Cộng đồng cộng hòa của Rousseau

Posted on
  • Thứ Năm, 3 tháng 12, 2015
  • by
  • Minh Anh
  • in
  • Nhãn: ,
  • Khai sáng là một giai đoạn bùng nổ về tri thức và thay đổi về văn hóa. Rousseau là người chống đối vĩ đại nhất của nó, ông cho rằng sự tiến bộ trong các lĩnh vực nghệ thuật, khoa học, và kinh tế không mang lại sự tiến bộ về đạo đức hay sự hạnh phúc. Ông có một quan điểm tích cực, có lẽ là lãng mạn, về hoàn cảnh tự nhiên hay tiền văn minh của nhân loại. Rousseau cũng phát triển một lý thuyết khế ước xã hội khác với lý thuyết của Locke và Hobbes. Ông bảo vệ cho một nền dân chủ trực tiếp cấp tiến, nhưng đồng thời cũng bảo vệ cho một sự đồng nhất về văn hóa. Lý thuyết của Rousseau là một mô hình có tính quân bình và cộng đồng kinh điển của chủ nghĩa cộng hòa. Tác phẩm của ông gây ra sự thay đổi chính trị vĩ đại nhất vào cuối thế kỉ: cách mạng Pháp.
    Các luận văn của Rousseau
    ·        Rousseau (1712 - 1778) là một người kì lạ và khó gần, ông luôn cảm thấy khó chịu với xã hội thương mại, văn minh, đô thị, hiện đại. Tiểu luận đầu tiên mang đến cho ông danh tiếng là Luận về khoa học và nghệ thuật (1750), trong đó ông cho rằng  tiến bộ về khoa học và nghệ thuật không mang đến sự tiến bộ về đạo đức. Đây là phát súng đầu tiên của ông chống lại Khai sáng. Hiện đại mang lại cho chúng ta nhiều tri thức và vật chất hơn song không làm chúng ta tốt hơn hay hạnh phúc hơn.
    ·        Tiểu luận tiếp theo của ông, Luận về nguồn gốc của bất bình đẳng giữa con người (1755), khiến ông bị tai tiếng. Trong tác phẩm này, ông khẳng định sự ưu việt hơn của con người nguyên thủy và trạng thái tự nhiên (so với con người xã hội và xã hội chính trị).
    o   Luận điểm chính của ông là người nguyên thủy độc lập, tự chủ, và bình đẳng hơn, do đó về phương diện chính trị và đạo đức là tốt đẹp hơn.
    o   Trong xã hội hiện đại, mọi người trở nên phục thuộc vào nhau và họ so sánh với nhau, đánh mất đi sự độc lập của mình đồng thời phát triển những điều xấu xa.
    o   Rousseau có lẽ đã quá lãng mạn và phóng đại, song ông đã đúng trong một số luận điểm của mình, đặc biệt là ý tưởng cho rằng tiến bộ đồng nghĩa với sự phụ thuộc lớn hơn.
    ·        Rousseau kết tội Hobbes đã đồng nhất một cách sai lầm sự xấu xa của nền văn minh với trạng thái tự nhiên. Chỉ trong nền văn minh, nơi con người trở nên hám lợi, thì họ mới cố gắng để có nhiều hơn hàng xóm của mình. Trong trạng thái nguyên thủy, không có hàng xóm hay sự cạnh trạnh. “Cuộc chiến tất cả chống lại tất cả” không tồn tại trong trạng thái tự nhiên mà chỉ là những gì do sự văn minh hóa mang đến cho con người.
    ·        Đối với Rousseau những điều xấu xa nhất là sở hữu tư nhân và bất bình đẳng. Và ước muốn sở hữu, cùng với nó là sự bất bình đẳng, bị thúc đẩy bởi sự tự yêu chính mình hơn là bởi các nhu cầu vật chất.
    o   Rousseau miêu tả hai dạng tự yêu chính mình: amour de soi, hay yêu chính mình và muốn bảo vệ mình, và amour proper, yêu chính mình như mình là trong mắt người khác, dẫn đến sự xấu xa và bất bình đẳng. Ước muốn nhân tạo để có nhiều hơn so với người khác làm cho amour proper nở rộ trong thời hiện đại.
    o   Bản chất của con người là tốt đẹp, nhưng các thiết chế xã hội văn minh làm anh ta trở nên mất tự do và bất bình đẳng, và từ đó, gây ra mọi sự xấu xa.
    ·        Dù tất cả những điều này, trong thực tế, Rousseau không kêu gọi cho một sự rời bỏ xã hội chính trị hiện đại. Điều ông quan tâm là tìm ra một cách để cấu trúc xã hội hiện đại sao cho chúng ta có thể giữa lại được sự độc lập và bình đẳng nguyên thủy của mình nhưng trong một hình thức hiện đại.
    Khế ước xã hội của Rousseau
    ·        Khế ước xã hội (1762) là tác phẩm chính chứa đựng lý thuyết chính trị của ông. Trong tác phẩm đó, ông miêu tả trạng thái tự nhiên là trạng thái tự do và bình đẳng, không ai có quyền uy đối với người khác. Tuy nhiên, không có luật đạo đức tự nhiên.
    o   Rousseau nhấn mạnh rằng quy tắc đạo đức hay chính trị phải đến từ một sự thỏa ước, một hành động đồng thuận. Bản chất con người là tốt lành, nhưng trạng thái tự nhiên không an toàn. Mọi người muốn thiết lập một xã hội vì lợi ích của chính họ.
    o   Hình thành một xã hội có nghĩa là từ bỏ một số sự tự do bởi vì trở thành một thành viên xã hội, thì phải tuân theo luật pháp và chính quyền. Vấn đề triết học chính đối với Rousseau là: làm thế nào con người có thể tạo ra một xã hội mà vẫn tự do như trước kia (trước khi tham gia vào xã hội, trạng thái tự nhiên)?
    ·        Rousseau tin rằng ông có câu trả lời: bằng cách mỗi người từ bỏ mọi quyền cho cộng đồng vốn bao gồm những người bình đẳng mà họ là một thành viên. Bởi vì mỗi người từ bỏ mọi thứ cho cộng đồng tức là không cho một ai, không nhóm cụ thể nào, và tuân theo cộng đồng là tuân theo chính mình, do đó tất cả vẫn tự do như trước.
    ·        Khế ước này có một vài đặc điểm quan trọng. Thứ nhất, nó thiết lập một “cái tôi chung”. Cái tôi chung này có một “ý chí chung”, có lẽ là khái niệm chính trị nổi tiếng nhất của ông.
    o   Theo định nghĩa, ý chí chung hướng đến những gì tốt nhất cho toàn thể cộng đồng. Nó khác với “ý chí của tất cả” hay tổng các ý chí cá nhân, tư lợi. Điều này có nghĩa là một hành động bỏ phiếu của tất cả thành viên – ý chí của tất cả – có thể không đồng nhất với ý chí chung.
    o   Ý chí của mỗi cá nhân được phân chia thành ý chí riêng tư, ý chí tập thể, và ý chí chung. Khi xã hội đạo đức, ý chí của tất cả hoàn toàn đồng nhất với ý chí chung. Ý chí chung phải được ưu tiên so với ý chí tập thể và ý chí cá nhân. Trong thực tế, Rousseau xem việc bỏ phiếu là công cụ để dự đoán đâu là lợi ích chung. Nếu cộng đồng là đạo đức, thì những ai bỏ phiếu khác đi là do họ đang nhầm lẫn.
    o   Mối đe dọa đến từ sự bất bình đẳng và tình trạng phe cánh. Mọi công dân phải hành động độc lập, chỉ như vậy mới có thể dẫn đến một ý chí chung.
    Chính quyền của Rousseau
    ·        Rousseau bác bỏ sự lập pháp đại diện, hay ‘nền dân chủ gián tiếp”. Nếu chúng ta bầu chọn người đại điện để làm luật cho chúng ta, chúng ta thực sự là những kẻ nô lệ mọi lúc ngoại trừ khi chúng ta bỏ phiếu. Luật pháp là sự phát biểu của ý chí chung, được hình thành trong nền dân chủ trực tiếp, nơi mọi công dân bỏ phiếu đối với các bộ luật. Đây là một nền cộng hòa thuần nhất: người dân cùng nhau làm luật cho chính họ.
    ·        Cộng đồng chính trị là nguồn gốc của mọi quyền lực. Một mặt, các thành viên làm luật, điều này có nghĩa là người dân là chủ quyền. Khi là chủ quyền họ tạo ra ý chí chung mà sẽ quyết định các bộ luật. Mặt khác, người dân phải tuân theo luật mà họ thông qua. Theo nghĩa này, họ đồng thời là thần dân. Chính phủ, với quyền thực thi luật pháp, là cơ quan trung gian giữa người dân với tư cách là chủ quyền và người dân với tư cách là thần dân. Nó là “một cơ quan được ủy nhiệm’ để thực thi chức năng đó.
    ·        Điều quan trọng cần nhớ là đối với Rousseau chính phủ chỉ có chức năng tư pháp và hành pháp; nó thực thi luật được làm ra trực tiếp bởi người dân. Chính phủ có thể mang hình thức của một trong ba dạng  - dân chủ, quý tộc, hay quân chủ - hay có thể trộn lẫn ba dạng trên. Rousseau ủng hộ cơ quan hộ dân quan để làm trung gian giữa chính phủ, luật pháp, và người dân – một thiết chế giống như Tòa án tối cao.


    [Trong mô hình chính quyền của Rousseau, người dân vừa chủ động lẫn bị đông, vừa là chủ quyền lẫn thần dân, chính phủ là cơ quan trung gian giữa cả hai.]
    ·        Chắc chắn, theo thời gian chính phủ sẽ tập trung quyền lực và cuối cùng chiếm đoạt quyền lực của nhân dân. Điều này biện minh cho cách mạng, để giành lại quyền hành pháp cho nhân dân cho đến khi họ thiết lập một chính phủ khác.
    ·        Mô hình dân chủ trực tiếp của Rousseau là dạng chủ quyền nhân dân thuần nhất nhất. Nó không đặt ra các giới hạn về mặt hiến pháp đối với quyền lực của đa số khi theo đuổi lợi ích và không tạo ra các đảm bảo cho các quyền cá nhân hay các giới hạn đối với quyền lực cộng đồng. Nó không cho phép sự đại điện, vì những người đại diện được cho là quan tâm đến lợi lịch của họ hơn là lợi ích của cộng đồng. Và chính phủ, như là một cơ quan hành pháp đơn thuần, là phương tiện để làm cho những lợi ích của nó trở thành hiện thực.
    ·        Rousseau không chỉ quan tâm đến cấu trúc chính trị và chính quyền, mà còn quan tâm đến đức hạnh và văn hóa của xã hội. Chỉ có đức hạnh và nền văn hóa đúng đắn mới khuyến khích các công dân ưu tiên ý chí chung bên trên ý chí cá nhân và ý chí tập thể. Ông đề nghị thêm các thiết chế chính quyền và một tôn giáo dân sự để củng cố sự độc lập, đức hạnh và giữ cho ý chí của tất cả gần nhất có thể với ý chí chung.
    Bản chất của tự do trong tư tưởng của Rousseau
    ·        Trong chương 7, quyển 1 của Khế ước xã hội, Rousseau nhận xét rất nổi tiếng rằng những ai cố gắng không tuân theo ý chí chung sẽ phải bị “buộc phải tự do”. Nói cách khác, dường như ông muốn nói rằng sự nghe lời là tự do.
    ·        Như Constant đã chỉ ra, có hai quan niệm nổi bật về tự do trong nền văn hóa Tây phương hiện đại: tự do như là vắng mặt sự ép buộc và tự do là sự  tự quyết. Trong thế kỉ 20, Berlin gọi những quan niệm này là “tự do khỏi” và “tự do để”.
    ·        Những ai chấp nhận sự tự quyết như là định nghĩa của tự do sẽ phân biệt cái tôi đúng đắn hay cao hơn với cái tôi sai lầm hay thấp kém hơn. Tự do chỉ có khi cái tôi đúng đắn, cao hơn quyết định các hành động của con người, mà không phải cái tôi thấp kém hơn. Tự do không chỉ là sự vắng mặt của ép buộc; mà đó là khi cái tôi cao hơn hành động, chứ không phải là các ước muốn nhỏ mọn, xấu xa, phi đạo đức.
    ·        Rousseau không chỉ chấp nhận tự do là sự tự quyết, mà ông cũng đồng nhất cái tôi đúng đắn của một người với cộng đồng. Ông lập luận, sự tự do đúng đắn là quyết định hành động của mình bằng cái tôi đúng đắn hay cao nhất của mình, và cái tôi đó là một bộ phận của người công dân mà đồng nhất với sự tốt đẹp của cộng đồng.
    ·        Điều này dẫn đến một kết luận giật mình: sự tự do đúng đắn là tuân theo ý chí chung. Khi người dân vi phạm ý chí chung, đó là hợp pháp để ép buộc họ phải tuân theo. Ngoài ra, khi cộng đồng mang những người này trở lại ranh giới, thì nó không đang ép buộc họ mà đang làm cho họ tự do bởi vì tự do là tuân theo ý chí chung.
    Kết luận về Rousseau
    ·        Rousseau là nhà lý thuyết khế ước xã hội thú vị nhất bởi vì ông, theo một nghĩa nào đó, là người có tư tưởng mơ hồ và rối rắm nhất.
    ·        Ông đứng gần nhất về phía truyền thống cộng hòa dân sự. Trong truyền thống đó, người dân tích cực tham gia vào sự tự cai trị. Ông cũng là nhà cộng đồng luận nhất quán nhất khi nhấn mạnh sự trung thành của cá nhân đối với ý chí của cộng đồng.
    ·        Rousseau cũng có một số ảnh hưởng đến truyền thống cộng hòa tự do hiện đại, với sự nhấn mạnh rằng tự do có nghĩa là không phục tùng người khác; điều này đòi hỏi một sự bình đẳng thu nhập trong thực tế. Sự bất bình đẳng về thu nhập không phải là trung lập về mặt chính trị, mà đi cùng với nó là một số sẽ chi phối những người khác.
    ·        Rousseau là nhà dân chủ thần nhất nhất trong số những người hình thành nên truyền thống cộng hòa. Dân chủ là sự tự trị một cách trực tiếp. Không có sự cản trở hay giới hạn đối với quyền lực của đa số khi làm luật. Trong số những nhà lập quốc Mỹ, ông có ảnh hưởng lớn đến Jefferson, người nghĩ rằng cần có những cuộc cách mạng và mỗi thế hệ một hiến pháp mới.  
    ·        Rousseau cũng là một nguồn ảnh hưởng lớn đến chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là chủ nghĩa xã hội vô chính phủ, vốn đề cao bình đẳng hơn sự tự do cá nhân. Đối với Rousseau, mối đe dọa lớn nhất đối với công bằng xã hội là sự vị kỉ, amour proper, thúc đẩy con người tìm kiếm nhiều hơn người khác. Bất bình đẳng kinh tế xã hội cũng xung khắc với bình đẳng chính trị.
    ·        Ngoài ảnh hưởng đến các tác giả của Cách mạng Pháp, Rousseau được đánh giá cao bởi nhà Khai sáng Đức từ Kant về sau, và ý tưởng của ông được thâm nhập sâu vào trong tư tưởng Đức. 
    Nguồn:The Modern Political Tradition: Hobbes to Habermas
     
    Xem trang web chính thức tại Tinhthankhaiminh.org