hai nước cũng khác nhau. Trung Quốc học tập Nhật Bản để duy trì đất nước.
Việt Nam Đông du là nhằm giành quyền tự chủ, độc lập dân tộc.
2.3. Sự khác nhau về tư tưởng giữa
Phan Bội Châu và Lương Khải Siêu
Có thể thấy rằng, Phan Bội Châu
đã bị ảnh hưởng rất lớn bởi tư tưởng cách mạng của Lương Khải Siêu và Tôn Trung
Sơn. Tuy nhiên Phan Bội Châu vẫn có những suy nghĩ độc lập. Sự khác nhau về tư
tưởng giữa Phan Bội Châu và các nhà cách mạng Trung Quốc đã được nhiều người
bàn tới, ở đây xin đề cập đến các cuộc tiếp xúc giữa Phan Bội Châu với
Lương Khải Siêu và Tôn Trung Sơn để thấy sự khác nhau về vấn đề đoàn kết và vấn
đề dân tộc.
Cả Lương Khải Siêu và Tôn Trung
Sơn trong các cuộc tiếp xúc với Phan đều có ý định khuyên Phan Bội Châu nên
liên kết với cách mạng Trung Quốc trước, sau khi cách mạng Trung Quốc thắng lợi
thì quay trở lại ủng hộ cho cách mạng Việt Nam. Nhưng Phan Bội Châu kiên quyết
vì mục tiêu độc lập, chống Pháp.
Trong cuộc tiếp xúc với Phan Bội
Châu, Lương Khải Siêu đã khuyên Phan Bội Châu nên: "Nằm gai nếm đắng, chứa
giận thời cơ, một mai nước tôi mạnh hùng, tất phải đối ngoại tuyên chiến mà tiếng
súng phát lần thứ nhất, tất nhiên là đối với Pháp, bởi vì quý quốc liên tiếp với
nước tôi"(20):
Phan Bội Châu tiếp thu ý kiến của Lương Khải Siêu, nhưng mục đích sang Nhật của
ông và các đồng chí không phải là nằm chờ đợi thời cơ mà phải hành động để tự cứu
mình. Phan Bội Châu đã phải thốt lên rằng: “nằm yên để làm gì, đợi thời cơ đến
thủa nào”(21).
Trong cuộc tiếp xúc giữa Tôn
Trung Sơn và Phan Bội Châu, Tôn Trung Sơn cũng khuyên Phan Bội Châu nên lấy Đảng
nhân Việt Nam gia nhập Trung Quốc cách mạng đảng. Hễ đến lúc Trung Quốc cách mạng
Đảng thành công, thì đem toàn lực kéo dắt hết các nước bị đô hộ ở Châu Á đồng
thời được độc lập, mà bước thứ nhất là viện trợ cho Việt Nam. Nhưng Phan Bội
Châu lại cho rằng: Ông thừa nhận Dân chủ cộng hoà là hoàn mỹ mà chủ ý lại muốn
Trung Quốc cách mạng Đảng, trước trợ giúp cho Việt Nam, lúc Việt Nam độc lập rồi,
thì xin lấy Bắc Kỳ cho Đảng cách mạng Trung Quốc làm căn cứ địa, sẽ tiến thẳng
vào Lưỡng Quảng mà lấy Trung Nguyên. Hai người hẹn nhau lần sau gặp mặt, nhưng
cuộc gặp lần thứ hai cũng không có kết quả.
Về vấn đề dân tộc giữa Phan Bội
Châu và Lương Khải Siêu cũng có điểm khác nhau.
Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu
thì không hề bàn đến dân tộc. Tôn chỉ của các ông là "Mãn Hán bất phân,
quân dân đại đồng". Xuất phát từ tư tưởng đó, các ông chủ trương bảo vệ chủng
tộc, liên hiệp các dân tộc da vàng chống sự xâm lược của người da trắng, đối nội
thì mưu đồ liên hiệp hai dân tộc Mãn - Hán. Ai cũng biết chế độ Mãn Thanh là chế
độ thống trị của một dị tộc, cũng như nhà Kim, nhà Nguyên trước kia. Muốn thức
tỉnh tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc, đáng lý phải hô hào "bài
Mãn", là kẻ đã thống trị Trung Quốc trên ba thế kỷ nay, và đang là trở ngại
lớn trên con đường tiến bộ. Quân dân đồng trị tức là chủ trương quân chủ lập hiến,
tức là "bảo Mãn" - bảo vệ sự tồn tại của Mãn Thanh.
ở Việt Nam khác hẳn, các tư tưởng
duy tân của Trung Quốc nhập vào Việt Nam thì liền chứa một nội dung cách mạng.
Đối tượng của cuộc đấu tranh là thực dân Pháp và Nam Triều, lực lượng cách mạng
là toàn thể nhân dân. Phan Bội Châu đưa vấn đề dân tộc lên hàng đầu, xác định
đúng kẻ thù của dân tộc là thực dân Pháp, Ông chủ trương là "tìm mọi cách
giành độc lập về tay nước Nam"(22).
2.4. Về công tác tuyên truyền, cổ
động cho phong trào Đông du
Trong phong trào cổ động thanh niên
du học, các nhà Duy tân Trung Quốc thiên về lý thuyết, có khi thiên về tư biện,
đi sâu vào những vấn đề rất trừu tượng, như thuyết "Đại đồng" của
Khang Hữu Vi, thuyết "nhân học" của Đàm Tự Đồng. Hoặc đi sâu vào các
vấn đề rất cụ thể về chính trị hay kinh tế: các loại hiến pháp, tiền tệ, quốc
trái, ngoại quốc đầu tư,… ở trong các bài chích luận của Lương Khải Siêu. Khi
muốn khích động lòng yêu nước và cổ vũ phong tào du học, họ nói những điều
chung chung như: "Ưu thắng liệt bại", "cạnh tranh sinh tồn"…
Khi muốn nêu gương nhân vật yêu nước, họ chọn những nhân vật rất xa xôi như
Gian đa, Pie đại đế, Oasintơn, Napoleong… mà ít chọn những nhân vật Trung Quốc
đã từng chống xâm lăng, chống đế quốc Anh, Pháp, Nhật, Nga… Nếu có chọn nhân vật
Trung Quốc thì họ chọn những nhân vật từng đem quân đi xâm lược nước ngoài như
Trương Bá Vọng, Ban Đĩnh Viễn…
Các nhà Đông du Việt Nam ít bàn về
lý luận, các cụ thiên về chuyện trước mắt là kêu gọi lòng yêu nước chống Pháp.
Nhấn mạnh nỗi tủi nhục của nhân dân trước thảm hoạ diệt vong. Tiêu biểu là Việt
Nam vong quốc sử, Việt Nam quốc sử khảo, Khuyến quốc dân tư trợ học văn,
Ai Việt điếu điền, Hải ngoại Huyết lệ tài thư, Lưu cầu huyết lệ tân thư, Việt
Nam nghĩa liệt sử… bằng những lời lẽ thống thiết, hướng tới quần chúng, đặc biệt
là thế hệ trẻ.
Trong việc chọn lựa thanh niên, với
phong trào Đông du Việt Nam, tiêu chuẩn lựa chọn xuất dương không chỉ là
"thông minh, hiếu học" mà còn phải "chịu gian khổ, quen khó nhọc,
quyết gan bền chí, không bao giờ thay đổi", "nhẫn khổ nại lao"
hoặc là "cừu gia đệ tử", nghĩa là con em những nhà bị Pháp sát hại.
Còn thanh niên Trung Quốc được cử đi học Nhật Bản lại chủ yếu là con nhà giàu,
hoặc con em tầng lớp quan lại địa chủ.
Tóm lại, Đông du Trung Quốc, Việt
Nam là một phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Thực chất của
phong trào Đông du Trung Quốc và Việt Nam là khát vọng chuyển mình hội lưu thời
đại. Dưới sự ảnh hưởng của Nhật Bản và Trung Quốc, xuất phát từ nhu cầu nội tại
trong xã hội, phong trào Đông du Việt Nam tạo nên một cuộc vận động cách mạng lớn
đầu thế kỷ XX. Tuy thất bại, nhưng phong trào Đông du Việt Nam đã trở thành một
tiếng chuông thức tỉnh dân tộc trước nguy cơ ngoại bang, đánh dấu mốc mở rộng
quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Thông qua phong trào
Đông du Trung Quốc và Việt Nam, ta rút ra được một số điểm tương đồng và dị biệt
của phong trào Đông du hai nước. Những điểm tương đồng xuất phát từ nhu cầu tất
yếu của hoàn cảnh lịch sử Châu Á thời cận đại. Những điểm dị biệt phụ thuộc vào
điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi nước. Tuy có sự khác biệt, nhưng ngay trên mảnh
đất Nhật Bản, mối quan hệ thắm thiết, nhuộm đẫm tình cảm hữu nghị giữa hai nước
Việt - Trung cũng như Việt Nam - Nhật Bản - Trung Quốc và Châu Á.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cung Thư Đạc, Phương Du
Hàm (1993), Trung Quốc cận đại sử cương, Nxb Đại học Bắc Kinh.
2. Đặng Tiểu Bình (1984), Xây
dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, Nxb Nhân dân.
3. Vĩnh Sính (1990), Nhật
Bản cận đại, Nxb Văn hoá tùng thư.
4. Nguyễn Văn Hồng (2006), "Đông
du Trung Quốc - Việt Nam" một hiện tượng lịch sử khu vực thời cận đại,Tạp
chí Nghiên cứu Trung Quốc (số 1).
6. Nguyễn Văn Vượng (2008), Các
ngả đường của phong trào Đông du Trung Quốc thời cận đại, Tạp chí
Nghiên cứu Trung quốc (số5).
7. Đinh Xuân Lâm (chủ biên) (2003),
Đại cương lịch sử Việt Nam, t2, Nxb Giáo dục.
8. Chương Thâu (2005), Phan
Bội Châu và sự lựa chọn con đường Đông du, trích “Việt Nam - 100 năm phong trào
Đông du và hợp tác Việt - Nhật để bảo tồn và phát triển di sản văn hóa Huế”, Huế.
10. Shiraishi Masaya (2000), Phong
trào dân tộc Việt Nam và quan hệ của nó với Nhật Bản và Châu Á. Tư tưởng của
Phan Bội Châu về cách mạng và thế giới, t1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Phan Bội Châu, Toàn tập (2000),
t6, Niên Biểu, Nxb Thuận Hóa Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
13. Hoàng Khánh Trừng, Đông
du Nhật ký, Theo Vương Hiểu Thu (1987), Cận đại Trung - Nhật khởi thị lục, Bắc
Kinh.
14. Tài liệu lưu trữ tại Viện Sử liệu
ngoại giao, Bộ ngoại giao Nhật Bản, dẫn theo Nguyễn Trọng Vận, Nhật Bản trong
nhận thức của Phan Bội Châu, trích Việt Nam - 100 năm phong trào Đông du…, Sđd.
(1) Cung
Thư Đạc, Phương Du Hàm (1993), Trung Quốc cận đại sử cương,
Nxb Đại học Bắc Kinh, tr.25.
(2) Đặng
Tiểu Bình (1984), Xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc,
Nxb Nhân dân, tr.54,67.
(3) Vĩnh
Sính(1990), Nhật Bản cận đại, Nxb Văn hoá tùng thư, tr 109.
(4) Nguyễn
Văn Hồng (2006), "Đông du Trung Quốc - Việt Nam" một hiện tượng lịch
sử khu vực thời cận đại, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc (số 1), tr 41.
(5)Nguyễn
Văn Hồng (2006), "Đông du Trung Quốc - Việt Nam" một hiện tượng lịch
sử khu vực thời cận đại, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc (số 1), tr 39.
(6) Xem
thêm Nguyễn Văn Vượng (2008), Các ngả đường của phong trào Đông
du Trung Quốc thời cận đại, Tạp chí nghiên cứu Trung quốc, (số5), tr
71 – 80.
(7) Đinh
Xuân Lâm (chủ biên) (2003), Đại cương lịch sử Việt Nam, t2,
Nxb Giáo dục, tr 137.
(8) Chương
Thâu (2005), Phan Bội Châu và sự lựa chọn con đường Đông
du, trích “Việt Nam - 100 năm phong trào Đông du và hợp tác Việt - Nhật để
bảo tồn và phát triển di sản văn hóa Huế”, Huế, tr 34.
(9) Đinh
Xuân Lâm (chủ biên) (2003), Đại cương lịch sử Việt Nam, t2,
Sđd, tr 146.
(10) Shiraishi
Masaya (2000), Phong trào dân tộc Việt Nam và quan hệ của nó với Nhật Bản
và Châu Á. Tư tưởng của Phan Bội Châu về cách mạng và thế giới, t1, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 44.
(11) Phan
Bội Châu, Toàn tập (2000), t6, Niên Biểu, Nxb Thuận Hóa Trung
tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, tr 146.
(12) Chương
Thâu (2005), Phan Bội Châu và sự lựa chọn con đường Đông
du, trích “Việt Nam - 100 năm phong trào Đông du và hợp tác Việt - Nhật ở bảo
tồn và phát triển di sản văn hóa Huế”, Huế, tr 38.
(13)Hoàng
Khánh Trừng, Đông du Nhật ký, Theo Vương Hiểu Thu (1987), Cận đại
Trung - Nhật khởi thị lục, Bắc Kinh, tr 237 – 238.
(14)Tài
liệu lưu trữ tại Viện Sử liệu ngoại giao, Bộ ngoại giao Nhật Bản, dẫn theo Nguyễn
Trọng Vận, Nhật Bản trong nhận thức của Phan Bội Châu, trích Việt
Nam - 100 năm phong trào Đông du…, Sđd, tr 40.
(15) Phan
Bội Châu, Toàn tập (2000), t6, Sđd, tr 28.
(16) Phan
Bội Châu, Toàn tập (2000), t6, Sđd, tr 116.
(17) Phan
Bội Châu, Toàn tập (2000), t6, Sđd, tr 169.
(18) Phong
trào Đông du và Phan Bội Châu (Kỷ yếu hội thảo khoa học), (2005),
Nxb Nghệ An, tr 12.
(19) Phan
Bội Châu, Toàn tập (2000), t6, Sđd, tr 176.
(20) Phan
Bội Châu, Toàn tập (2000), t6, Sđd, tr 35.
(21) Phan
Bội Châu, Toàn tập (2000), t1, Tự Ngữ, Sđd, tr 152.
(22) Phan
Bội Châu, Toàn tập (2000), t6, Sđd, tr 35.
Nguồn:http://www.inas.gov.vn/583-mot-vai-diem-tuong-dong-va-di-biet-cua-phong-trao-dong-du-trung-quoc-va-viet-nam-thoi-can-dai.html