William L. Anderson
Phạm Nguyên Trường dịch
Cho
và nhận
Người
cho bao giờ cũng được tôn trọng hơn là người nhận, và quan điểm truyền thống
bao trùm thời đại là chủ nghĩa tư bản đơn giản là nền kinh tế nhận, nghĩa là
người nghèo thì làm còn người giàu thì nhận. Do đó quan điểm của ông John C.
Bennett, chủ tịch danh dự của Trường thần học, là nền kinh tế tự do, nếu không
được chính phủ cải tạo, là “không thể chấp nhận được về mặt đạo đức”[1].
Tự
do kinh tế, như đã được chứng minh suốt hai thế kỉ qua, đã đưa đến sự phát triển
chưa từng có về mặt tài chính, đã mang tới cho các dân tộc thực hành nó số tài
sản vượt xa ngay cả những vương triều giàu có nhất thời cổ đại. Nhưng những người
chỉ trích vẫn coi tinh thần của tự do kinh tế là “lòng tham kiếm lời vô giới hạn
của các doanh nhân”[2]. Schlesinger,
một người ủng hộ nổi tiếng cho nền kinh tế kế hoạch hóa, coi triết lí tự do
kinh doanh là tín điều vô chính phủ: “mọi người phải tự lo và khôn sống mống chết”[3]. Còn Ronald J.
Sider, tác giả cuốn Về những người Thiên chúa giáo giầu có trong thời đại
đói nghèo (of Rich Christians in an Age of Hunger), thì
cho rằng sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đơn giản chỉ là sản phẩm
của lòng tham mà thôi:
Người
ta không thể đọc câu chuyện ngụ ngôn về một người ngu ngốc giàu có [trong Kinh
Tân Ước] mà không nghĩ tới xã hội của chúng ta. Chúng ta hăm hở làm ra thật nhiều
món đồ tinh xảo, xây những ngôi nhà cao hơn và to hơn, chế ra những phương tiện
vận tải nhanh hơn không phải vì những đồ vật đó làm cho cuộc sống của chúng ta
phong phú hơn mà vì chúng ta bị ám ảnh là phải sở hữu ngày một nhiều hơn. Lòng
tham – phấn đấu để càng ngày càng có nhiều đồ vật hơn – đã trở thành thói xấu
chủ yếu của nền văn minh phương Tây[4].
Những
lời kết án như thế - nhiều lời kết án đến nỗi người ta buộc phải đặt ra những
câu hỏi hiển nhiên như sau: Sự cải thiện to lớn về mặt vật chất, những loại thuốc
cứu người, nền giáo dục đại chúng, không còn nạn đói, việc xóa bỏ những
cơ cấu đã từng nô dịch những người nghèo khổ và quan niệm về quyền tự do cá
nhân, đều xuất phát từ lòng tham, từ sự thèm muốn, từ ước muốn làm hại những
người đồng bào của mình hay sao? Phải chăng lợi ích kinh tế do hậu duệ của những
người đã từng là nô lệ thu được trong hai trăm năm qua chỉ là vết chàm về mặt đạo
đức?
Xin
để cho độc giả tiểu luận này tự trả lời những câu hỏi đó. Nhưng quan điểm của
tôi là: Chủ nghĩa tư bản đã mang lại những cải thiện kinh tế to lớn cho những
dân tộc thực hành nó, đấy là điều không thể tranh cãi. Nhưng, nếu nhiều người –
đặc biệt là những người có quyền đưa ra chương trình nghị sự cho xã hội - coi
thị trường là môn bài của lòng tham, là sự đồi bại và phá sản về mặt đạo đức,
thì các dân tộc sẽ tiếp tục lao vào chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa nhà nước can
thiệp và thị trường tự do sẽ thoái hóa thành lừa đảo, hối lộ và tham nhũng, đấy
là chợ đen[5].
Trong
khi thiết lập những tiêu chí đánh giá chủ nghĩa tư bản, tôi tin rằng thị trường
tự do phải vượt qua được hai cuộc kiểm nghiệm. Thứ nhất, nó phải phù hợp với
Nguyên tắc Vàng được vinh danh từ thời cổ đại; thứ hai, xã hội tạo ra hệ thống
tư bản chủ nghĩa phải là xã hội đức hạnh đáp ứng được một số nguyên tắc đạo đức
nhất định.
Sống
với Nguyên tắc Vàng
Trong
nền kinh tế cướp bóc, khó mà thực hiện được Nguyên tắc Vàng: “Cái mình không
muốn, chớ làm cho người[6]”.
Nếu chỉ có thể giành được tài sản bằng cách moi của người khác thì rõ ràng là
người ta không thể trở thành giàu có mà vẫn có thể sống theo Nguyên tắc Vàng được.
Người ta hoặc là phải ăn cắp (mặc dù không ai muốn bị gọi là kẻ cắp) hoặc là phải
sống trong cảnh nghèo nàn (đấy là lí do vì sao nghèo lại được tư tưởng tôn giáo
cổ truyền coi trọng đến như thế). Tư duy cổ truyền tuyên bố rằng xã hội được
chi phối bởi Nguyên tắc Vàng phải là xã hội nghèo nàn; và dễ hiểu vì sao một đầu
óc bị chi phối bởi những tư tưởng như thế sẽ coi xã hội tư bản là xã hội cướp
bóc.
Nhưng
như Lippmann, Mises, Gilder và những người khác đã biện luận, sự thịnh vượng của
thị trường tự do không phải là kết quả của trộm cắp mà là kết quả của sự hợp
tác và lòng tin giữa các cá nhân với nhau. Luận điểm của Lippmann về xã
hội tốt đẹp là xã hội đức hạnh, xã hội hợp tác, một xã hội chỉ có
thể trở thành hiện thực khi thực hành những nguyên tắc của thị trường tự do.
Ông viết như sau:
Tất
cả chuyện này [sự thịnh vượng của phương Tây] không phải là do sự khai sáng tự
phát hay cơn bốc đồng của lòng tốt. Bản tính của con người không thể thay đổi một
cách đột ngột được. . . Đây là lần đầu tiên trong lịch sử loài người con người
tìm được biện pháp làm giàu, trong đó vận may của tha nhân lại làm gia tăng vận
may của chính họ. Khi David Hume có thể nói (1742) … “Tôi xin đánh bạo mà nói rằng,
không chỉ như một người bình thường mà như một thần dân của nước Anh, tôi cầu
nguyện cho nền thương mại thịnh vượng của nước Đức, nước Tây Ban Nha, nước
Italy và thậm chí của chính nước Pháp nữa” thì đấy là khoảnh khắc vụt sáng
trong đêm dài lịch sử của chinh phục, cướp bóc và áp bức. Trước khi Nguyên tắc
Vàng trở thành hợp lí về mặt kinh tế, nhiều người đã không nghĩ như thế[7].
Muốn
làm giàu trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, như Gilder nhận xét, trước tiên người
ta phải cho chứ không phải là nhận. “Quà tặng của chủ nghĩa tư
bản tiên tiến trong nền kinh tế tiền tệ được gọi là đầu tư . . . . Món quà đó sẽ
chỉ thành công trong chừng mực nó mang tính vị tha và xuất phát từ việc nhận thức
được nhu cầu của tha nhân”[8]. Mises viết:
Phục
vụ người tiêu dùng là cách làm giàu duy nhất. Nếu không đầu tư vào những dây
chuyền có thể phục vụ tốt nhất nhu cầu của xã hội thì nhà tư sản sẽ đánh mất vốn
liếng ngay lập tức[9].
Trong
hệ thống tự do như thế, người ta chỉ nhận được thù lao khi người bên cạnh cũng
nhận được thù lao. “A” được chỉ lợi — đấy là nói khi tự do lựa chọn
thắng thế — bằng cách cung cấp cho “B” sản phẩm hoặc dịch vụ mà “B” cảm thấy là
đáp ứng được nhu cầu hay sở thích của mình[10].
Nếu tương tác này không còn thì mạng lưới hợp tác phức tạp làm nhiệm vụ củng cố
hệ thống tư bản cũng sụp đổ ngay lập tức. Nếu không tin vào nhà sản xuất thì
người bán sẽ không bán, nếu không tin vào sản phẩm hoặc dịch vụ hiện có thì người
tiêu dùng sẽ không mua. Không thể đầu tư nếu những người có thể tiết kiệm và đầu
tư không còn tin, cũng như chẳng còn quan tâm tới tương lai nữa.
Như
Leonard Read đã chứng minh trong bài báo: Tôi, một chiếc bút chì,
công bố hồi năm 1958 - rằng ngay cả những sản phẩm sơ đẳng được sản xuất trong
hệ thống tư bản chủ nghĩa cũng là kết quả của sự hợp tác của hàng ngàn người,
thậm chí kể cả những người do tín ngưỡng hoặc chỉ nhìn thấy thôi mà có thể ghét
nhau rồi. Đấy là sức mạnh của thị trường tự do. Không phải ngẫu nhiên mà, như
Hans Sennholz đã chỉ rõ, thế kỉ XIX, một thế kỉ từng bị những người phê phán
coi là một trăm năm bóc lột lại là thế kỉ hòa bình nhất trong lịch sử loài người[11].
Nền
tảng của đạo đức
Vào
năm 1776, khi Adam Smith trình bày luận điểm của ông trong tác phẩm Tài sản của
các quốc gia (The Wealth of Nations), ông đã nhận ra rằng trật tự thị trường tự
do không xuất phát từ những người hám lợi, tham lam và ác ý mà xuất phát từ xã
hội, trong đó những giá trị đạo đức được coi là quan trọng, xuất phát từ xã hội,
nơi óc sáng tạo, sự đồng cảm, tính tiết kiệm và trì hoãn thỏa mãn trong hiện tại
để được tưởng thưởng trong tương lai, được mọi người coi là đức hạnh. Trật
tự như thế đã được hình thành ở một nước Anh Mới theo Thanh giáo, đấy là nơi mà
đức hạnh - có vai trò sống còn đối với sự hình thành thị trường tự do –
đã trở thành nền tảng cho khu vực tạo ra tinh thần Tự lực cánh sinh của Mĩ[12].
Thanh
giáo coi việc theo đuổi những lợi ích như thế (làm việc, tiết kiệm và kinh
doanh) là ý chúa trời và chỉ rõ rằng việc làm theo ý chúa này qua công việc
hàng ngày của mỗi người sẽ mang lại lợi ích cho xã hội nói chung.. . . . Đấy là
do người Thanh giáo … sẵn sàng trì hoãn sự thỏa mãn mà tư bản mới được tích lũy
còn đầu tư thì tạo ra những sản phẩm mới[13].
Ngược
lại, người ta có thể nói rằng những xã hội chỉ muốn trục lợi và có ít những phẩm
chất đạo đức được mô tả bên trên cũng là những xã hội có ít, thậm chí không có
tương lai kinh tế nào. Vì như Novak đã tuyên bố một cách đầy thuyết phục rằng
chủ nghĩa tư bản không phải là kết quả chung cuộc của chủ nghĩa duy vật. Chủ
nghĩa duy vật là thứ chủ nghĩa khát khao vô độ, muốn được thỏa mãn ngay lập tức,
trái ngược với thị trường tự do. Ông viết như sau:
Phát
triển kinh tế một cách bền vững không chỉ là sự dư thừa về mặt vật chất; nó xuất
phát từ và tiếp tục đòi hỏi người ta phải có một số phẩm hạnh. Nếu những phẩm hạnh
như thế không còn thì phát triển bền vững cũng sẽ tiêu ma. Nền văn hóa hưởng lạc,
chỉ nghĩ đến mình, có vẻ như sẽ không đầu tư cho tương lai của chính nó hoặc
không chịu thực hiện những hi sinh cần thiết cho sự thịnh vượng của chính nó[14].
Phát
triển kinh tế là kết quả của tự do
Mặc
dù tốc độ phát triển kinh tế ngoạn mục đã xảy ra cách đây hơn 200 năm, nhưng nếu
đặt hai thế kỉ đó trong dòng chảy hàng nghìn năm của lịch sử nhân loại thì đấy
cũng chỉ như là một chớp mắt mà thôi. Mức sống của những con người mà số phận
là phải sống trong đói nghèo và áp bức đã gia tăng nhanh chóng, có thể là quá
nhanh đối với phần đông những người đã tham gia hay bị lôi kéo vào trật tự tư bản
chủ nghĩa. Tự do kinh tế mang đến cho người ta nhiều lợi ích, nhưng ít người hiểu
được vì sao sự thịnh vượng lại gia tăng một cách bất ngờ đến như thế. Những người
sẵn sàng đi theo những triết lí cổ truyền, vốn đã bám chặt vào đầu óc của họ, dễ
dàng trở thành miếng mồi ngon cho những kẻ rao bán giải pháp cưỡng chế và chủ
nghĩa tập thể, coi đấy là con đường dẫn tới tương lai tốt đẹp hơn.
Nhưng
bóng ma của tự do đã thoát ra rồi và con người, ngay cả khi không hiểu rõ làm
sao mà tự do lại tạo cho họ cơ hội kinh tế, cũng đã được nếm hoa thơm trái ngọt
của nó. Vì từng cá nhân đã được tự do, gông xiềng - từng một thời trói buộc người
nô lệ, và thậm chí trói buộc cả những ông vua chuyên chế của họ nữa – trong thời
tiền tư bản ít nhất là đã tạm thời được tháo bỏ. Vì thế mà người ta có thể ước
mơ về một đời sống tốt đẹp hơn ở ngay chính nơi mà tổ tiên của họ từng phải chấp
nhận tình cảnh nghèo khổ.
Kinh
nghiệm của nền kinh tế tự do làm cho người ta vừa lạc quan lại vừa bi quan. Lạc
quan là vì, như đã thấy trong suốt 200 năm qua, tự do mang đến cho tất cả mọi
người một cuộc sống tốt đẹp hơn, và không còn thế lực có thể làm người ta phải
sợ hãi. Nhưng người ta cũng bi quan vì có quá nhiều người không hiểu được những
đức tính tốt đẹp của nền kinh tế tự do và vì vậy mà họ quay sang chủ nghĩa tập
thể và chủ nghĩa quốc gia với hi vọng rằng áp chế sẽ giúp họ thực hiện được những
giấc mơ của mình.
Nền
kinh tế tự do tạo điều kiện cho người ta trở thành những người đức hạnh, tạo điều
kiện cho người ta thể hiện tinh thần trách nhiệm và lòng trung thực và được tưởng
thưởng vì có những đức tính tốt đó, làm cho những người đồng bào của mình có một
đời sống tốt đẹp, giúp cho thế giới thoát khỏi dịch bệnh, đói nghèo và những
tai họa khác đang săn đuổi những kẻ yếu đuối nhất trong chúng ta. Nó thúc đẩy hợp
tác chứ không phải là xung đột, nó khuyến khích hòa bình chứ không phải là chiến
tranh.
Khi
Lippmann hô hào những đồng sự của mình quay lưng lại với cuộc vận động trở về với
chủ nghĩa quốc gia trong những năm 1930 thì ông đã bị nhiều bạn bè, thuộc phái
“tự do” chế giễu và tuyên bố là “tên phản động”. Nhưng hóa ra nhiều quan điểm
thấu triệt của ông lại là đúng đắn và nhiều dự đoán của ông về cuộc chiến tranh
sắp tới là chính xác. Hiện nay cũng vẫn còn đúng.
Thông
điệp của Lippmann và cũng là thông điệp mà 200 năm tự do từng tuyên bố là: Xã hội
tốt, một xã hội trong đó người dân có thể đấu tranh cho công lí, đức hạnh và một
đời sống tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người chỉ có thể trở thành hiện thực khi
người ta hành động nhằm “bảo vệ và đấu tranh nhằm hoàn thiện sự tự do của thị
trường”[15].
Đấy
không phải là một giấc mơ không tưởng vì những người tin vào không tưởng thì
cũng là những người tin rằng có thể ép buộc con người để họ trở thành hoàn thiện
hơn. Tôi không thể chấp nhận ý tưởng cho rằng vì một lí do nào đó con người sống
trong cái thế giới mà chúng ta đang thấy sẽ không còn muốn phạm tội nữa. Nhưng
thị trường tự do sẽ giúp đỡ con người - với tất cả những bất toàn của họ - xây
dựng được một thế giới thịnh vượng hơn, dễ chịu hơn, công bằng hơn và đức hạnh
hơn.
(Hết)
Nguồn:http://thitruongtudo.org.vn/detail/nhung-pham-chat-dang-quy-cua-nen-kinh-te-tu-do-phan-2.192
[5] Muốn
tìm hiểu kĩ về nền kinh tế bị nhà nước bóp nghẹt sinh ra thị trường chợ đen như
thế nào, xin đọc Antonio Martino, “Measuring Italy’s Underground Economy,” Policy
Review (Spring, 1981), và mô tả của Ken Adelman về thị trường chợ đen ở
nước Tanzania xã hội chủ nghĩa trong “The Great Black Hope,” Harper’s,July,
1981.
[6] Dịch
thoát ý câu “Do not that to another, which thou wuoldest not have tothy
selfe”. Tại phương Đông trước đó cả hai ngàn năm Khổng tử đã nói: Kỉ
sở bất dục vật thi ư nhân, nghĩa là cái mình không muốn, chớ làm
cho người.
[10] Trong
xã hội kế hoạch hóa, tức là xã hội mà chính phủ thực hiện việc chọn lựa về mặt
kinh tế cho các công dân của họ thì người dân phải “chọn” bất cứ thứ gì chính
phủ cho họ. Nhưng trong những điều kiện như thế sản phẩm và dịch vụ thường
không đáp ứng được ước muốn và kết quả là người tiêu dùng bị chèn ép, bất mãn.