Các giá trị của tự do ngôn luận

Posted on
  • Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2016
  • by
  • Minh Anh
  • in
  • Nhãn:
  • Thanh Thủy
    TỰ DO NGÔN LUẬN VÀ CUỘC TÌM KIẾM SỰ THẬT
    Thuyết sự thật cho rằng tự do ngôn luận góp phần vào việc tìm ra sự thật. Đại diện cho trường phái này là John Stuart Mill với tác phẩm On Liberty[1] (Bàn về tự do) xuất bản năm 1849 và John Milton với Aereopagitica[2] xuất bản năm 1644.

    John Stuart Mill – về tự do tư tưởng và tự do thảo luận
    Mill cho rằng tự do ngôn luận là cần thiết cho sự lành mạnh tinh thần của nhân loại. Chính tự do tư tưởng, tự do quan điểm và tự do thảo luận quan điểm giúp con người tiến gần đến sự thật. Quan điểm của ông dựa trên bốn lập luận chính: con người luôn có thể sai lầm; một ý kiến dù sai lầm vẫn có thể đóng góp vào việc tìm ra sự thật; sự cạnh tranh và va chạm giữa các ý kiến khác nhau khiến tính đúng đắn của một quan điểm càng thuyết phục hơn; và sự cạnh tranh và va chạm đó bảo vệ sự thật khỏi bị lãng quên hoặc lu mờ.

    Tự do ngôn luận là cần thiết vì không ai nắm giữ chân lý. Ngay cả khi chỉ có một người có ý kiến khác biệt trong toàn thể nhân loại, nhân loại không thể ngăn chặn tiếng nói của anh ta, cũng như anh ta, dù quyền lực cách mấy, không thể chặn tiếng nói của toàn nhân loại. Nếu ý kiến khác biệt đó là đúng, ngăn chặn ngôn luận đồng nghĩa với việc đánh đổi sự thật lấy sai lầm. Nếu ý kiến khác biệt đó sai, nhân loại vẫn được lợi khi để người đó lên tiếng, vì sự thật sẽ càng được nhận định sáng tỏ hơn, càng gây ấn tượng sống động hơn khi vượt qua thử thách là đối chọi với sai lầm để sáng tỏ.

    Con người luôn có thể sai lầm và không ai độc quyền nắm chân lý. Những mưu toan nhằm hạn chế hoặc dập tắt ngôn luận bắt nguồn từ sự tự mãn về sự bất khả chiến bại, rằng một người hoặc một nhóm người có thể biết chắc chắn mọi thứ. Nhưng lịch sử đã chứng minh rằng niềm tin của một thời đại có thể bị thời đại tiếp theo chứng minh là phi lý, cũng như các ý kiến được coi là ý chí tập thể của một thế hệ có thể bị bác bỏ bởi thế hệ sau.

    Chính quyền có quyền lực để hạn chế ngôn luận, với lý do bảo vệ người dân khỏi các quan điểm độc hại và sai lầm. Thế nhưng, một quan điểm chính thống là đúng vì trụ vững qua các cuộc tranh cãi và thách thức là một chuyện. Một quan điểm được cho là đúng vì các ý kiến trái chiều bị ngăn chặn lại là chuyện khác. Một chính phủ tự cho mình đúng thì cần phải để quan điểm đó được cọ xát và thử thách với các ý kiến khác nhau trong xã hội. Sự tự do tuyệt đối trong việc phủ nhận và tranh cãi một ý kiến là điều kiện cần để ý kiến đó được cho là đúng và chuyển biến thành hành động. Không còn con đường nào khác để con người – với những khả năng có hạn – có thể đảm bảo họ đúng.

    Điều kiện này cũng đúng với các quan điểm cá nhân. Tại sao sự phán xét của một cá nhân xứng đáng được tin cậy? Bởi vì anh ta cởi mở với các phê bình về quan điểm và hành vi của  anh ta. Bởi vì anh ta thực sự lắng nghe tất cả các ý kiến chỉ trích có thể có, để có thể tận dụng được các phần đúng trong các chỉ trích đó, và, khi có dịp, có thể giải nghĩa cho anh ta cũng như cho người khác sự sai lầm trong những gì đã từng là sai lầm. Bởi vì anh ta hiểu rằng rằng cách duy nhất để một người tìm cách tiếp cận sự hiểu biết tổng thể về một chủ đề là lắng nghe tất cả những gì có thể được nói về chủ đề đó bở vì tất cả mọi người, với tất cả các ý kiến đa dạng, và học hỏi mọi phương cách để nhận định về chủ đề đó với tất cả các khả năng của trí óc. Đó là cách duy nhất để một người uyên bác đạt được sự thông thái của mình. Ngay kể cả khi chúng ta không đạt được sự hoàn hảo trong hiểu biết, chúng ta đã làm tất cả trong khả năng giới hạn của con người cho phép, bởi chúng ta đã không chối từ Sự thậtbất kỳ một cơ hội nào để tiếp cận với chúng ta.

    Đối với những cá nhân có quan điểm khác biệt, thiểu số và không chính thống, đàn áp và dập tắt tiếng nói của họ không chỉ là một điều xấu cho họ, mà còn là một tai họa cho chính chúng ta. Khi ngăn chặn các tiếng nói đổi mới, dù các ý kiến có táo bạo và khó nghe đến mấy, cái giá chúng ta phải trả cho sự “ổn định” tri thức chính là hi sinh sự can đảm về tinh thần của trí tuệ con người, vì rằng chúng ta từ bỏ yếu tố giúp trí tuệ được mở mở mang và mạnh mẽ hơn: “dám” suy xét một cách tự do và táo bạo về các chủ đề lớn lao nhất.

    Tự do ngôn luận cần thiết cho sự thật, vì sự thảo luận thường xuyên về một quan điểm được thừa nhận là đúng sẽ giữ cho sự thật đó sống động, chứ không phải là một giáo điều chết. Tước bỏ sự thách thức và bảo vệ sự thật một cách liên tục qua thảo luận là biến một quan điểm đúng thành một định kiến ràng buộc trí óc, một niềm tin không được củng cố bằng lý luận. Đó không phải là cách mà sự thật được nắm bắt bởi một con người có lý trí. Đó không phải là nắm bắt sự thật. Sự thật trong trường hợp chẳng là gì khác ngoài một điều mê tín tình cờ níu bám được vào các ngôn từ diễn đạt một sự thật khác.

    Nếu một sự thật không được liên tục thảo luận, thách thức hoặc bảo vệ, không chỉ các căn cứ của sự thật đó mà cả ý nghĩa của nó cũng sẽ bị lãng quên. Bởi vì, có nhiều sự thật mà con người ta chỉ có thể hiểu thấu khi bản thân họ trải nghiệm để cảm nhận được sự thật đó. Nhưng còn hơn thế, sự hiểu cặn kẽ đó sẽ khắc sâu vào tâm trí với ấn tượng mạnh mẽ hơn nếu người đó quen với việc nghe thấy các ý kiến ủng hộ và phản đối của những người đã hiểu quan điểm ấy. Xu hướng chết người của con người là ngừng ngẫm nghĩ về một điều gì đó khi không còn gì nghi ngờ về nó nữa – đó chính là nguyên do của một nửa những sai lầm của của con người.

    Có một lý do nữa khiến sự đa dạng trong ngôn luận và quan điểm là một điều có lợi. Thông thường, không phải chỉ có sự va chạm giữa các quan điểm sai và các quan điểm đúng mới góp phần làm sự thật được hiểu sâu hơn và cảm nhận sâu hơn. Trên thực tế, các lý thuyết đối lập với nhau thường chia sẻ với nhau một phần sự thật. Các quan điểm không đồng thuận khác luôn là cần thiết để bổ sung các khía cạnh còn chưa được khám phá của sự thật. Sự thật, trong các vấn đề thực tế nhất của đời sống, phần nhiều là sự dung hòa và tổng hợp các quan điểm đối lập nhau, và rằng rất ít người, dù học vấn cao, có khả năng và sự công minh để điều chỉnh một quan điểm cho đúng đắn hơn. Vì vậy, sự thật chỉ có thể được đạt tới qua một tiến trình đấu tranh giữa những người năng nổ bảo vệ cho các quan điểm khác nhau.

    Như vậy, trong quan điểm của Mill, tự do tư tưởng và tự do bày tỏ tư tưởng là cần thiết để tiến gần đến chân lý, vì ai cũng có thể có quan điểm sai lầm, vì sự va chạm giữa các quan điểm trái ngược nhau sẽ chỉ làm cho chân lý, một khi được tìm ra, thuyết phục hơn. Liên tục thảo luận, thách thức, bảo vệ một quan điểm đúng đắn sẽ khiến quan điểm đó là một sự thật sống động được chứng tỏ qua lý trí, và sự thật đó, thay vì chỉ là một giáo điều cứng nhắc được lặp đi lặp lại vì nghĩa vụ, sẽ được mỗi người cảm nhận một cách sâu sắc hơn và tin tưởng hơn.

    John Milton – về vấn đề kiểm duyệt và tự do xuất bản
    Lý do thường được đưa ra để biện hộ cho kiểm duyệt là nỗi lo về những tư tưởng xấu xa có thể lan rộng. Milton cho rằng, trong trường hợp đó, tất cả những kiến thức và các vấn đề còn được tranh cãi sẽ bị ngăn cấm, các tác phẩm tiên phong nhất sẽ không bao giờ có cơ hội được đọc và thảo luận. Thế nhưng, chính những quan điểm mới và gây tranh cãi đó lại thường xuyên là những quan điểm đúng đắn hơn cả và được lịch sử chứng minh. Thêm vào đó, những điều được cho là xấu có thể được lan rộng bằng hàng ngàn phương cách khác ngoài sách vở. Kiểm duyệt những chủ đề được coi là “xấu” không phải là cách để làm điều xấu ngừng tồn tại trong xã hội. Những người kiểm duyệt sẽ làm thế nào để kiểm soát hàng ngàn hàng vạn những cách thức truyền tải thông tin trong cuộc sống xã hội đa dạng đây? Kiểm duyệt những đề tài “xấu” không làm cho một người xấu trở nên tốt đẹp hơn, cũng như tước đoạt toàn bộ của cải của một người tham lam không vì vậy mà làm họ bớt tham lam hơn.

    Nếu những người đầu tiên đón nhận các tác phẩm mới là những người uyên bác và thông thái, và nếu cho rằng họ cũng sẽ là những người đầu tiên truyền bá những sai lầm và xấu xa (nếu có) trong các tác phẩm đó, tại sao chúng ta có thể đặt niềm tin vào những người thực hiện kiểm duyệt, trừ phi chúng ta cho rằng, hoặc họ tự nhận rằng họ là những người thông thái và uyên bác hơn hết thảy những người khác, rằng họ không bao giờ sai lầm và không bao giờ có thể bị mua chuộc? Thế nhưng, Milton tin rằng một người thông thái có thể tìm thấy những giá trị từ những điều tưởng như vô dụng, trong khi những kẻ điên rồ vẫn luôn là điên rồ kể cả khi họ có những cuốn sách hay nhất hoặc chẳng có cuốn sách nào. Vậy tại sao chúng ta tước đoạt từ những người thông thái những điều có lợi cho sự khôn ngoan của họ, trong khi tìm cách ngăn chặn những kẻ điên rồ khỏi những thứ không hề là vật cản khiến họ điên rồ hơn. Việc kiểm duyệt như vậy sẽ chẳng mang lại lợi ích mong muốn. Sự thật tự bản thân nó khéo léo và tài tình hơn bất kỳ phương tiện hoặc phương pháp nào có thể được sử dụng để ngăn chặn nó.

    Đặt giả thuyết rằng kiểm duyệt có thể đạt được mục tiêu là ngăn chặn những điều “xấu” lan tràn trong xã hội. Trong trường hợp này, đồng thời với việc ngăn chặn điều “xấu,” kiểm duyệt sẽ phải quét sạch những điều tốt – vì chúng luôn là hai mặt của cùng một vấn đề. Con người học được những điều tốt đẹp từ những trải nghiệm sai lầm. Tạo hóa làm ra mọi vật với các khía cạnh trái ngược nhau là vì như vậy.

    Như vậy, trong quan điểm của Milton, kiểm duyệt là một điều phản tự nhiên và điên rồ – vì kiểm duyệt sẽ không bao giờ đạt được mục tiêu nó mong muốn, hoặc nó đạt được mục tiêu với cái giá phải trả là những điều tốt đẹp trong xã hội cũng sẽ bị kiểm duyệt như một hệ luỵ. Sự thật, cùng tự do, sẽ tài tình và khéo léo vượt qua mọi phương cách âm mưu ngăn chặn nó.

    Nguồn:http://phiatruoc.info/cac-gia-tr%E1%BB%8B-c%E1%BB%A7a-t%E1%BB%B1-do-ngon-lu%E1%BA%ADn-ph%E1%BA%A7n-i-tcpt-s%E1%BB%91-39/
     
    Xem trang web chính thức tại Tinhthankhaiminh.org