Nông Duy Trường
Làn sóng dân
chủ đang dâng lên trên toàn thế giới. Từ năm 1972 đến nay, khi Freedom House bắt
đầu theo dõi tiến trình dân chủ hóa trên toàn thế giới, các nước trên thế giới
đã tiến một bước dài về dân chủ. Năm 1972 cả thế giới có 150 nước, trong tổng số
này chỉ có 43 nước có tự do, 38 nước có một phần tự do, và còn lại 69 nước hoàn
toàn không có tự do. Đến năm 2002, tổng số nước trên thế giới lên đến 192 nước,
và được xếp hạng như sau: 89 nước có tự do, 56 nước có một phần tự do, và chỉ
còn 47 nước không có tự do, trong đó có Việt Nam của chúng ta.[1] Những con số thống kê cho thấy một
hình ảnh thật lạc quan, chỉ trong vòng ba mươi năm con số các nước có tự do đã
tăng hơn gấp đôi (so với 2000 năm trước đó khi con người chuyển từ phong kiến,
quân chủ sang dân chủ vào thế kỷ 17),[2] nhưng cũng theo cách xếp hạng của
Freedom House, vẫn có 56 nước chỉ có một phần tự do, và trong thập niên cuối của
thế kỷ 20, hiện tượng dân-chủ-phi-tự-do vẫn là một hiện tượng phổ biến tại một
số nước đang trên đà dân chủ hóa. Đó là lý do tại sao theo cách xếp hạng của
Freedom House, không phải cứ hễ có một hệ thống chính trị "dân chủ"
bao gồm một hiến pháp và các định chế chính trị-hành pháp, lập pháp, và tư
pháp-là có dân chủ!
Tiến trình
dân chủ hóa là một tiến trình phức tạp, bao gồm sự hội tụ của nhiều yếu tố xã hội,
chính trị, kinh tế, giáo dục, vân vân, nhưng xét cho cùng, yếu tố quan trọng nhất,
và căn bản nhất của tiến trình dân chủ hóa tại bất kỳ một quốc gia nào cũng vẫn
là yếu tố con người. Nếu mẫu người sĩ phu là nền tảng của xã hội phong kiến,
thì xã hội dân chủ phải có mẫu người dân chủ. Tuy nhiên, con người dân chủ chỉ
có thể trưởng thành trong một xã hội tương hợp, đó là xã hội dân sự (civil
society). Bài viết dưới đây sẽ phân tích mối tương quan giữa con người dân chủ
và xã hội dân sự để cho thấy quan hệ hỗ tương giữa con người dân chủ và xã hội
dân sự chính là chất xi-măng xây dựng nền móng cho một chế độ dân chủ, tự do,
nhất là tại một nước như Việt Nam của chúng ta.
Con Người
Dân Chủ
Hơn một trăm
năm trước, nhà cách mạng Phan Chu Trinh đã nhận thức rằng ngoài việc đấu tranh
giành độc lập cho đất nước, Việt Nam cần phải được dân chủ hóa thì mới có thể
tìm được một chỗ đứng trên trường quốc tế. Chương trình hành động của ông có thể
được tóm tắt như sau: "Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh."[3] Tại
sao Phan Chu Trinh lại chủ trương phải khai dân trí trước? Con người Việt Nam của
thời đại Phan Chu Trinh sống dưới thời phong kiến, được giáo dục và hun đúc
trong khuôn khổ Tống Nho, với các thứ bậc và giai cấp xã hội được tập đại thành
cả hàng nghìn năm, với quyền uy tuyệt đối của vua, với "dân chi phụ mẫu"
của quan lại, nên đã quen với hệ thống tư tưởng và xã hội phong kiến, và chấp
nhận một cách tự nhiên những tương quan xã hội này. Việc nước là việc của sĩ đại
phu, không phải việc của nhân dân lo đến. Do đó, khai dân trí không chỉ đơn thuần
là nâng cao trình độ học vấn và kiến thức, khai dân trí còn là nâng cao nhận thức
về vai trò và trách nhiệm của mỗi cá nhân trong tập thể xã hội. Trong suốt 100
năm qua con người Việt Nam cùng với xã hội Việt Nam bước từ thời kỳ phong kiến
quân chủ sang thực dân đô hộ rồi sang cộng sản tại miền Bắc và bán-dân chủ tại
miền Nam cho đến năm 1975 thì cả nước hoàn toàn thuộc vào chế độ chuyên chính cộng
sản. Lịch sử đã minh chứng và khảo cứu cụ thể của Freedom House đã xác định là
những định chế chính trị không làm nên một chế độ dân chủ; do đó, không thể
dùng những định chế như lập pháp, hành pháp, và tư pháp mà bảo rằng Việt Nam đã
có một thể chế dân chủ. Một thể chế dân chủ phải được hình thành từ những đơn vị
nhỏ nhất là cá nhân, là những con người dân chủ-khác biệt với đơn vị nhỏ nhất
trong xã hội phong kiến là gia đình. Trong tác phẩm Today's isms,
xuất bản năm 1954, Ebenstein đã viết: "sức mạnh của một nền dân chủ là ở ý
chí bảo vệ dân chủ của người dân." Cổ nhân ta cũng có nói, "người dân
nào, xã hội đó." Nói một cách khác, chính người dân là thành tố quan trọng
nhất không những trong tiến trình xây dựng mà còn trong công cuộc bảo vệ dân chủ.
Muốn xây dựng dân chủ, do đó, trước hết phải xây dựng con người dân chủ.
Để cụ thể,
thế nào là con người dân chủ? Một con người dân chủ, trước hết phải có nhân
cách dân chủ, và nhân cách dân chủ (democratic personality) được thể hiện qua:
1. Tư Duy
Dân Chủ:
muốn có được tư duy dân chủ cần phải thực tập tư duy trên căn bản luận lý thực
nghiệm (rational empiricism). Luận lý thực nghiệm lập luận rằng "mọi kiến
thức của con người đều do kinh nghiệm mà ra" (John Locke). Vì con người chỉ
có kinh nghiệm giới hạn nên kiến thức của con người cũng là kiến thức giới hạn.
Do đó, trên căn bản luận lý thực nghiệm, không có cái gọi là chân lý tuyệt đối.
Đã không có chân lý tuyệt đối thì sẽ không đưa đến những giáo điều và hành động
cực đoan. Khi đã ý thức được rằng "cái biết" của ta hữu hạn và có thể
sai lầm, người có tư duy dân chủ dễ dàng chấp nhận những khác biệt trong sinh
hoạt xã hội cũng như bất đồng chính kiến trong chính trị. Mỗi người có thể nắm
giữ được một phần của sự thật và do đó khi hợp tác sẽ đem lại kết quả tốt hơn
cho tất cả. Tư duy giáo điều không nhường đất cho thảo luận hoặc thỏa hiệp. Hậu
quả của tư duy này là các biện pháp tranh đấu cực đoan, không khoan nhượng, và
kết quả là một xã hội bị áp chế, là những chế độ chuyên chính, độc tài.
2. Khả
năng dung thứ (tolerance): kết quả của tư duy thực nghiệm mang đến một
ảnh hưởng tâm lý vô cùng quan trọng trong việc xây dựng nhân cách dân chủ; đó
là khả năng dung thứ. Ý thức được sự bất toàn của mình, con người dân chủ dễ
dàng chấp nhận những khác biệt về tư tưởng, về chính kiến, vân vân. Khả năng
dung thứ giúp cho công việc giải quyết những bất đồng diễn ra trong một không
khí cởi mở và xây dựng cho cái tốt chung, chứ không đưa đến tình trạng "một
sống, một chết." Trong một xã hội có rất nhiều dị biệt, dù ngay cả khi có
chung một mục tiêu, sự khác biệt về phương thức cũng đủ đưa đến các sự tranh cãi
quyết liệt. Nếu không có khả năng dung thứ để ý thức được sự thiếu sót của mình
mà chấp nhận phần đúng của người khác thì xã hội sẽ không thể xây dựng được
trong hòa bình và tiến bộ.
3. Khả năng
đối thoại: từ
tư duy dân chủ và khả năng dung thứ, một thuộc tính căn bản nữa của nhân cách
dân chủ là khả năng đối thoại. Trong một xã hội văn minh và trật tự, mọi khác
biệt đều được giải quyết qua các cuộc thương thảo. Nhân cách dân chủ đòi hỏi ta
phải biết chấp nhận sự khác biệt và sẵn sàng đối thoại giữa các phe nhóm bất đồng
ý kiến. Đối thoại để tìm ra giải pháp chung chứ không phải để tranh hơn thua.
Chấp nhận đối thoại trong sinh hoạt xã hội sẽ đưa đến chấp nhận đối lập trong
chính trị.
4. Ý thức
trách nhiệm: ngoài ba thuộc tính trên của nhân cách dân chủ, ý thức trách
nhiệm là một thuộc tính quan trọng trong việc xây dựng xã hội dân chủ. Con người
dân chủ hiểu được vai trò của mình trong xã hội cũng như hiểu được trách nhiệm
của mình trong việc sống chung với nhau trong một cộng đồng. Ý thức trách nhiệm
đưa đến những hành động cụ thể trong sinh hoạt chứ không phải ý thức suông. Từ
ý thức trách nhiệm này con người dân chủ phát huy một thuộc tính khác nữa là
tinh thần tập thể (cộng đồng) và thiện nguyện.
5. Tinh thần
tập thể và thiện nguyện (voluntarism): tinh thần tập thể và thiện nguyện giúp con
người dân chủ xây dựng một xã hội dân sự, một xã hội trong đó người dân tự nguyện-mà
không qua chính quyền-làm những gì mà họ thấy cần thiết cho chính bản thân và
những người chung quanh (tại các quốc gia dân chủ ta thấy có rất nhiều các tổ
chức thiện nguyện về đủ mọi khía cạnh và sinh hoạt của xã hội. Người dân không ỷ
lại vào chính quyền để giải quyết các vấn đề cho họ). Tinh thần tập thể và thiện
nguyện này là cốt lõi của xã hội dân sự và dân chủ vì qua những sinh hoạt thiện
nguyện, người dân thực sự thi hành quyền làm chủ xã hội.
Nhân cách
dân chủ một khi đã được hình thành cần một môi trường thuận lợi để phát triển,
cần được vun xới để nẩy nở. Môi trường thuận lợi ấy chính là một xã hội dân sự,
hay còn được gọi là xã hội công dân (civil society).
Xã hội dân sự
Aristotle đã
nói: "con người là một sinh vật chính trị," nhưng trước khi con người
trở nên một sinh vật chính trị, Seneca cũng đã nói con người là một "sinh
vật xã hội" (social animal) với bản năng quần tụ. Bản năng quần tụ đã khiến
con người kết hợp lại và sống chung với nhau trong những tập thể, đầu tiên là
gia đình, với mục tiêu đầu tiên là sinh tồn và sau đó là cải thiện đời sống. Xã
hội con người dần dần tăng trưởng từ những cộng đồng khác nhau về nhiều mặt như
sắc tộc, giai cấp, tôn giáo, và văn hóa. Tuy nhiên, một xã hội chỉ có thể đáp ứng
được cho người dân hai mục tiêu thiết yếu đầu tiên-an cư và lạc nghiệp-khi có một
quyền lực bao trùm lên cả xã hội để bảo đảm hai mục tiêu này, nhất là khi có sự
tranh chấp giữa những người dân với nhau. Chính quyền từ đó được thiết lập. Uy
quyền của chính quyền từ đâu mà ra? Các xã hội phong kiến cho rằng quyền cai trị
là quyền của trời cho một họ; các triều đại phong kiến từ đông sang tây đều
dùng khẩu hiệu "thay trời trị dân," và mang tính chất cha truyền con
nối. Tương quan giữa người dân và chính quyền là quan hệ một chiều theo hàng dọc
từ nhà nước xuống nhân dân. Từ quan hệ này khái niệm "dân chi phụ mẫu"
được phát huy, và nhà nước có nhiệm vụ "chăm lo" cho đời sống của dân
chúng. Nếu gặp được minh quân thì dân được nhờ, còn gặp phải hôn quân thì dân
cũng phải chịu. Đời sống phong kiến đã tạo nên một tâm lý thụ động và thờ ơ trước
những việc "không phải việc của mình" nơi người dân. Các chính quyền
độc tài, dù là độc tài cá nhân hay độc tài đảng trị cũng đều giống như các
chính quyền thời phong kiến biến người dân thành những phần tử thụ động, biết
phục tùng.
Khi nền dân
chủ được phát huy tại Anh quốc vào cuối thế kỷ 17, cùng với các luận thuyết về
dân chủ của John Locke, của Rousseau, Montesquieu, vân vân, quan niệm về quyền
lực của nhà nước được thay đổi. Quyền lực của nhà nước không phải từ trời mà từ
chính mỗi người dân. Khái niệm công dân và xã hội dân sự ra đời. Theo Larry
Diamond, trong khảo luận "Rethingking Civil Society"[4] đăng trên tạp chí Journal of
Democracy, 1994, thì
Xã hội dân sự
chỉ một đời sống xã hội có tổ chức mang các tính chất tự nguyện, tự phát, tự tồn,
độc lập khỏi sự chi phối của nhà nước, và được ràng buộc bởi một hệ thống luật
pháp và các giá trị văn hóa. Xã hội dân sự khác với xã hội theo nghĩa thường
dùng ở chỗ nó bao gồm các công dân [chữ in nghiêng của người
viết dùng để nhấn mạnh] hoạt động một cách tập thể trong lãnh vực công cộng
(public sphere) nhằm biểu tỏ các mối quan tâm, tư tưởng, trao đổi thông tin, thực
hiện các mục tiêu chung có tính chất hỗ tương, kiến nghị với nhà nước và buộc
các viên chức chính quyền phải chịu trách nhiệm trước các việc làm của chính
quyền. Xã hội dân sự là một thực thể trung gian giữa lãnh vực tư nhân (private
sphere) và nhà nước.
Theo khái niệm
này, đặc tính nổi bật nhất của xã hội dân sự là sự tham gia của công dân vào
các sinh hoạt của xã hội qua các tổ chức một cách tự nguyện, vô vị lợi cho cá
nhân hay tổ chức đó (khác với các tổ chức, hoặc công ty thương mại có tính chất
lợi nhuận), và độc lập với nhà nước. Nhìn dưới lăng kính này xã hội (nói chung)
là một tập hợp gồm ba tiểu tập hợp: nhà nước, xã hội dân sự bao gồm các hoạt động
công cộng có tính chất bất vụ lợi, và thị trường bao gồm các hoạt động tư có
tính chất lợi nhuận; trong đó xã hội dân sự đóng vai trò trái độn giữa nhà nước
và thị trường. Ba tiểu tập hợp này tác động qua lại với nhau tạo nên sự sống động
và cân bằng của xã hội dân chủ.[5] Khái niệm tổ chức xã hội theo hàng dọc
từ chính quyền đi xuống đến người dân nay có thể được quan niệm theo hàng ngang
gồm ba phần: chính quyền, xã hội dân sự và thị trường, trong đó mỗi phần có nhiệm
vụ rõ rệt và tác động hỗ tương với nhau.
Xã hội dân sự
được hình thành, trước hết do sự ý thức của các công dân về trách nhiệm của
mình đối với các lãnh vực công của xã hội nói chung. Các tổ chức tự nguyện,
phi-chính phủ, phi-lợi nhuận (NGO) từ đó ra đời nhằm góp phần giải quyết các vấn
đề, trước hết của chính các cá nhân và sau đó, của xã hội. Thêm vào đó, lãnh vực
công (public sphere) cũng là diễn đàn để mọi người thảo luận về các vấn đề liên
quan đến đời sống, để học hỏi và tìm hiểu về các tin tức, ý kiến, quan niệm của
những cá nhân khác. Điểm quan trọng cần ghi nhận là mặc dù các tổ chức NGO
không hoạt động chính trị nhằm nắm chính quyền như các đảng phái chính trị, các
hoạt động xã hội của NGO đều mang tính chất chính trị; thí dụ, các tổ chức trợ
giúp giáo dục cho các sắc dân thiểu số phải quan tâm và vận động (lobby) các
chính sách của nhà nước về giáo dục. Nói một cách khác, xã hội dân sự chính là
môi trường chính trị (political sphere) nằm giữa nhà nước và xã hội nói chung.
Tương quan
giữa con người dân chủ và xã hội dân sự
Sinh hoạt giữa
các công dân trong những tổ chức tự nguyện tạo nên một nền văn hóa chính trị
(political culture) mang đặc tính dân chủ. Trước hết, các công dân tự nguyện
tham gia vào sinh hoạt trong một tổ chức tự nguyện trên nguyên tắc bình đẳng,
nơi mà mọi thành viên đều có thể chia sẻ mọi ý kiến về các vấn đề mà họ quan
tâm đến, cho dù các ý kiến có thể trái ngược lẫn nhau, ngay cả khi những ý tưởng
có vẻ "lẩm cẩm" nữa. Đặc tính "tự nguyện" giúp các thành
viên mạnh dạn nói lên suy tư của mình, bởi vì trong sinh hoạt tự nguyện, nơi mọi
người đều bình đẳng, sự áp chế về tư tưởng không thể xảy ra (nếu không thích
thì mỗi người đều có thể tự động không tham dự). Sự tranh luận của chính các
thành viên trong các tổ chức này giúp mọi người tìm ra "cái đúng"
chung, trong khi mỗi người đều có cái đúng riêng. Sự trái ngược về ý kiến, về
tư duy, không có nghĩa cứ hễ anh đúng thì tôi sai, hay ngược lại, mà có nghĩa
là cả hai đều có thể đúng hết khi vấn đề được nhìn từ hai góc độ khác nhau. Những
sinh hoạt như vậy củng cố và giúp cho nhân cách dân chủ được trưởng thành thêm.
Đặc tính
"tự nguyện" của các tổ chức trong xã hội dân sự không những giúp
thành viên có cơ hội để chia sẻ ý kiến, suy nghĩ, mà còn giúp thực hành các
nguyên tắc về lãnh đạo dân chủ. Một tổ chức tự nguyện có thể được xem là một tiểu
xã hội và tiểu xã hội này chỉ có thể hoạt động được nếu có trật tự và ổn định.
"Quyền lực" điều hành tổ chức tự nguyện do các thành viên của tổ chức
trao cho những cá nhân đại diện, và tính chất bình đẳng giữa các cá nhân với
nhau làm nổi bật yếu tính của dân chủ là "mỗi người một phiếu." Những
thực tập này giúp cho các thành viên ngày một phát triển thêm ý thức trách nhiệm
của mình đối với tập thể chung, và chuẩn bị cho họ, qua những sinh hoạt điều
hành nội bộ như bầu cử, tranh cử hội đồng quản trị, vân vân, tham gia vào các
sinh hoạt chính trị ở phạm vi toàn xã hội.
Xã hội dân sự
không những là môi trường thích hợp cho nhân cách dân chủ trưởng thành, sự đa dạng
và tính đa nguyên của xã hội dân sự còn đóng góp tích cực vào việc củng cố và
xây dựng xã hội dân chủ. Trước hết, một xã hội dân sự vững mạnh phân định rõ rệt
thẩm quyền của chính phủ đối với các sinh hoạt xã hội, và tránh được các sự xâm
phạm một cách tùy tiện của chính quyền vào các sinh hoạt xã hội. Hơn thế nữa, tại
các nước dân chủ, một xã hội dân sự trưởng thành trong đó người dân tự lo liệu
và giải quyết được cho chính họ đa số các vấn nạn xã hội, cũng là một hàng rào
cản sự lạm quyền và độc đoán của chính quyền. Tại các nước đang dân chủ hóa, xã
hội dân sự cũng là nơi tập hợp của các phong trào xã hội đa nguyên đưa đến sự
hình thành của các lực lượng đối lập chính trị, như Phong trào Đoàn kết
(Solidarity movement) tại Ba-lan trong thập niên 1970, các tổ chức nghiên cứu
chính trị tại Đài Loan và Đại Hàn trong thập niên 1980. Mục tiêu hoạt động của
các phong trào xã hội này không nhắm vào "lật đổ" chế độ mà nhắm vào
xây dựng một xã hội "dân sự" nằm ngoài sự kiểm soát của các định chế
của chính quyền, và áp lực chính quyền cải tổ về cấu trúc xã hội.[6]
Kết luận
Như trên đã
trình bày, về cấu trúc, có thể nói xã hội dân sự là sự kết hợp của các tổ chức
tự nguyện. Tuy nhiên, thành tố cốt lõi của xã hội dân sự vẫn là các cá nhân nhận
thức được trách nhiệm của mình đối với "cái tốt" chung cho cả xã hội
mà tham gia vào các tổ chức tự nguyện, phi-chính phủ (NGO). Nói một cách khác,
xã hội dân sự là tập hợp của các con người dân chủ trong các diện khác nhau của
xã hội như nhân quyền, giáo dục, y tế, nghề nghiệp, vân vân. Điều kiện cần thiết
cho sự hình thành của xã hội dân sự chính là từ sự nhận thức của mỗi cá nhân về
vai trò và trách nhiệm của họ trong xã hội nói chung đã thúc đẩy họ tham dự vào
các sinh hoạt của xã hội. Sinh hoạt trong những tổ chức tự nguyện mỗi cá nhân
có cơ hội phát huy các đặc tính của nhân cách dân chủ. Nhân cách dân chủ càng
được nẩy nở thì xã hội dân sự càng được phát huy, và ngược lại. Một xã hội dân
sự năng động sẽ cung cấp năng lượng cho sự vận hành của cả xã hội, nhất là về
phương diện chính trị và chính sách phản ảnh các quan tâm của mọi thành viên
trong xã hội. Xã hội dân sự và con người dân chủ là một tương quan nhất thể tạo
thành nền tảng vững chắc cho một nền chính trị dân chủ và xã hội đa nguyên.
[1] Freedom House's 2002 Report: http://www.freedomhouse.org/ .
Freedom House dùng 2 bảng điểm để xếp hạng dân chủ cho các nước; một bảng về
các quyền chính trị, và một bảng về các quyền dân sự. Điểm trung bình của mỗi
nước hay lãnh thổ sẽ được dùng để đánh giá: Tự do, Bán-Tự do, hoặc Phi-Tự do.
Những nước có điểm trung bình từ 1-2.5 được coi là tự do; từ 3-5.5 là Bán-Tự
do; và từ 5.5-7 là Phi-Tự do. Nếu một nước được 6 điểm về quyền chính trị và 5
điểm về quyền dân sự, hoặc 5 điểm cho quyền chính trị và 6 điểm cho quyền dân sự,
nước đó có thể được xếp hạng Bán Tự do, hoặc Phi Tự do. Thêm vào đó là số điểm
"thô" (raw score) dùng để xác định thứ hạng cuối cùng. Điểm thô từ
0-30 là Phi-Tự do, từ 31-59 là Bán-Tự do, và từ 60-88 là Tự do. Điểm trung bình
của Việt Nam là 6.5, xếp hạng Phi-Tự do.
[2] Anh quốc được coi như là nước đầu tiên tại Tây phương được
dân chủ hóa sau cuộc cách mạng năm 1688 truất phế vua James đệ nhị, và thiết lập
chế độ Quân chủ lập hiến.
[3] Nguyễn văn Xuân, Phong Trào Duy Tân, trg. 7, Lá
Bối, Sài gòn 1970 - Phan Bội Châu mới thực là người đề xướng ra khẩu hiệu nêu
trên trong Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư, gồm năm phần. Phần 1 nói về nỗi nhục mất
nước, 3 phần giữa bàn đến vấn đề khai dân trí, chấn dân khí, và thụ nhân tài
(vun trồng nhân tài), và phần cuối kêu gọi các trí thức đang làm quan tham gia
phong trào. Tuy nhiên, mặc dù Phan Bội Châu đề xướng ra thuyết này, trong hơn cả
nửa đời hoạt động ông lại đi theo con đường chủ trương dùng bạo lực để giành độc
lập. Phần khai dân trí và chấn dân khí thực sự là những chương trình hành động
của phong trào Duy Tân do Phan Chu Trinh chủ trương và thi hành.
[4] Emma Porio, Civil Society and Democratization in Asia:
Prospects and Challenges in the New Millenium,http://ihome.cuhk.edu.hk/~b102291/activity/anniversity/10porio.doc
[5] Porio, tài liệu dẫn thượng.
[6] Andrew Levin, Civil Society and Democratization in Haiti,
Emory International Law Review, Vol. 9, Mùa Thu 1995, số 2.
Nguồn:
http://icevn.org/vi/node/276