Phạm
Nguyên Trường dịch
Cách
đây ba mươi năm không ai có thể nghĩ đến việc đưa vào khoa luật học khái niệm
“nhà nước toàn trị”: không phải vì rằng ý kiến về một nhà nước như thế chưa từng
xuất hiện (nói thế là sai!), mà một chế độ như thế có vẻ như không thể nào khả
thi được và không ai dám làm như thế. Nếu có một kẻ nào đó “bịa” ra nó (thí dụ
như nhân vật Sigalev trong Lũ người quỉ ám của Dostoievsky!) thì mọi người sẽ
nói ngay: trên trái đất không làm gì có những kẻ bất lương và ngu xuẩn như thế,
không thể có những cơ quan nhà nước khủng khiếp đến như thế, cũng không đào đâu
ra phương tiện kĩ thuật để có thể xây dựng nên một cơ chế chính trị bao trùm
lên tất cả, thâm nhập vào tất cả và cưỡng bức được tất cả mọi người như thế.
Nhưng nay thì chế độ toàn trị đã hiện hữu như là một sự kiện lịch sử và chính
trị và chúng ta buộc phải tính đến: người đã có, các cơ quan đang được xây dựng
và kĩ thuật cũng đã sẵn sàng.
Chế
độ toàn trị là gì? Đấy là chế độ chính trị can thiệp một cách vô giới hạn vào đời
sống của các công dân, một chế độ tìm cách quản lí và điều tiết một cách thô bạo
toàn bộ hoạt động của tất cả các thần dân của mình. Từ “totus” trong tiếng
Latinh có nghĩa là “toàn bộ”. Nhà nước toàn trị nghĩa là nhà nước bao trùm lên
tất cả. Nó xuất phát từ quan niệm rằng sáng kiến cá nhân không những là không cần
thiết mà còn có hại, tự do là khái niệm nguy hiểm và không thể chấp nhận được.
Có một chính quyền trung ương: chính quyền này phải biết hết, dự đoán hết, lập
kế hoạch hết và chỉ đạo hết. Nhận thức pháp luật thông thường xuất phát từ quan
điểm: cái gì không cấm thì đều được phép làm, trong khi chế độ toàn trị nhồi sọ
vào đầu óc người ta điều ngược lại: tất cả những gì chưa có qui định thì đều bị
cấm. Trong khi nhà nước bình thường bảo: mỗi người đều có lĩnh vực quan tâm
riêng, trong lĩnh vực đó người ta được tự do, thì nhà nước toàn trị tuyên bố:
chỉ tồn tại quyền lợi của nhà nước, mỗi người phải có trách nhiệm gắn bó với
quyền lợi ấy. Trong khi nhà nước bình thường cho phép: tự do tư tưởng, tự do
tôn giáo, tự do xây dựng cuộc sống theo ý mình thì nhà nước toàn trị yêu cầu:
suy nghĩ theo qui định, không được theo tôn giáo, xây dựng đời sống nội tâm
theo chỉ đạo của cấp trên. Nói cách khác: ở đây người ta quản lí tất, con người
bị nô dịch về mọi phương diện, tự do trở thành tội lỗi và bị trừng phạt.
Như
vậy bản chất của chế độ toàn trị không phải nằm ở hình thức nhà nước (dân chủ,
cộng hoà hay độc tài) mà ở khối lượng công việc quản lí: quản lí toàn diện các
mặt của đời sống. Nhưng sự quản lí toàn diện như thế chỉ có thể thực hiện được
dưới một chính thể chuyên chế nhất quán, dựa trên cơ sở thống nhất về quyền lực,
một chính đảng duy nhất, sự độc quyền về sử dụng lao động, tất cả mọi người phải
theo dõi và tố cáo lẫn nhau và một chế độ khủng bố tàn bạo. Cách tổ chức quản
lí như thế có thể khoác cho bộ máy nhà nước bất kì hình thức nào, đấy có thể là
chế độ Xô-viết hay liên bang, cộng hoà hay bất kì hình thức nào khác cũng được.
Điều quan trọng không phải là hình thức nhà nước mà là tổ chức quản lí bao trùm
lên tất cả, từ một căn phòng trong thị xã cho đến một túp lều ở nông thôn, từ
tâm hồn của một cá nhân cho đến một phòng thí nghiệm khoa học, từ ý tưởng bay bổng
của một nhạc sĩ cho đến phòng điều trị trong một bệnh viện, một thư viện, một tờ
báo, một con thuyền đánh cá cho đến phòng xưng tội trong một nhà thờ.
Như
thế có nghĩa là chế độ toàn trị không dựa trên các đạo luật căn bản mà tồn tại
trên cơ sở các chỉ thị, nghị quyết, hướng dẫn của đảng. Vì không có luật cho
nên chỉ thị của đảng chính là luật. Vì về hình thức các cơ quan nhà nước vẫn
còn nên các cơ quan này chỉ là bình phong cho chế độ chuyên chế của đảng mà
thôi. Các “công dân” cũng vẫn còn nhưng đấy thực chất chỉ là chủ thể của những
nghĩa vụ (không phải là quyền!) và đối tượng của các chỉ thị và nghị quyết của
đảng; nói cách khác: cá nhân con người chỉ là những cỗ máy, chỉ là những kẻ
truyền bá nỗi sợ hãi và giả vờ trung thành với chế độ. Đây là một chế độ mà
trong đó không có chủ thể của pháp luật, không có luật pháp, không có nhà nước
pháp quyền. Ở đây nhận thức pháp lí được thay thế bằng các cơ chế tâm lí: đói
khát, sợ hãi, đau khổ và nhục mạ, còn lao động sáng tạo được thay bằng lao động
cưỡng bách của thời kì chiếm nô.
Vì
vậy chế độ toàn trị không phải là chế độ nhà nước cũng chẳng phải là chế độ
pháp trị. Nó đươc những người duy vật lập ra và tồn tại dựa trên cơ chế phi
nhân và nô dịch “thể xác – tâm hồn”; dựa trên những mệnh lệnh có tính đe doạ giữa
cai ngục và nô lệ, dựa trên những mệnh lệnh tuỳ tiện của cấp trên. Đấy không phải
là một nhà nước có công dân, có pháp luật và chính phủ; đấy là một xã hội đã bị
thôi miên; đấy là một hiện tượng kinh khủng và chưa từng có trong lịch sử, là một
xã hội được cố kết bởi nỗi sợ hãi, bản năng và sự tàn bạo chứ không phải bởi luật
pháp, tự do, lương tri, quyền công dân và nhà nước.
Nếu
vẫn phải nói về hình thức của tổ chức này thì đấy không phải là pháp trị, cũng
chẳng phải là vô pháp mà là chế độ chuyên chế chiếm nô rộng lớn chưa từng có và
cũng bao trùm chưa từng có.
Nhà
nước pháp quyền đặt cơ sở trên sự công nhận con người cá nhân, một cá nhân có
tâm hồn, được tự do và tự chủ về lương tâm và công việc của mình, nghĩa là nhà
nước đặt cơ sở trên sự nhận thức pháp lí đúng đắn. Chế độ toàn trị, ngược lại,
dựa vào sự đe doạ. Dân chúng bị đe doạ đủ thứ: thất nghiệp, thiếu thốn, chia
lìa với người thân, chết chóc, bắt bớ, tù đày, thẩm vấn, lăng mạ, đánh đập, tra
tấn, lưu đầy, chết trong trại cải tạo vì đói, rét và lao động khổ sai. Dưới áp
lực của những nỗi sợ hãi như thế họ còn bị thôi miên: phục tùng tuyệt đối, thế
giới quan duy vật, vô thần, thường xuyên tố giác, sẵn sàng chấp nhận mọi điều dối
trá và phi đạo đức, chấp nhận sống trong cảnh đói rét và làm lụng đến kiệt sức.
Hơn thế nữa, họ còn bị thôi miên về nhiệt tình cách mạng và cảm giác về tính ưu
việt so với tất cả các dân tộc khác; nói một cách khác: thói tự mãn về sự điên
rồ và ảo tưởng về thành công của chính mình. Dưới ảnh hưởng của sự thôi miên
mang tính khủng bố như thế họ trở thành những người tin tưởng mù quáng vào chủ
nghĩa cộng sản phi tự nhiên, tự cao tự đại và coi thường tất cả những gì không
phải là Nga (Xô-viết! Cộng sản!)
Quá
trình thôi miên diễn ra đã lâu, hàng chục năm, bao nhiêu thế hế; nó đã làm băng
hoại tâm hồn con người; họ không còn biết nguồn gốc của nó, họ không còn hiểu từ
đâu ra cái thói kiêu ngạo ấy; một số người trong bọn họ khi ra nước ngoài vẫn
còn phiêu lãng trong trạng thái tâm lí toàn trị bệnh hoạn, không tin ai và
khinh thường những người di cư trước đây và thỉnh thoảng lại rơi vào những cơn
co giật của thói tự mãn. Đấy là hậu quả của ba mươi năm thôi miên, chỉ có thể
xoá bỏ một cách từ từ. Đấy là những nét đặc trưng của cái chế độ quái gở và bệnh
hoạn đó.
Ghi chú
Ghi chú
[1]Ivan
Alexandrovich Ilyin sinh ngày 28 tháng 3 năm 1883 ở Moskva và mất tại Thuỵ Sĩ
vào ngày 21 tháng 12 năm 1954. Ông là một nhà tư tưởng, nhà luật học và chính
trị học lớn của nước Nga, là tác giả của hơn 40 đầu sách và 300 bài báo viết bằng
tiếng Nga và tiếng Đức. Do những hoạt động chống chính quyền cộng sản, năm 1922
Ilin bị trục xuất khỏi Liên Xô. Trong những năm 1922-1934 ông là giáo sư Viện
nghiên cứu Nga ở Berlin, đồng thời là tổng biên tập tạp chí Tiếng chuông Nga
(1927-1930). Năm 1938, vì tránh sự đàn áp của Gestapo (cơ quan mật vụ Quốc xã),
ông chuyển sang Thuỵ Sĩ và sống ở đó đến năm 1954. Bài báo này được viết vào cuối
những năm 40 của thế kỉ trước.
Nguồn:http://www.danchimviet.info/archives/30882/ivan-alexandrovich-ilyin-%E2%80%93-ba%CC%80n-v%E1%BB%81-ch%E1%BA%BF-d%E1%BB%99-toan-tr%E1%BB%8B/2011/03