Peter Hill
Đinh Tuấn Minh
dịch
Hầu
hết chúng ta đều đồng ý rằng chủ nghĩa tư bản tốt hơn các hệ thống kinh tế
khác, chẳng hạn chủ nghĩa xã hội, về khả năng cung ứng hàng hóa và dịch vụ. Dù
vậy, quyền tư hữu và nền kinh tế thị trường vẫn bị nhiều người chỉ trích. Họ
cho rằng nên đưa thêm nhiều yếu tố xã hội chủ nghĩa hoặc chí ít là trao thêm
nhiều quyền lực chỉ huy nền kinh tế cho chính phủ. Họ biện luận rằng mặc dù chủ
nghĩa tư bản tạo ra nhiều hàng hóa theo nghĩa vật chất thuần túy, nhưng đạo đức
lại không song hành với quá trình này. Nghĩa là, chủ nghĩa tư bản không đáp ứng
được những tiêu chuẩn cơ bản về công bình (justice).
Bài
viết này phản bác lại quan niệm trên thông qua việc xem xét một số lĩnh vực mà
tại đó các khía cạnh đạo đức phát triển song hành với thị trường. Lập luận này
không có nghĩa là một xã hội dựa trên nền kinh tế thị trường tự do đồng nhất với
một xã hội đạo đức; mọi người người có thể hành xử một cách có đạo đức hay
không có đạo đức trong một xã hội dựa trên thị trường tự do giống như cách họ
hành xử trong xã hội dựa trên các hệ thống khác. Tuy vậy, chủ nghĩa tư bản vẫn
có một số ưu điểm đạo đức mà các hệ thống kinh tế khác thiếu.
Mặc
dù nền kinh tế thị trường vẫn thường được xem như một phương thức quản lý đối
chọi với phương thức quản lý tập trung hay mô hình sở hữu nhà nước về phương tiện
sản xuất, nó không phải là một chế độ cứng nhắc như chủ nghĩa xã hội hay chủ
nghĩa cộng sản. Cái chúng ta vẫn gọi là chủ nghĩa tư bản hay một xã hội dựa
trên thị trường tự do là một xã hội dựa trên các quyền tư hữu. Cá nhân có thể sở
hữu, mua và bán tài sản của họ (gồm cả lao động của họ) miễn là họ không có
hành vi lừa đảo. Và họ được tự do và toàn quyền sử dụng quyền tư hữu đó miễn là
các hành động của họ không gây hại cho người khác. Cá nhân có thể trao đổi hay
chuyển nhượng tài sản của họ với người khác, nhờ đó thị trường được hình thành.
Quá trình mua bán trên thị trường không bị điều khiển bởi ai cả. Để vận hành,
nó chỉ cần một cơ chế rõ ràng, đảm bảo các quyền tư hữu cho mọi người.
Chủ
nghĩa tư bản mang trong mình khả năng đáp ứng quyền tự do chọn lựa, khuyến
khích sự hợp tác, đề cao tính trách nhiệm, nâng cao mức sống cho hầu hết mọi
người trong xã hội, và kiểm soát, hạn chế việc lạm dụng quyền lực.
Tự
do lựa chọn
Hệ
thống kinh tế thị trường hầu như không áp đặt một lối sống lý tưởng nào. Các
hình thái xã hội khác có thể áp đặt hay cấm đoán các hình thức hợp tác xã, hình
thức cộng đồng, hay tổ chức gia đình trong sản xuất kinh tế. Nhưng trong nền
kinh tế dựa trên tư hữu, rất nhiều dạng thức tổ chức có thể cùng tồn tại song
hành. Nếu ai đó thích hình thức hợp tác xã, họ có thể áp dụng; nhưng điều này
không ngăn cản việc sử dụng các dạng thức tổ chức sản xuất khác. Và, nếu ai đó
muốn phớt lờ thị trường hoặc muốn tạo dựng các thể chế khác thì anh ta cứ
việc làm thế.
Lịch
sử cho thấy rằng tồn tại một số nhóm người lựa chọn phần lớn hoạt động kinh tế
của họ nằm ngoài thị trường. Một nhóm như thế là cộng đồng người Hutterite sống
ở phía Bắc vùng đồng bằng rộng lớn miền Tây nước Mỹ và Canada. Điều đáng lưu ý
là có tới hơn 200 cụm người Hutterite sống bằng nghề nông. Họ đã thành công
trong việc duy trì và mở rộng cộng đồng của mình. Nhưng họ lại hoàn toàn xa lạ
với hình thức kinh tế tư bản. Tất cả tài sản, ngoại trừ những đồ vật cá nhân cơ
bản, trên vùng đất của người Hutterite đều là của chung. Tất cả thu nhập được
chia đều cho mọi người và mọi lao động đều không hưởng lương.
Người
Hutterite đã thiết lập các cụm dân cư của mình mà không cần bất kỳ sự chấp thuận
trước đó của ai trong xã hội. Chẳng cần ủy ban, cơ quan chính phủ, hay những
công dân ưu tú nào phải ngồi lại với nhau để quyết định cấp phép cho cách sống
của người Hutterite. Quyền tự do lựa chọn chính là một điểm độc đáo nhất của xã
hội có nền kinh tế thị trường tự do.
Trái
lại, trong một xã hội có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, mọi người không được
phép tự do tiến hành các giao dịch trên thị trường. Trao đổi tự nguyện bị khống
chế vào các mục tiêu mà nhà nước cho là cần thiết. Và không nghi ngờ gì, nhà nước
sẽ khống chế hoạt động của các cộng đồng như cộng đồng người Hutterite nếu như
nhà cầm quyền không thích kiểu sống của cộng đồng người Hutterite.
Hợp
tác vs. Xung đột
Hệ
thống tư hữu, thị trường tự do thường được gắn thêm nhãn cạnh tranh. Tuy thế, một
trong những ưu điểm chính của nền kinh tế thị trường là khuyến khích sự hợp tác
thay vì thuần túy cạnh tranh. Cạnh tranh dĩ nhiên tồn tại trong nền kinh tế thị
trường, nhưng cạnh tranh là hiện tượng phổ biến ở bất kỳ xã hội nào có sự khan
hiếm.
Trên
thương trường, những kẻ cạnh tranh thành công phải hợp tác hay làm thỏa mãn nhu
cầu khách hàng của họ. Trong hệ thống đảm bảo quyền tư hữu, các cá nhân phải
đưa ra các đề nghị, thỏa thuận làm ăn hấp dẫn hơn các đối thủ thì mới thành
công. Họ không thể bắt ép mọi người phải mua sản phẩm hay dịch vụ của họ. Họ phải
tập trung trí tuệ và công sức để tìm cách thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Và
ai là người làm tốt nhất sẽ là người thành công. Những người tham gia nền kinh
tế thị trường – người bán và người mua – liên tục tìm kiếm những lĩnh vực mà họ
có thể đi song hành với nhau thay vì mất thời gian vào những lĩnh vực chỉ có bất
đồng.
Trái
lại, dưới hệ thống kinh tế tập thể, các phần thưởng thường đến từ sự đấu đá.
Trong cái hệ thống đó, những kẻ có địa vị chính trị cao thường ít có động lực
tìm kiếm những lĩnh vực đòi sự đồng thuận. Nói chung, họ dễ đạt được thành công
hơn bằng cách hạ thấp uy tín đối thủ để củng cố địa vị của mình. Họ chỉ tìm kiếm
sự đồng thuận khi các đối thủ mạnh hơn họ.
Sự
chia rẽ gây ra bởi quyết định tập thể có thể thấy rõ qua minh họa về các cuộc
tranh luận gay gắt xoay quanh việc giảng dạy nguồn gốc loài người. Hội đồng trường
– vốn phải đưa ra các quyết định tập thể – phải quyết định xem dạy học sinh rằng
loài người do Chúa trời tạo ra hay là do sự tiến hóa. Đây là các quyết định gây
tranh cãi. Những người không đồng ý với quyết định của hội đồng trường bắt đầu
viết bài lên các tờ báo, vận động hành lang, thuê luật sư, … nói chung là trở
nên rất bức xúc. Đây là điều không thể tránh khỏi khi phải đưa ra các quyết định
tập thể về các vấn đề nhạy cảm, vì các quyết định tập thể, gồm cả quyết định
đưa ra bởi đa số, luôn đối nghịch với mong muốn của nhóm thiểu số. Trong trường
hợp này, những người ra quyết định bị kẹt trong tình huống không phân thắng bại.
Nếu hội đồng cho phép dạy thuyết Chúa sáng thế, những người ủng hộ thuyết tiến
hóa sẽ nổi giận. Nếu hội đồng quyết định dạy thuyết tiến hóa thì những người ủng
hộ thuyết Chúa sáng thế sẽ cảm thấy bị xúc phạm.
Tiếp
theo, chúng ta xem xét việc trở thành người ăn chay hay người ăn mặn. Trong vấn
đề này, một số người cảm thấy còn nặng nề hơn trường hợp tranh luận về nguồn gốc
loài người. Tuy nhiên, khả năng gây tranh cãi của vấn đề này là rất ít. Chế độ
ăn uống không cần tập thể quyết định. Vì vậy mọi người có thể sống với nhau thoải
mái hơn. Một người tin việc tránh ăn mặn là khỏe hơn và hợp đạo lý hơn cứ tiếp
tục việc ăn chay của họ mà không cần phản đối người ăn mặn. Họ có thể tìm những
nhà cung cấp và siêu thị bán đồ ăn chay để thỏa mãn mong muốn của họ. Bạn có thể
thấy người ăn chay và người ăn mặn mua hàng cùng một cửa hàng, đẩy xe hàng bên
nhau mà không thấy sự xung đột nào. Mọi người có được cuộc sống yên vui chính
là vì không có quyết định áp đặt của tập thể lên họ.
Hệ
thống kinh tế thị trường tạo ra một xã hội hài hòa. Đây là một điều rất lý thú
đối với những người quan tâm tới các vấn đề đạo đức. Dưới hệ thống đảm bảo quyền
tư hữu và thị trường tự do, những người dù khác nhau về văn hóa, giá trị, và thế
giới quan vẫn có thể sống cùng nhau mà không có nhiều hiềm thù. Trật tự thị trường
chỉ cần sự đồng thuận tối thiểu về các mục tiêu cá nhân hay đích cuối cùng cho
toàn xã hội.
Trái
lại, các thể chế quyền lực khác lại định hướng quá mức tới các mục tiêu được
quyết định bởi chính quyền trung ương. Sự tồn tại của những thế chế như vậy đòi
hỏi một sự đồng thuận sâu rộng về cái gì là “tốt” cho xã hội. Do hệ thống kế hoạch
hóa tập trung dựa trên việc trao đổi tự nguyện trong công việc, nó buộc phải chỉ
đạo các cá nhân lao động để đạt được các mục tiêu chung; và các mục tiêu chung
này thường không nhất thiết cũng là mục tiêu mà công nhân và người tiêu dùng
mong muốn. Chẳng hạn như việc chọn nghề ở Liên Xô. Người dân có rất ít tự do
trong lựa chọn nghề nghiệp và khi một khi đã được giao cho làm một việc rồi thì
rất khó để chuyển sang làm việc khác.
Một
lý do nữa giải thích cho việc tại sao một xã hội dựa trên nền tảng hệ thống đảm
bảo quyền tư hữu lại có được sự hài hòa là: hệ thống này bắt buộc mọi người phải
có trách nhiệm với việc mình làm. Dưới chế độ tư hữu, một người gây thương tật
cho người khác hoặc gây hại tới tài sản của người khác thì người đó phải chịu
trách nhiệm với những việc mình gây hại, và tòa án sẽ giám sát việc thực thi
trách nhiệm đó. Quan niệm “phải trả giá cho thiệt hại mình gây ra” có tác dụng
răn đe mọi người, làm cho mọi người thấy rằng phải sống cẩn thận và có trách
nhiệm hơn. Khi mỗi người có ý thức trách nhiệm với hành động của họ, tự do cá
nhân có thể được bảo đảm.
Trái
lại, hệ thống kế hoạch hóa tập trung không hề đề cao trách nhiệm cá nhân. Mặc
dù trên lý thuyết chính phủ chịu trách nhiệm đảm bảo các quyền cho dân chúng,
nhưng các quyền trong hệ thống đó rất mập mờ, không rõ ràng. Chính phủ đó thực
chất chỉ đáp ứng nguyện vọng, quyền lợi và đòi hỏi của thiểu số những người nắm
quyền lực, còn thì rất ít quan tâm đến quyền lợi và mong muốn của đa số không
có quyền lực. Ngay cả trong các thể chế dân chủ, nếu chính phủ nắm quyền ban
phát đặc ân, những nhóm nắm trong tay nhiều quyền lực sẽ cố gắng lợi dụng điều
đó để hưởng lợi. Thứ mà những nhóm này lấy đi có thể rất rất có giá trị đối với
những người đã bị tước đoạt.
Thế
giới quan tổng-bằng-không và thế giới quan tổng-dương
Rất
nhiều các lý lẽ phản đối quyền tư hữu đều dựa trên luận điểm phân phối thu nhập.
Những người có thiện ý thường nghĩ rằng thật là bất công khi có một số kẻ sống
xa hoa trong khi những người còn lại sống trong bần hàn. Tôi cũng đồng tình với
một điểm rằng những người giàu cần có trách nhiệm đạo đức trong việc chia sẻ của
cải của họ với những người nghèo khổ. Nhưng điều đó không có nghĩa là nhà nước
nên đứng ra thực hiện việc phân phối của cải đó.
Khá
nhiều người phản đối tình trạng chênh lệch giàu nghèo bắt nguồn từ một hiểu lầm
cơ bản về nguồn gốc của tài sản. Họ tin rằng những người có được cuộc sống xa
hoa là vì có những người khác sống trong sự nghèo khổ. Về cơ bản điều này không
đúng.
Thế
giới chúng ta sống không phải là thế giới tổng-bằng-không. Nghĩa là, của cải
trên thế giới không bị giới hạn đến mức phải lên kế hoạch phân chia nó cho tất
cả, với một số người có nhiều hơn và một số có ít hơn. Chúng ta có thể có tài sản
bằng cách lấy của người khác. Nhưng chúng ta có thể tạo ra của cải bằng cách
làm việc tích cực thật sự. Khi đó, của cải sẽ là phần gia tăng đóng góp vào sự
thịnh vượng của xã hội. Từ sau cuộc Cách mạng công nghiệp, tỉ lệ của cải trên đầu
người tăng đáng kể. Điều đó chứng tỏ rằng của cải tăng lên chủ yếu là nhờ lao động
chứ không phải lấy của người khác.
Trong
một hệ thống nơi các quyền tư hữu được xác định và bảo vệ, chỉ có một loại giao
dịch duy nhất mọi người tham gia là các giao dịch tổng-dương
hay các giao dịch tạo ra của cải vì tất cả các bên tham gia giao dịch đều tin rằng
họ sẽ trở nên giàu có hơn. Trong một xã hội mà mọi người được đảm bảo quyền tư
hữu, họ sẽ tiến hành việc trao đổi chỉ dưới hình thức tự nguyện, và họ sẽ chỉ
làm thế khi họ thấy điều đó sẽ cải thiện đời sống của họ. Các bên đối tác cũng
vậy, họ chỉ tham gia giao dịch khi họ tin rằng họ sẽ có lợi từ việc trao đổi.
Một
thế giới tổng-bằng-không, nơi một người giàu có chỉ duy nhất bằng cách làm giảm
tài sản của những người còn lại, chỉ xảy ra khi các quyền sở hữukhông được
đảm bảo. Trong thế giới như thế, tồn tại những kẻ – hoặc bằng cách cướp bóc hoặc
bằng cách sử dụng quyền lực của chính phủ – có được tài sản bất chấp sự cho
phép của người chủ tài sản.
Một
vài người phê phán rằng rất nhiều giao dịch trên thị trường không phải là hoàn
toàn tự nguyện, rằng có nhiều người bị hoàn cảnh thúc ép phải tham gia vào những
giao dịch mà họ không hề muốn. Chẳng hạn, họ lập luận rằng người chủ bóc lột những
người làm thuê bằng cách trả lương cho họ thấp nhất có thể. Tuy nhiên ở một xã
hội mà mọi người được làm việc tự nguyện, không có cưỡng ép, thì việc họ chấp
thuận những việc làm như vậy có nghĩa là không có mức lương nào tốt hơn. Thậm
chí không hề quá lời rằng người chủ đang mở ra cơ hội cho những người không
may. Ví dụ, nếu luật quy định rằng tiền lương tối thiểu là 4 đô la, thì người
chủ sẽ không thể thuê người để làm những công việc chỉ đáng giá 2 đô la. Đương
nhiên là những người chỉ làm được việc đáng giá 2 đô la sẽ mất đi cơ hội kiếm
tiền từ sức lao động của chính mình.
Cách
thức duy nhất chính phủ có thể trợ giúp những người kém may mắn kia là chia cho
họ tài sản được lấy từ người khác; điều này đối lập cách làm của khu vực tư
nhân là dựa trên sự đóng góp tự nguyện của các cá nhân. Ở trên ta đã công nhận
việc của cải thường được tạo ra bởi những người hữu sản, chứ không phải lấy từ
người khác, nên việc chính phủ phân phối lại của cải sẽ làm suy giảm nền tảng đạo
đức xã hội. Một người nỗ lực sáng tạo tạo ra thêm của cải mà không làm giảm sự
phồn thịnh của người khác thì xứng đáng được hưởng trọn thành quả của mình.
Hơn
nữa, dưới một hệ thống tư hữu dựa vào cơ chế thị trường, lượng tài sản mà bạn
tích lũy thêm phản ánh một cách tương đối lượng của cải bạn đã cung ứng cho người
khác. Trong nền kinh tế thị trường, cách duy nhất để trở nên giàu có là phải
làm hài lòng khách hàng. Và cách để trở nên cực kỳ giàu có là phải làm hài lòng
số đông khách hàng. Henry Ford đã thành công trong việc cung cấp cho số đông loại
xe ô tô thỏa mãn nhu cầu đi lại của họ với mức giá khá rẻ. Và ông ta đã trở nên
giàu sụ. Trái lại, Henry Royce lại chọn chỉ phục vụ những người thu nhập cao với
dòng sản phẩm ô tô đắt tiền. Và ông ta đã không thể thực sự giàu có. Việc trừng
phạt những người như Henry Ford bằng cách tước đoạt phần lớn tài sản của họ thật
sự là một hành động bất công.
Thật
đáng tiếc là thế giới quan sai lầm tổng-bằng-không vẫn khá phổ biến. Nhiều người
thảo luận về sự nghèo khó của Thế giới thứ ba tin rằng chỉ cần các nước giàu có
không giàu như vậy thì những nước nghèo sẽ trở nên giàu hơn. Mặc dù đúng là có
thể một số tài sản của một số người được lấy từ người khác, nhưng đây không phải
là điều phổ biến. Và nếu như điều này thực sự xảy ra, giải pháp tốt nhất là
chuyển đến một đất nước có chế độ bảo vệ quyền tư hữu.
Mỉa
mai thay, cách nhìn thế giới tổng-bằng-không làm cho tình trạng thêm tồi tệ. Những
người có cách nhìn đó thường ủng hộ chính sách sử dụng biện pháp chính trị để
tái phân phối quyền sở hữu trên qui mô rộng. Chính sách tái phân phối như thế
khuyến khích, hay chính xác hơn là buộc, mọi người tham gia vào cuộc tranh
giành. Chúng ta đều biết chiến tranh luôn luôn tốn công sức và tiền bạc cho dù
nó xảy ra trên chiến trường hay trong hành lang Quốc hội. Khi chính phủ có thể
cung ứng các ưu đãi thì sẽ có rất nhiều người dân tìm cách tranh giành những đặc
ân đó, đồng thời những người khác lại cố hết sức vận động để giữ những thứ họ
đang có. Kết quả là, của cải còn lại sau quá trình tái phân phối sẽ ít hơn so với
trước khi tái phân phối.
Quyền
lực
Những
bi kịch lớn nhất trong lịch sử loài người đều xảy ra khi một vài người có quyền
lực quá lớn so với người khác. Quyền lực này đôi khi là quyền lực kinh tế và
đôi khi là quyền lực chính trị. Nhưng trong bất kể trường hợp nào, quyền lực hạn
chế quyền tự do lựa chọn của người khác là nguyên nhân của sự bất hạnh, đau đớn
không gì diễn tả. Vậy thì kiểu thể chế nào phân chia quyền lực tốt nhất và ngăn
chặn những kẻ nắm quyền lạm dụng quyền lực của họ lên cuộc sống của những người
còn lại?
Câu
hỏi trên cần phải được trả lời trong bối cảnh hiện thực thế giới này vận hành
như thế nào. Bất kể một thể chế được hình thành ra sao thì luôn có một số người
nắm giữ quyền lực nhiều hơn những người còn lại. Vấn đề thực sự ở đây không phải
là tạo ra một thứ luật lệ có khả năng ngăn cản tuyệt đối một
người kiểm soát một ai đó khác mà thay vào đó là tạo ra một thể chế hạn chế tốt
nhất sự tập trung và lạm dụng quyền lực.
Lịch
sử có đầy những thí dụ về sự lạm dụng quyền lực trong tay nhà nước. Bởi vậy ta
nên nghi ngờ các thể chế dựa vào việc tập trung quyền lực lớn trong tay nhà nước,
ngay cả khi mục tiêu tuyên bố của nó là để hiệu chỉnh các bất công trong nền
kinh tế tư nhân. Những xã hội không có quyền tư hữu thường tập trung quyền lực
rất nhiều trong tay một số ít người. Và theo truyền thống, quyền lực đó thường
bị lạm dụng một cách tồi tệ.
Một
thể chế đáng được ủng hộ là một thể chế tại đó nhà nước có luật lệ rõ ràng để
ngăn chặn các cá nhân gây hại cho người khác, nhưng đồng thời nhà nước đó
cũng phải bị giới hạn để không gây hại cho các cá nhân. Một xã hội có chính phủ
có trách nhiệm trong việc xác lập và bảo vệ quyền tư hữu đồng thời các chức
năng của chính phủ bị giới hạn bởi hiến pháp là một kết hợp tốt. Một hệ thống
như thế sẽ phân tản quyền lực và kiềm chế các cá nhân khỏi việc gây hại cho người
khác.
Kết
luận
Còn
nhiều điều nữa để nói về tư hữu và hệ thống kinh tế thị trường. Một hệ thống được
xem là có đạo đức hơn nếu như nó khiến mọi người có trách nhiệm với hành động của
mình và khuyến khích mọi người giúp đỡ người khác thay vì khiến cho họ gây hại
cho người khác.
Thế
nhưng điều này không có nghĩa là hệ thống kinh tế thị trường có thể thay thế được
cho một xã hội nơi mọi người sống trên nền tảng lương tâm đạo đức. Đạo đức cá
nhân tất nhiên sẽ làm cho chủ nghĩa tư bản tốt hơn như điều nó làm với bất kỳ hệ
thống tổ chức xã hội nào. Sự trung thực, lòng trắc ẩn và sự đồng cảm làm cho thế
giới này tốt đẹp hơn bất kể chúng ta sống trong chính thể nào. Chủ nghĩa tư bản
khong hề phá hủy hay xóa bỏ những giá trị này. Khi xem xét các hệ thống kinh tế
khác nhau trong khuôn khổ đạo đức và luân lý, thì hệ thống dựa trên thị trường
và quyền tư hữu là hệ thống cho chúng ta nhiều lý do đáng muốn hơn. Thị trường
và đạo đức có thể bổ trợ lẫn nhau để duy trì một xã hội công bình.
(“Markets
and Morality”, The Freeman, 02-1989)
Nguồn:
http://www.talawas.org/?p=12135