Nhập môn Triết học chính trị - Plato (P2)

Posted on
  • Thứ Tư, 24 tháng 6, 2015
  • by
  • Minh Anh
  • in
  • Nhãn: ,
  • PLATO

    1. Sức mạnh tạo nên lẽ phải (Cộng hòa I)
    1.1. Quan điểm của Thrasymachus. Trong quyển I của tác phẩm Cộng hòa của Plato, Thrasymachus cho rằng sức mạnh tạo nên lẽ phải (“công bằng đơn giản chỉ là những gì có lợi ích cho kẻ mạnh hơn”)
    Thrasymachus đưa ra lý lẽ như sau:
    …trong tất cả các thành bang cùng một thứ, cụ thể là lợi ích của chế độ đã được thiết lập, là công bằng. Và tôi thừa nhận là, sức mạnh lớn hơn có thể được tìm thấy ở phía chế độ đã được thiết lập. Vì vậy, kết luận đúng đắn là, lợi ích thuộc về kẻ mạnh hơn là công bằng....
    Luận điểm sức mạnh tạo nên lẽ phải của Thrasymachus như sau:
    a.      Công bằng là bất cứ thứ gì thuộc về lợi ích của tầng lớp cai trị (“chế độ cai trị đã thiết lập”)
    b.      Tầng lớp cai trị luôn luôn là kẻ mạnh hơn
    c.      Do đó, công bằng luôn luôn là bất cứ thứ gì mà thuộc về lợi ích của kẻ mạnh hơn.
    Đối với mục đích của chúng ta, giả thiết đầu tiên thực sự quan trọng hơn kết luận. Giả thiết đầu tiên gợi ý rằng một chính quyền không thể hành động sai bao lâu nó thúc đẩy lợi ích của chính nó.
    Dường như Thrasymachus nghĩ rằng chính quyền luôn hành động để làm lợi cho chính mình:
    d.      “Mỗi chế độ cai trị có luật lệ của riêng nó vốn được thiết kế sao cho phù hợp với các lợi ích của nó”.
    Và điều này, cùng với (1) gợi ý là:
    e.      Luật pháp của một chế độ cụ thể luôn luôn công bằng (vì vậy các công dân của nó có nghĩa vụ phải tuân theo chúng)
    Tất cả điều này thực chất là yêu sách sau đây về thẩm quyền chính trị: bất cứ ai thực sự nắm giữ quyền lực chính trị thì cũng có nghĩa là nắm giữ quyền đó một cách hợp pháp (bao lâu họ hành động thúc đẩy lợi ích của chính họ). Nếu Thrasymachus đúng, thì chưa bao giờ có bất cứ sự khác nhau thực sự giữa thẩm quyền quy phạm (thẩm quyền hợp pháp, được biện minh về mặt đạo đức) và thẩm quyền mô tả (thẩm quyền thực tế), tức là trong thực tế bất cứ ai cai trị thì có thẩm quyền đạo đức để cai trị. Nếu vậy, hầu như chỉ có một sự khác biệt đơn thuần về mặt khái niệm giữa hai dạng thầm quyền, và chúng chưa bao giờ được tách rời trong thực tế.
    [Vì vậy, nếu Thrasymachus đúng, thì sự bất tuân dân sự không bao giờ được biện minh về mặt đạo đức – ví dụ, hành động của các nhà đấu tranh cho các quyền dân sự như MLK Jr. và Rosa Parks là mất đạo đức]

    1.2. Phản bác thứ nhất của Socrates
    Tại 339c (p.41), Socrates buộc Thrasymachus phải thừa nhận rằng:
    (A) Đôi khi những người cai trị thông qua những luật sai lầm vì chúng không mang lại lợi ích cho họ.
    Vì những người bị trị (theo Thrasymachus) luôn có nghĩa vụ đạo đức tuân theo luật, nên dẫn đến những người bị trị đôi khi bị ép buộc về mặt đạo đức phải làm điều mà không có lợi cho những người cai trị và điều này mâu thuẫn với giả thiết thứ nhất trong lập luận của Thrasymachus (công băng là bất cứ điều gì có lợi cho tầng lớp cai trị)
    Cleitophon đề nghị rằng điều mà Thrasymachus muốn nói không phải là, công bằng là những gì thực sự có lợi cho tầng lớp cai trị, mà công bằng là bất cứ điều gì mà tầng lớp cai trị tin là có lợi cho chính họ:
    “Cleitophon nói: nhưng, với “lợi ích của kẻ mạnh hơn” ông muốn nói là bất cứ điều gì mà kẻ mạnh hơn hiểu là có lợi cho họ”.
    Nhưng Thrasymachus bác bỏ sự sửa chữa này. Bác bỏ của ông như sau:
    (B) Nếu tầng lớp cai trị tạo ra một sai lầm về điều gì liên quan đến lợi ích của họ, thì tầng lớp đó không thực sự là tầng lớp cai trị.
    “... Một người cai trị, trong chừng mực anh ta là người cai trị, không bao giờ sai lầm, và bao lâu điều này còn đúng, thì anh ta ban hành điều gì tốt nhất cho anh ta, và …đây là điều mà thần dân phải làm. Do vậy, như tôi nói lúc đầu, tôi gọi đó là công bằng khi thực hiện điều gì mang lại lợi ích cho kẻ mạnh hơn”.

    1.3. Phản bác thứ hai của Socrates
    Bây giờ Socrates sử dụng (B) để chống lại Thrasymachus; đặc biệt, ông sử dụng nó để chỉ trích giả thiết 4 trong luận điểm ban đầu của Thrasymachus. Socrates cho rằng, những người cai trị, được xem như những người cai trị, chưa bao giờ hành động đơn thuần thúc đẩy lợi ích của riêng họ; mà đúng hơn, họ hành động chủ yếu để thúc đẩy lợi ích của những ai mà họ cai trị.
    “... tất cả những ai đứng ở vị trí cai trị, bao lâu họ còn là người cai trị, không xem xét hay xắp đặt lợi ích cho riêng của họ, nhưng mà là lợi ích của người dân mà họ cai trị; và họ làm, nói, hành động nhằm mang lại những gì tốt và phù hợp nhất với cho người bị trị ...”
    Lập luận của ông ở đây là:
    a.      Một nghệ thuật thì hoàn hảo. [ở đây Socrate đang nói về yêu sách (B) của Thrasymachus cho rằng – người cai trị mà có thể tạo ra sai lầm, thì anh ta không phải là người cai trị; bác sĩ mà có thể tạo ra sai lầm, thì anh ta không phải là bác sĩ…]
    b.      Nghệ thuật không quan tâm đến lợi ích riêng của nó, mà nó chỉ quan tâm đến lợi ích của các đối tượng của nó (ví dụ y học không tìm cách cải tiến y học, mà nó tìm cách để cải tiến sức khỏe)
    c.      “Nghệ thuật thì cai trị và mạnh hơn đối tượng của nó” ví dụ y khoa “cai trị và mạnh hơn” thể xác. 
    d.      Do đó, “không có khoa học hay tri thức nào khảo sát hay đề nghị lợi ích của kẻ mạnh hơn, nhưng mà là lợi ích của kẻ yếu hơn, tức đối tượng của nó)
    e.      Do đó, không có nghệ sĩ (ví dụ người cai trị, bác sĩ, hoa tiêu) xem xét hay đề nghị điều gì cho “lợi ích tốt nhất của chính họ; mà đúng hơn, họ “tìm kiếm điều gì là tốt cho thần dân của họ (người bị trị, bệnh nhân, thủy thủ).

    1.4. Phần còn lại của Quyển I
    Hai điều cần chú ý về quyển I….
    ·        Socrates cho rằng một người công bằng sẽ tìm kiếm một địa vị chính trị, không bởi vì sự giàu có và danh dự, mà chỉ để tránh hình phạt bị cai trị bởi ai đó tồi tệ hơn anh ta; anh sẽ tìm kiếm vị trí chính trị nếu anh ta sợ rằng không có ai khác có thể làm tốt hơn anh ta. Trong một xã hội của những người tốt, không ai muốn giữ vị trí công, bởi vì mọi người tin rằng bất cứ ai cũng có thể làm việc đó tốt như chính anh ta.
    ·        Phần còn lại của quyền I trình bày lập luận của Socrates chống lại tuyên bố của Thrasymachus là, bất công thì tốt hơn cho một người hơn là công bằng. Điều này liên quan gián tiếp với câu hỏi về thầm quyền chính trị hợp pháp. Hầu hết phần còn lại của Cộng hòa, cho tới tận quyển IX, được dành, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp, cho sự khảo sát của Socrates về công bằng. Chúng ta sẽ theo sau Socrates trong công việc này, nhưng chúng ta cũng sẽ chỉ tìm hiểu những gì liên quan đến triết học chính trị, đặc biệt là câu hỏi 2 (sự biện minh về mặt đạo đức cho thẩm quyền chính trị, câu hỏi 3(cấu trúc của một xã hội chính trị) và câu hỏi 4 (phạm vi hợp pháp của quyền lực của chế độ cai trị).

    2. Cấu trúc của một xã hội chính trị (Cộng hòa, quyển II & III).
    2.1. Công bằng ở cấp độ thành bang và cấp độ cá nhân
    Câu hỏi trung tâm của tác phẩm Cộng hòa là:
    A. Công bằng là gì, nghĩa là một con người cá nhân phải làm gì để có thể trở nên công bằng?
    Nhưng từ mục đích của chúng ta, thì đây không phải là câu hỏi quan trọng nhất trong tác phẩm Cộng hòa. Câu hỏi mà chúng ta quan tâm nhất là:
    B. Một nhà nước – thành bang nên được tổ chức như thế nào? Nghĩa là, đâu là tổ chức của một xã hội với thẩm quyền cai trị hợp pháp?
    Plato nghĩa rằng đi trả lời cho câu hỏi (B) sẽ giúp ích trong việc trả lời câu hỏi (A). Ông nghĩ vậy là vì ông khẳng định như sau:
                i.            Bản chất của công bằng thì giống nhau cho cả cấp độ thành bang lẫn cấp độ cá nhân
              ii.            Vì thành bang thì lớn hơn cá nhân, nên chúng ta có thể nhận thấy công bằng dễ dàng hơn so với cấp độ thành bang – cũng như đọc những gì được viết lớn thì dễ dàng hơn đọc những gì được viết nhỏ.

    2.2. Nguồn gốc và sự phát triển của thành bang
    Socrates trả lời (B) bằng cách tìm hiểu nguồn gốc của một thành bang để thấy nó phát triển và lớn mạnh như thế nào, và từ đó thấy công bằng (hay bất công) phát triển như thế nào bên trong nó. Điều mà ông trình bày sau đây không phải là một sự giải thích mang tính lịch sử về bất cứ thành bang thực tế nào; mà đúng hơn, là giải thích làm thế nào để một thành bang hoàn hảo (một utopia) có thể ra đời.
    a. Lý do thành bang ra đời
    ·        Thành bang ra đời bởi vì các cá nhân không thể tự tồn tại. [chú ý rằng đây là câu trả lời của Plato cho câu hỏi 1a và 1b của chúng ta)
    “...Sự hình thành của một thành bang là vì ……thực tế là, chúng ta không phải là các cá nhân độc lập, mà có nhiều thiếu soát ….vì những thiếu soát này, nên mỗi chúng ta tìm kiếm sự giúp đỡ của người khác để đáp ứng các nhu cầu của mình, vì vậy chúng ta tập hợp vào một nơi, và đặt tên cho nơi này là thành bang”.
    b. Sự phân chia lao động
    ·        Các cá nhân có những nhu cầu cơ bản: thức ăn, nơi ở, quần áo …. Cách tốt nhất để một nhóm hợp tác mà có thể cung cấp cho tất cả cá nhân những nhu cầu này là tuân theo sự phân chia lao động dựa trên tài năng tự nhiên. Một số sẽ là nông dân, một số là thợ đóng giày, một số là thợ rèn... Lao động phải được phân chia vì một người không thể tự mình làm tốt tất cả những việc này.
    “... Tất cả mọi thứ được tạo ra với số lượng và chất lượng cao hơn, và với sự dễ dàng hơn khi mỗi người làm một nghề nào đó phù hợp với bản chất của anh ta mà không phải làm bất cứ việc gì khác”.
    ·        Nhiều nghề sẽ xuất hiện ngoài những người sản xuất: những người làm nghề xuất nhập khẩu, thủy thủ, thương nhân, những người lao động làm thuê….
    Đến lúc này Socrates hỏi trong một thành bang như vậy công bằng là gì. Adeimantus trả lời: “Có lẽ nó có thể được tìm thấy ở đâu đó trong các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa những người này”. Điều này báo trước câu trả lời mà Socrates sẽ đưa ra: công bằng của một xã hội sẽ phụ thuộc vào mối quan hệ giữa các giai cấp của nó.
    c. Sự phát triển của thành bang dẫn đến xung đột
    ·        Các nghề khác xuất hiện sẽ cung cấp, không phải các nhu cầu thiết yếu, mà cả những thứ xa hoa: săn bắn, làm thơ, nhảy múa, chính khách, giáo viên, thợ cắt tóc, nông trại…xã hội trở nên rất lớn và cần nhiều đất hơn để trồng lương thực …và chắc chắn, sẽ có xung đột với lân bang để giành lấy thêm tài nguyên, bao gồm đất đai.
    d. Sự xuất hiện những chiến binh
    ·        Bây giờ chúng ta cần một nghề hoàn toàn mới: chiến binh (“người bảo vệ”). Họ sẽ trải qua một quá trình đào tạo nghiêm ngặt, nhưng phải có “tài năng tự nhiên”. Họ phải:
                                             i.            dũng cảm
                                           ii.            mạnh mẽ
                                        iii.            đầy sinh khí
                                         iv.            “triết lý” (yếu mến sự học)
    e. Sự xuất hiện những người cai trị
    ·        Ai sẽ là người cai trị mọi người? (Với câu hỏi này thành bang của Socrates mang một đặc điểm chính trị)
    ·        Người cai trị phải là người mà “luôn làm điều gì tốt nhất cho thành bang” – các chiến binh sẽ giám sát họ từ thời niên thiếu để xác định ai phù hợp nhất để trở thành người cai trị; các ứng cử viên sẽ được kiểm tra bằng nhiều cách để đảm bảo khả năng cai trị của họ. Kết quả, điều này sẽ phân chia tầng lớp bảo vệ thành hai, tạo ra một tổng thể ba giai cấp:
    Những người bảo vệ
          1.  người cai trị
          2.  chiến binh
          3. Nhà buôn, người sản xuất
    f. Bí ẩn về các kim loại
    Để duy trì cấu trúc giai cấp này, ba giai cấp phải khắc sâu với “một lời nói dối cao quý” – Đó là bí ẩn về các kim loại….
    ·        Mỗi người có trong anh ta hoặc vàng, hoặc bạc, hoặc đồng và điều này sẽ quyết định tầng lớp mà anh ta thuộc về
    ·        Những người lớn sẽ giám sát trẻ con để xem kim loại mà nó có, từ đó mỗi đứa trẻ sẽ được nuôi dưỡng như người cai trị, binh lính, hay thương nhân.
    ·        Việc cha mẹ của một giai cấp có con thuộc một giai cấp khác là hoàn toàn có thể (dù rất hiếm)
    “….các vị thần người tạo ra bạn trộn vàng vào trong cấu tạo của bạn để bạn đủ phẩm chất cho việc cai trị, điều mang đến cho bạn giá trị cao nhất; trong khi đối với những người lính họ được làm bằng bạc; còn sắt và đồng đặc gán cho người làm làm ruộng và những người đàn ông khác….”
    g. Chủ nghĩa cộng sản
    Socrates ủng hộ chủ nghĩa cộng sản giữa những người bảo vệ (gồm những người cai trị và chiến binh):
    ·        không sở hữu tài sản tư nhân
    ·        không sống riêng, mà phải sống cùng nhau
    ·        sẽ nhận được những gì thiết yếu do các công dân khác chi trả
    ·        không sở hữu tiền, hay ngay cả các vật bằng vàng, hoặc bạc.
    Mục đích: tách rời quyền lực kinh tế khỏi quyền lực chính trị, để tránh sự xung đột giữa các giai cấp.

    3. Công bằng trong thành bang (Cộng hòa, quyển IV)
    3.1. Khôn ngoan, dũng cảm, tự chủ. Sau khi miêu tả cấu trúc nền cộng hòa lý tưởng của mình, Plato tiếp tục nghiên cứu của ông về sự công bằng trong thành bang. Quan điểm của ông như sau:
    ·        một thành bang là công bằng cũng sẽ khôn ngoan, can đảm, và tự chủ (tự chủ = tự kiểm soát)
    ·        vì vậy, bằng cách hiểu về khôn ngoan, can đảm, và ôn hòa trước, chúng ta sẽ chuẩn bị tốt hơn để hiểu về chính công bằng.
    Trong quyển IV, ông miêu tả hai trong số ba đức hạnh đầu tiên, (khôn ngoan và can đảm) vốn lần lượt nằm ở trung tâm của hai tầng lớp mà ông đã miêu tả trước đó. Mỗi tầng lớp có chức năng và đức hạnh riêng:
    tầng lớp
    chức năng
    đức hạnh
    cai trị
    đưa ra các quyết định ảnh hưởng đến toàn thành bang
    khôn ngoan – có tri thức về điều gì là tốt cho thành bang
    chiến binh
    bảo vệ thành bang
    can đảm

    Đức hạnh thứ ba, sự tự chủ, nó không nằm trong một giai cấp; mà đúng hơn là nó:
    “Có ở toàn bộ, và tạo ra một sự kết hợp giữa kẻ yếu nhất và kẻ mạnh nhất và những kẻ ở giữa”.
    Nói cách khác, sự tự chủ là một dạng tự kiểm soát, có thể đạt được khi phần yếu hơn của một thực thể bị kiểm soát bởi phần mạnh hơn, tốt hơn; và trong thành bang, thì sự tự chủ = việc phần mạnh hơn, tốt hơn của các công dân (những người cai trị) kiểm soát bộ phận kém hơn, yếu hơn (mọi tầng lớp khác: quân nhân, thương nhân/người sản suất).

    3.2. Công bằng trong thành bang
    Sau khi miêu tả ba phẩm chất khác nhau cấu thành nên đức hạnh của thành bang, Socrates đã sẵn sàng để miêu tả đức hạnh thứ bốn (công bằng) là gì:
    “thực hiện bổn phận của mình là công bằng”
    Ông khẳng định điều này bằng cách miêu tả một thành bang không công bằng thì như thế nào:
    ·        một thành bang không công bằng khi cá nhân cố gắng làm điều mà không phù hợp với họ: “bất cứ sự can thiệp vào ba bộ phận hay thay đổi bộ phận này cho bộ phận khác, sẽ gây ra tác hại lớn cho thành bang, và …….liệu bạn có thể không thừa nhận rằng việc gây ra tác hại cho thành bang lại không là một sự bất công?”
    ·        một thành bang công bằng là thành bang ngược lại: các cá nhân ở các gia cấp khác nhau (người cai trị, chiến binh, và thương nhân) làm điều phù hợp với họ theo khuynh hướng tự nhiên và sự giáo dục – người cai trị cai trị, chiến binh bảo vệ, và thương nhận giám sát các nhu cầu thương mại và vật chất của xã hội: “trái lại, việc trung thành với nhiệm vụ của mình, mỗi người thi hành công việc riêng của mình, là công bằng, và sẽ làm cho thành bang công bằng.
    Vì vậy thành bang công băng là thành bang mà:
    ·        người cai trị đưa ra quyết định khôn ngoan
    ·        được thực thi với sự can đảm của chiến binh, và trong đó
    ·        có một sự tiết chế (“tự kiểm soát” - người cai trị kiểm soát mọi người); và kết quả,
    ·        thành bang hùng mạnh và các thành viên của nó hạnh phúc
    Thành bang là công bằng bởi vì mỗi giai cấp thực hiện chức năng riêng của nó, và lao động được phân chia một cách hiệu quả (theo sự phân chia lao động tự nhiên)
    Plato gọi dạng chính quyền này là quân chủ (nếu chỉ một người cai trị) hay quý tộc (nếu hơn một người cai trị).

    3.3. Công bằng ở cấp độ cá nhân. Để khẳng định hơn nữa sự giải thích ở trên là chính xác về sự công bằng trong thành bang, Socrates đi tìm hiểu điều gì tạo nên sự công bằng ở cấp độ cá nhân
    3.3.1. Ba nguyên tắc của tâm lý con người
    Đối với Plato, tâm lý của con người gồm ba bộ phận riêng biệt:
    (1) bộ phận cấu thành sự phản tư duy lý, cần thiết cho tri thức
    (2) bộ phận cấu thành phần nhiệt huyết, sự can đảm (3) bộ phận liên quan đến sự thỏa mãn những ham muốn phi lý trí
    Cũng giống với thành bang, mỗi trong hai nguyên tắc đầu tiên của tâm hôn có một đức hạnh tương ứng:
    (1)  khôn ngoan
    (2)  can đảm
    Đức hạnh thứ ba tạo thành mối quan hệ hài hòa giữa các ba nguyên tắc:
    (3)  Sự tiết chế: bộ phận cao hơn, duy lý kiểm soát các bộ phận thấp hơn (các ham muốn vật chất và xúc cảm).
    Và cuối cùng, Socrates định nghĩa công bằng ở cấp độ cá nhân như sau:
    “... một con người công bằng, cũng giống như cách trong đó chúng ta thấy đối với thành bang công bằng… điều làm cho một thành bang công bằng, là mỗi trong ba bộ phận thực hiện các chức năng riêng của nó …và mỗi chúng ta cũng vậy, nếu các phần bên trong của chúng ta thi hành đúng các chức năng, thì chúng ta sẽ là người công bằng, và là người thi hành công việc phù hợp với mình.
    ... một người công bằng sẽ không cho phép một vài chức năng trong anh ta làm bất cứ công việc nào không phải của chúng, cũng không cho phép các bộ phận riêng biệt trong tâm hồn can thiệp vào nhau, nhưng sẽ thực sự đặt mọi thứ trong trật tự; và làm chủ trên chính anh ta, kiểm soát tính cách của anh ta…làm sao cho ba nguyên tắc này hòa hợp với nhau, như thể chúng là ba hợp âm của một âm, một cao và một thấp và một ở giữa …”
    Trong một tâm hồn công băng, các ba nguyên tắc đều thực hiện một cách đúng đắn các công việc của riêng chúng

    4. Chủ nghĩa cộng sản gia đình trong tầng lớp bảo vệ (Cộng hòa, quyển V)
    Đầu quyển V, Socrates thảo luận về các dạng thức chính quyền khác, ít công bằng hơn, và làm thế nào cộng hòa lý tưởng của ông biến đổi thành các dạng này. Nhưng có các vấn đề khác ông vẫn chưa giải thích đầy đủ về nền cộng hòa lý tưởng của mình. Đặc biệt, là vấn đề về chủ nghĩa cộng sản của ông, cụ thể trong đoạn: “tất cả tài sản thuộc về của chung, ngay cả người những người vợ và những đứa trẻ”. Socrates quay trở lại chủ đề, và đưa ra giải thích sau về cuộc sống của tầng lớp chiến binh.
    A.  Những chiến binh nam phải là “những người bảo vệ đám đông” - họ phải trung thành với cộng đồng mà không có sự trung thành riêng đới với cá nhân nào.
    B.  Nhưng chiến binh nữ, dù yếu hơn, sẽ được đối xử giống như những chiến binh nam
    Phụ nữ trong tầng lớp chiến binh được mong đợi có thể làm công việc giống như đàn ông (dù họ yếu hơn về thể chất). Bởi vì điều này, họ sẽ nhận được sự giáo dục giống như nam giới
    ·        Socrate nghĩ  điều này có thể gây tranh cãi, ít nhất một phần là vì sự giáo dục thể chất đòi hỏi sự trần truồng, vì vậy người chiến binh nữ sẽ phải đào tạo giống với người nam trong sự trần truồng.
    C. Chính quyền sẽ kiểm soát sinh đẻ và việc nuôi dạy trẻ trong giới chiến binh
    ·        Những người cai trị sẽ sắp xếp bí mật để những chiến binh tốt nhất quan hệ với nhau và những người kém cỏi nhất trong số họ không được quan hệ. Nhưng người tốt nhất trong tầng lớp chiến binh sẽ chịu trách nhiệm cho việc tái tạo (sinh đẻ); những người kém nhất thì không có trách nhiệm này.
    ·        Những đứa trẻ được sinh ra như vậy sẽ ngay lập tức đưa đến nơi nuôi dưỡng chung tách biệt với cha mẹ để của chúng.
    ·        Chỉ những đứa trẻ khỏa mạnh nhất mới được lựa chọn để nuôi dưỡng.
    ·        Những người trẻ hơn bị cấm quan hệ; và những người có phẩm chất tốt không được phép quan hệ cho đến khi được chấp thuận
    ·        Những người có phẩm chất tốt có thể quan hệ miễn là họ thực hiện điều này nhưng không để có thai – và nếu họ để có thai, thì đứa trẻ sinh ra sẽ bị giết
    Vì vậy Plato ủng hộ việc sử dụng thuyết ưu sinh (cải thiện gien bằng cách kiểm soát gien nào được truyền lại cho thế hệ sau) giữa cho tầng lớp chiến binh được “thuần khiết”.
     Phản đối: sự tổ chức này là không "nên" - không phải là sự tổ chức tốt nhất cho thành bang.
    Socrates đáp lại:
    a. Một chính sách là vì lợi ích lớn hơn cho thành bang nếu nó giúp "ràng buộc thành bang lại với nhau, và làm cho thành bang thống nhất làm một", tức là nó ngăn không cho thành bang bị phân thành nhiều thành bang. [Yêu sách này bị chỉ trích bởi Aristotle trong Quyển II của tác phẩm Chính trị học]
    b. Các công dân bị ràng buộc chặt chẽ với nhau hơn khi họ chia sẻ cùng cảm xúc (đau buồn vì chết cùng nhau, vui mừng với sự ra đời cùng nhau…) và sẽ bị chia rẽ hơn khi họ không như vậy.
    c. Cách tốt nhất (hoặc ít nhất, là một cách tốt) để thúc đẩy sự tương đồng cảm xúc này là mọi người không có vợ, chồng và con riêng của họ, nhưng họ chia sẻ chung với nhau.
    d. Kết quả cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản gia đình giữa những người chiến binh được sắp xếp cẩn thận này là mỗi người sẽ xem người chiến binh nam hay nữ bên mình như là thành viên trong gia đình: "họ phải nhìn vào mọi người mà họ gặp hoặc như là người anh, hoặc người em, hoặc người cha , hoặc người mẹ, hoặc con trai, hoặc con gái, hoặc cha mẹ của chúng". Vì vậy, mỗi người chiến binh sẽ có tình cảm đối với mọi người như đối với mọi thành viên trong gia đình.
    e. Vì vậy, sự tổ chức này là nên làm - đó là cách tốt nhất cho thành bang.
    D. Chủ nghĩa cộng sản gia đình là một ví dụ về một nguyên tắc cộng sản tổng quát hơn đó là: những người chiến binh không được phép sở hữu bất kỳ tài sản cá nhân.
    ·        Điều này sẽ loại bỏ các vụ kiện, và các tranh chấp cá nhân khác liên quan đến sở hữu tư nhân.
    ·        Nó sẽ không làm người chiến binh ít hạnh phúc hơn so với tầng lớp thương nhân (các thành viên trong đó có thể sở hữu tài sản tư nhân)  cuộc sống của những người chiến binh là cao thượng hơn, đi kèm với danh dự thường xuyên hơn.

    5. Khả thể của một thành bang hoàn hảo (Cộng hòa quyển V)
    Đến cuối quyển V, Socrates tìm hiểu câu hỏi liệu chế độ cai trị mà ông đang miêu tả có thực sự hiện thực hóa được hay không, tức là liệu một chính phủ như vậy có thể vận hành trong thế giới thực hay không?

    5.1. Vua – triết gia
    Bước đầu tiên, Socrate hỏi: những thay đổi nhỏ nhất nào mà chúng ta có thể tạo ra đối với thành bang hiện tại để có thể khiến nó trở thành một chế đội cai trị hoàn hảo? 
    Câu trả lời của ông, chỉ nếu triết gia trở thành vua, hoặc ngược lại, chế độ cai trị hoàn hảo không bao giờ có thể trở thành hiện thực.

    5.2. Lý thuyết về các mô thức
    Lúc này câu hỏi tự nhiên xuất hiện là: Triết gia là gì? Như là một phần của câu trả lời này, Socrates giới thiệu một trong những yêu sách quan trọng nhất của ông: lý thuyết về các mô thức.
    Ví dụ đầu tiên của ông về mô thức là mô thức về cái đẹp: theo ông việc nhận thấy những sự vật đẹp nhưng lại không có hiểu biết (thậm chí niềm tin) về chính cái đẹp là điều hoàn toàn có thể. Những người theo đuổi trải nghiệm về những thứ đẹp cụ thể chỉ là triết gia giả mạo; triết gia chân chính là triết gia khao khát hiểu biết về chính cái đẹp. Điều này là vì những ai theo đuổi các kinh nghiệm tri giác về những sự vật đẹp cụ thể không có tri thức thực sự về cái đẹp, mà anh ta chỉ có các ý kiến các nhân (tư kiến) về những sự vật đẹp. Đối với Plato, một sự phân biệt cực kì quan trọng đó là: tri thức và tư kiến là “các khả năng” hoàn toàn khác nhau….
    tri thức
    tư kiến
    ·   là không thể sai lầm – khi bạn biết điều gì đó, bạn không thể sai
    ·   phạm vi của nó là “cái” (thực tồn)
    ·    có thể sai lầm – nếu bạn chỉ đơn thuần có tư kiến chứ không phải tri thức, thì rất có thể để bạn sai lầm
    ·    phạm vi của nó là cái gì đó khác hơn cái thực tồn
    Khác biệt thứ hai là khá nan giải ... Socrates đưa ra các luận điểm sau:
    ·        vì tri thức và tư kiến là hai phạm trù khác nhau, nên chúng phải có "lĩnh vực" khác nhau - tức là, chúng phải bàn về những thứ khác nhau.
    ·        Tri thức là về “cái đang là”, về cách mà sự vật thực sự là; còn tư kiến phải về thứ khác
    ·        nhưng tư kiến không thể là không gì cả (cái không là) - điều này là vì sự dốt nát có phạm vi của nó "cái không là" - và tư kiến thì khác hơn là sự dốt nát!
    ·        tư kiến là, theo một nghĩa nào đó, nằm giữa tri thức và sự dốt nát - vì vậy phạm vi của nó phải là, theo  một nghĩa nào đó, giữa những gì đang là và những gì không là.
    Các triết gia có thể vượt qua tư kiến đơn thuần về những sự vật đẹp cụ thể và đạt được tri thức chân thực về mô thức cái đẹp.
    Mô thức là:
    ·        không thay đổi
    ·        có thể nhận biết được (bằng trí tuệ chứ không bằng giác quan)
    ·        có tính cộng đồng
    Điểm cuối cùng rất quan trọng. Từ Hy Lạp mà Plato sử dụng là "eidos" (số nhiều: "eide"), được dịch là “mô thức" hoặc "ý niệm". "Ý niệm" là một sự dịch được chấp nhận, miễn là bạn nhớ rằng một ý niệm của Plato không có tính tinh thần, nhưng là một cái gì đó tồn tại ngoài ý nghĩ của chúng ta về nó; nó có tính công cộng (có thể tiếp cận với tất cả mọi người) và hoàn toàn khách quan.
    Các mô thức hoàn toàn chân thực, chân thực hơn thế giới vật chất. Thế giới vật chất thay đổi liên tục. Những vật mà ở một lúc nào đó đẹp, có thể thay đổi và trở nên xấu xí; những thứ mà lớn trong một số hoàn cảnh nào đó lại nhỏ trong những hoàn cảnh khác. Đối với Plato, đây là một dấu hiệu cho thấy những vật này không thực tồn như các mô thức, vốn vĩnh cửu và bất biến. Điều đó không có nghĩa là thế giới vật chất là không có thật hay đơn giản là ảo tưởng, chỉ là nó ít chân  thực hơn so với các mô thức.
    Các mô thức
    Mô thức hình tam giác
    Mô thức màu trắng
    Mô thức cái đẹp
    ·    đối tượng của tri thức
    ·    chân thực nhất
    ·    bất biến
    Thế giới (vật lý) của kinh nghiệm
    các hình tam giác (tất cả những gì “tham gia vào” mô thức hình  tam giác)
    những vật mầu trắng (tất cả những gì “tham gia vào” mô thức mầu trằng
    những vật đẹp (tất cả những gì “tham gia vào mô thức của cái đẹp”
    ·      đối tượng của tư kiến
    ·      thực, nhưng ít thực hơn các mô thức
    ·      liên tục thay đổi
     “Tham gia vào” là gì? Dường như có ít nhất hai khía cạnh:
    ·        Mô thức của F làm cho Fs đặc thù có thể hiểu được
    ·        Mô thức của F chịu trách nhiệm cho sự tồn tại của Fs đặc thù như Fs
    Điểm mấu chốt là xem học thuyết về các mô thức liên quan đến luận điểm của Socrates rằng nó có thể khiến cho một thành bang thực tế có thể trở thành chế độ cai trị hoàn hảo mà ông mô tả ...
    ·        chế độ hoàn hảo trong một thành bang hiện thực là điều có thể
    ·        nhưng chỉ khi các nhà cai trị là các "triết gia" thực sự (người yêu sự khôn ngoan), tức là ...
    ·        những người có tri thức (không phải chỉ là tư kiến) về các mô thức, bao gồm mô thức về cái đẹp, công lý và sự tốt lành. 

     5.3. Nguồn gốc của thẩm quyền Chính trị
    Có ít nhất bốn câu trả lời cho câu hỏi 2: điều gì biện minh thẩm quyền chính trị, tức đâu là nguồn gốc của thẩm quyền chính trị?
    1.      thẩm quyền thần thánh: Thượng đế là nguồn gốc của thẩm quyền chính trị [Israel thời cổ đại; các chế độ quân chủ ở châu Âu thời cận đại; Morocco hiện nay]
    2.      sự lệ thuộc bẩm sinh: người bị trị phải phục tùng người cai trị do bản chất của họ như vậy [Aristotle]
    3.      sự đồng thuận: thẩm quyền của người cai trị xuất phát từ sự đồng thuận của người bị trị [ Hobbes, Locke]
    4.      chủ nghĩa hoàn hảo: thẩm quyền của người cai trị bắt nguồn từ khả năng hiểu được các tri thức cao hơn [Plato]
    Dạng tri ​​thức nào hợp pháp hóa thẩm quyền chính trị?
    Câu trả lời của Plato: tri ​​thức về mô thức của cái tốt lành, và đặc biệt, tri ​​thức về làm thế nào để làm cho cộng đồng hạnh phúc bằng cách duy trì sự công bằng trong các vấn đề của nó.
    Một tiêu chí cho sự chấp nhận vào trong tầng lớp cai trị, vua – triết gia, là phải biết điều gì là tốt nhất cho thành bang và thi hành tri ​​thức đó trong khả năng của anh ta với tư cách là người cai trị. Một người lạm dụng quyền lực vì lợi ích riêng của mình, hay để làm lợi cho bất cứ ai không phải là thành bang, sẽ không đủ tư cách để trở thành người cai trị.
    Đằng sau giả định này là giả định rằng Plato đã sử dụng lời dạy của thầy của mình Socrates: đức hạnh là tri ​​thức. Nếu bạn thực sự biết sự tốt lành là gì, thì bạn sẽ thực hiện nó – việc một cá nhân có tri ​​thức thực sự về đức hạnh, công lý… mà lại không đạo đức, công chính... là điều không thể. Sự giáo dục và các bài kiểm tra mà nhà cầm quyền tập sự phải trải qua giống như bộ lọc để xem ai có kiến ​​thức chân chính của những gì tốt đẹp cho các thành bang, và do đó là người đủ công chính và đạo đức để cai trị. Vì vậy, đối với Plato, nếu hệ thống giáo dục /bộ lọc hoạt động tốt, chỉ có những người thực sự có đạo đức, có tri ​​thức thực sự về sự tốt lành, mới trở thành vua - triết gia, và như vậy, dù những người này sẽ có toàn quyền đối với thành bang, họ sẽ không lạm dụng thẩm quyền đó.

    6. Người cai trị phải biết gì: Mô thức của cái tốt lành (Cộng hòa quyển VI, và VII).
    Như Socrates đã nói trước đó, vua – triết gia phải có tri thức về các mô thức, đặc biệt là mô thức về các sự vật như cái đẹp, công bằng và sự tốt lành. Nhưng có một thứ tự ưu tiên ở đây: Mô thức về sự tốt lành đứng trước các mô thức khác: "Không ai có thể biết công bằng và cái đẹp là gì cho đến khi anh ta biết mô thức về cái tốt lành".
    Nhưng có một vấn đề khác: tri thức như vậy là cực kỳ khó khăn để nắm bắt; trong thực tế, chính Socrates tuyên bố không có tri thức về cái tốt lành. Mặc dù chính Socrates không biết mô thức tốt lành là gì, ông cố gắng làm sáng tỏ nó với ba ẩn dụ sau: ẩn dụ về mặt trời, ẩn dụ về đường phân chia, và ẩn dụ về cái hang.

    6.1. Ẩn dụ về mặt trời. Mô thức về sự tốt lành tương tự như mặt trời theo ít nhất hai nghĩa
    1. Nó làm cho các mô thức khác có thể tri giác được.
    Cũng như mắt không thể nhận thấy các đối tượng vật lý mà không có một điều thứ ba (ánh sáng mặt trời), do đó, tinh thần không thể hiểu bất kỳ mô thức cụ thể nào mà không có cái thứ ba (mô thức về sự tốt lành).
    Chính mô thức về sự Tốt lành khiến cho tất cả các mô thức có thể hiểu được. Ví dụ, để thực sự hiểu một cái một bàn là gì, thì cần phải hiểu một cái bàn tốt là gì. Một cái bàn tốt sẽ có một bề mặt phẳng và một số chân và có khả năng đỡ các vật khác - nếu bạn không hiểu điều này, thì bạn không thực sự hiểu cái gì có thể trở thành một cái bàn. Bằng cách này, mô thức của cái tốt lành làm cho mô thức về cái bàn có thể hiểu được. Theo quan điểm của Plato, tất cả các môt thức khác (bao gồm cả mô thức về đẹp và công bằng) được "chiếu sáng" bởi mô thức về sự tốt lành theo nghĩa như vậy.
    2. Nó mang đến sự tồn tại cho các mô thức khác – nếu không có mô thức của sự tốt lành, sẽ không có các mô thức khác.

     6.2. Ẩn dụ về đường phân chia
    Socrates đề nghị chúng ta tưởng tượng một đường phân chia giữa hai phần không bằng nhau; phần trước đại diện cho thế giới khả giác và phần sau đại diện cho thế giới khả niệm. Sau đó hãy tưởng tượng rằng mỗi trong hai phần này lại được chia thành các phần không bằng nhau tương ứng tỉ lệ với sự phân chia đầu tiên.
    thế giới khả giác:
    "thế giới của những vật nhìn thấy"
    thế giới khả niệm
    "thế giới của những vật suy tưởng"
    A
    B
    C
    D
    các hình ảnh, như là cái bóng, sự phản xạ
    các đối tượng, như động vật, cái cây…những vật mà hình ảnh ở A tương tự với
    các mô thức thấp hơn: các mô thức về hình vuông, tam giác, cái giường; các mô thức mà đối tượng ở phần B tương tự với
    các mô thức cao hơn: các mô thức về cái đẹp, công bằng, lòng trắc ẩn, sự can đảm, và (quan trọng nhất) sự tốt lành
    Sự tưởng tượng
    Sự tin cậy
    Suy luận
    Hiểu

    6.3. Ẩn dụ về Cái hang
    Trong quyển VII của tác phẩm Cộng hoà, Plato đề nghị chúng ta tưởng tượng hoàn cảnh một nhóm người bị xích từ khi sinh ra bên trong một hang động, họ chỉ thấy bóng đổ của những con rối, vốn được giữ trước một ngọn lửa phía sau họ. Họ bị giới hạn để không thể nhìn thấy nhau hoặc nhìn thấy chính mình. Những người tù này sẽ xem những cái bóng như là những vật thực sự.
    Nếu một trong số họ bất ngờ thoát ra ngoài, thì anh ta sẽ cảm thấy khó chịu khi nhìn vào ngọn lửa vốn tạo ra những cái bóng, và khó khăn hơn nữa khi đối mặt với ánh sáng mặt trời chiếu vào thế giới khả giác bên ngoài. Mặc dù vậy, cuối cùng anh ta cũng có thể làm điều này và thậm chí còn có thể nhìn ngắm mặt trời.
    Vì việc thoát ra ngoài này là cực kỳ khó khăn đối với hầu hết mọi người, nên những người thoát ra, sau khi đã "nhìn thấy ánh sáng", phải quay trở lại vào hang động để cố gắng thuyết phục những người khác đi xem. Khi anh ta bước vào hang động, lúc đầu anh không thể nhìn thấy bất cứ điều gì. Đối với những người vẫn còn bị xiềng xích trong hang động, dường như  thị lực của anh ta đã bị phá hủy - họ nghĩ rằng anh ta đã phải chịu một số tổn hại khủng khiếp khi rời khỏi hang động. Và nếu anh ta cố gắng giúp họ thoát ra khỏi hang động họ sẽ chống lại,  có lẽ tới mức giết chết anh ta.
    Socrates nói Glaucon rằng hang động tương ứng với thế giới khả giác của chúng ta và ánh sáng của ngọn lửa tương ứng với mặt trời. Việc trèo lên để đến với thế giới bên ngoài là cuộc hành trình của hướng lên của tâm hồn đến lĩnh vực của thế giới khả niệm. Trong thế giới của tri ​​thức, thứ cuối cùng có thể hiểu được, và hiểu được với sự vất vả rất lớn, là mô thức về cái tốt lành, giống như mặt trời sẽ là thứ cuối cùng người trong hang trông thấy. Con đường ra khỏi hang động là khó khăn, nhưng đáng giá bởi vì mặt trời là thứ đáng để nhìn thấy 

    7. Giáo dục (Cộng hòa quyển VII).
    Một trong những yêu sách trung tâm trong triết học chính trị của Plato là trả lời cho câu hỏi số 4: một Xã hội chính trị phải làm gì?
    ·        Plato tin tưởng một cách mạnh mẽ rằng một trong những nhiệm vụ chính của Xã hội chính trị là giáo dục các công dân của nó (điều này tương phản với quan điểm đang phổ biến ở Athen trong thời Plato, vốn cho rằng việc giáo dục những người trẻ thuộc trách nhiệm của  gia đình).
    ·        Ông nghĩ rằng thành bang lý tưởng sẽ giáo dục mọi người, không chỉ những người sẽ trở thành người cai trị và chiến binh. Nhưng chỉ những ai có khả năng trở thành người cai trị sẽ nhận được sự giáo dục hoàn chỉnh
    ·        Tất cả mọi người (gồm cả phụ nữ) sẽ nhận được một sự giáo dục sơ cấp, tổng quát cho đến khi 18 tuổi, sau đó là hai năm đào tạo quân sự.
    ·        Nhìn chung, giáo dục sẽ kết thúc ở thời điểm này. Nhưng một số ít được lựa chọn, những người cho thấy một số khả năng trí tuệ và đã vượt qua một số sự kiểm tra, sẽ bước vào giai đoạn giáo dục xa hơn nữa để trở thành những người bảo vệ [guardian]. Giai đoạn này kéo dài trong 10 năm đào vào về mặt trí tuệ nhấn mạnh đến toán học. Các ứng viên bị loại ra trong gia đoạn này sẽ được trao cho các vị trí cấp thấp trong giai cấp cai trị.
    ·        Những ai vượt qua gia đoạn này sẽ bước vào giai đoạn nghiên cứu triết học kéo dài 5 năm (và những ai không vượt qua sẽ được bố trí như giai đoạn trước)
    ·        Những ai vượt tiếp tục qua (giờ khoảng 35 tuổi) bắt đầu 15 năm công việc quản lý chính quyền ở vị trí cao cấp, và trong giai đoạn này họ trải qua nhiều cuộc kiểm tra về tính cách
    ·        Cuối giai đoạn này, ở tuổi 50, họ được thừa nhận trở thành giai cấp cao nhất, giai cấp cai trị, hay vua – triết gia, toàn bộ thời gian được phân chia giữa cai trị thành bang và nghiên cứu triết học sâu hơn:
    Vì vậy một trong những mục tiêu cuối cùng của quá trình giáo dục lãnh đạo này là đào tạo giai cấp cai trị, hay những người biết tốt hơn những người khác về điều gì tốt nhất cho cộng đồng. Họ sẽ là các chuyên gia trong việc cai trị, cũng giống như bác sĩ trong lĩnh vực sức khỏe.
    Ở đây Plato tuyệt đối bác bỏ nền dân chủ vốn là thiết chế của Athen thời ông sống. Ông không nghĩ rằng mọi người có quyền đạo đức để tham dự vào việc cai trị. Đối với Plato, bạn không được phép tham dự việc điều hành thành bang trừ khi bạn đạt được một tri thức nào đó, ví dụ:
    (1)    Bạn sinh ra với các khả năng bẩm sinh cần thiết, và
    (2)    Bạn trải qua nhiều thập kỉ của việc giáo dục phù hợp
    Cho phép một kẻ bình thường tham dự vào việc lãnh đạo thành bang sẽ không tốt hơn cho phép anh ta thực hiện việc điều trị y học cho một bệnh nhân. Chỉ những ai là chuyên gia trong việc cai trị mới có thẩm quyền đạo đức để cai trị.

    8. Các kiểu suy đồi của Chính quyền (Cộng hòa, quyển VIII).
    Mở đầu của Quyển VIII, Socrates trở lại với chủ đề mà ông đã bắt đầu ở đầu Quyển V - các hình thức khác nhau của chính quyền, và các dạng người tương ứng với các hình thức đó.
    Ông mô tả điều mà ông coi là hình thức chính quyền đúng đắn duy nhất: chế độ quân chủ hay quý tộc (con người tương ứng, là các cá nhân mà lý tính của họ kiểm soát tinh thần và ham muốn, và trong họ ba mặt của linh hồn đang thực hiện công việc riêng của nó). Bây giờ ông đưa thêm bốn hình thức chính quyền khác vào danh sách:
    1.      quân chủ hay quý tộc (cộng hòa của Plato) - cai trị bởi vua/triết gia
    2.      timocracy - cai trị bởi tầng lớp chiến binh
    3.      chính thể đầu sỏ - cai trị bởi những người giàu có
    4.      chính thể dân chủ - cai trị bởi nhân dân
    5.      chính thể chuyên chế - cai trị bởi kẻ bạo chúa
    Mục đích của việc khảo sát các hình thức chính quyền khác nhau này là để khám phá ra ai là người hạnh phúc hơn/tốt hơn, người công chính hay người không công chính. Plato vẫn đang giả định rằng thành bang cũng giống như con "người" và chúng ta có thể biết về cá nhân thông qua tìm hiểu cấu trúc của thành bang. Chúng ta sẽ tập trung ít vào dạng cá nhân tương ứng với các hình thức cai trị khác nhau mà tập trung nhiều hơn vào chính các hình thức cai trị, cũng như cách mà một hình thức cai trị "chuyển sang" một hình thức cai trị tồi tệ hơn.

    8.1. Từ Quý tộc trị đến Timocracy
    ·        Cách duy nhất mà một hình thức cai trị có thể suy đồi sang một hình thức kém hơn là khi những người cai trị bắt đầu bất đồng với nhau, tức là khi "phe cánh nổi lên trong" tầng lớp cai trị.
    ·        Việc thực hiện thành công dự án ưu sinh là cần thiết để giữ cho các phe phái như vậy khỏi xuất hiện: giai cấp cai trị phải chỉ gồm những người có tính cách "vàng", tầng lớp chiến binh chỉ gồm những người có tính cách "bạc",...
    ·        Nhưng chương trình ưu sinh sẽ không tránh khỏi bị làm rối tung lên. Kết quả là, những người không thực sự đủ điều kiện để trở thành người cai trị sẽ lọt vào giai cấp cai trị, và những người hoàn toàn không đủ điều kiện để trở thành chiến binh sẽ lọt vào tầng lớp chiến binh.
    ·        Sự thất bại này của chương trình ưu sinh sẽ có rất nhiều hậu quả xấu:
    §  tầng lớp chiến binh sẽ bắt đầu không tuân theo các nhà cai trị
    §  Họ sẽ không còn siêng năng học tập
    §  Họ dễ mắc những sai sót khi tham gia vào việc duy trì nòi giống, do đó ngày càng nhiều hơn nữa với những người kém phẩm chất tiếp tục lọt vào tầng lớp chiến binh.
    §  những cá nhân này, những người không thực sự đủ tư cách làm người bảo vệ, sẽ bắt đầu tranh cãi với nhau, do đó làm suy yếu sự kiểm soát đối với xã hội.
    §  Những người chiến binh giờ đây bị chia rẽ thành những người coi trọng đức hạnh và những người coi trọng sự giàu có; và như một loại thỏa hiệp, họ đồng ý chiếm giữ tất cả tài sản và nô dịch những người khác (những người mà họ từng phục vụ)
    §  Ưu tiên hàng đầu của họ là "chiến tranh và ... sự bảo vệ riêng của họ"; vì vậy nó hoàn toàn khác với cộng hòa lý tưởng bởi "nó muốn chiến tranh hơn hòa bình, và những giá trị được nó thiết lập là những mưu mẹo và chiến lược cần thiết cho chiến tranh, và vì vậy luôn trong tình trạng chiến tranh".
    §  Sự tôn kính và chiến thắng có giá trị trên hết: "nhờ sự vượt trội của yếu tố dũng cảm, một thứ đặc biệt mà nó thể hiện ràng nhất, đó là tình yêu cho chiến thắng và tình yêu cho sự tôn kính"

    8.2. Từ Timocracy sang đầu sỏ
    Tình yêu ngày càng tăng đối với sự giàu có trong tầng lớp chiến binh tiếp tục phát triển, cho đến khi nó thậm chí vượt qua tình yêu cho sự tôn kính. Trong khi vua - triết gia của nước cộng hòa lý tưởng yêu mến đức hạnh và sự tốt lành trên hết, thì những kẻ đầu sỏ yêu sự giàu có - và hai tình yêu này đối lập với nhau: "khi của cải và những kẻ giàu có được vinh danh trong thành bang, thì đức hạnh và sự liêm chính được đưa vào trong các tính toán".
    ·        Người giàu được vinh danh; người nghèo bị khinh rẻ.
    ·        Các điều luật được sửa đổi để làm cho việc sở hữu của một lượng của cải nhất định là điều kiện cho với việc tham gia vào sự cai trị.
    Chính thể đầu sỏ: cai trị bởi những người giàu có, hay cụ thể hơn (theo Plato), bởi những người sở hữu tài sản: "một chế độ căn cứ theo tiêu chuẩn tài sản ... trong đó người giàu cai trị, còn người nghèo không có một phần trong việc cai trị".
    Các vấn đề đối với chính thể đầu sỏ:
    1.      Việc sở hữu tài sản không là dấu hiệu cho thấy một người nào đó có đủ phẩm chất để lãnh đạo thành bang, cùng lắm chỉ là một dấu hiệu cho thấy người nào đó có đủ phẩm chất để điều khiển một con tàu.
    2.      Sự cố kết của thành bang bị làm suy yếu: nó sẽ chia thành hai thành bang riêng biệt: một giàu, một nghèo.
    3.      Họ sẽ không còn có thể tiến hành chiến tranh: họ sẽ không trang bị vũ khí cho người nghèo (vì sợ họ nổi dậy) hoặc cũng không chiến đấu cho bản thân họ.
    4.      Việc phân chia lao động biến mất; một cá nhân sẽ phải tham gia vào rất nhiều hoạt khác nhau để kiếm sống.
    5.      Giờ đây, rất dễ để cho một cá nhân để bán tất cả tài sản của mình và trở thành một người ăn xin thất nghiệp - và tầng lớp này chắc chắn gây ra những tội lỗi.

    8.3. Từ chính thể đầu sỏ đến Dân Chủ
    Các nhà cai trị giàu có từ chối kiềm chế những người trẻ tuổi lãng phí - họ tiếp tục cho phép chúng hoang phí, và tiếp tục cho chúng vay tiền, với hy vọng sẽ trở nên ngày càng giàu hơn.
    Tầng lớp dưới, bao gồm cả những người ăn xin và bọn tội phạm, tiếp tục phát triển. Những người cai trị giàu có trở nên mềm yếu và lười biếng, và do đó rất dễ dẫn đến nổi dậy - và đó chính xác là những gì sẽ xảy ra:
       Sau đó, nền Dân chủ sẽ xuất hiện, bất cứ khi nào người nghèo giành chiến thắng, họ sẽ giết chết một số của phía đối lập, trục xuất những người khác, và khẳng định những người còn lại có một sự tham dự bình đẳng về các quyền dân sự và các vị trí cai trị, và nhất là các vị trí trong  thành bang được lựa chọn bằng cách rút thăm.
    Ở đây Plato hiểu không phải là một nền dân chủ đại diện tương tự như nền dân chủ Mỹ đương đại, nhưng là một nền dân chủ trực tiếp, trong đó mọi người dân được phép trực tiếp tham gia vào việc làm luật, như trong hội đồng ở Athens.
    ·        Sự đa dạng thống trị - cá nhân được phép làm việc và sống như mình thấy phù hợp, do đó có một "sự đa dạng rất lớn về tính cách".
    ·        Bạn không cần phải tham gia làm luật, ngay cả khi bạn phù hợp để làm như vậy
    ·        Bạn không cần phải chiến đấu trong các cuộc chiến trong thời chiến, hoặc thậm chí không cần chiến đấu trong các cuộc chiến tranh trong thời bình.
    ·        Như Plato mô tả chế độ này, về cơ bản cá nhân được phép làm bất cứ điều gì họ muốn, thậm chí vi phạm pháp luật! Ở đây chúng ta đang tiến rất gần tới tình trạng vô chính phủ:

    8.4. Từ dân chủ đến chuyên chế
    Dân chủ là bị phá hủy bởi chính "sự ham muốn vô độ" của nó cho tự do.
    Cá nhân trở nên quá say mê tự do đến nỗi việc cai trị và pháp luật hoàn toàn bị coi thường. Tình trạng vô chính phủ phát triển hơn nữa, khiến cho chế độ chuyến chế xuất hiện:
    “... khi làm bất cứ điều gì quá mức sẽ dẫn đến việc kích động một phản ứng dữ dội ở cực ngược lại ... đặc biệt là trong việc cai trị. ... Như vậy, tự do quá mức hầu như không trở thành bất cứ điều gì ngoài sự nô lệ quá mức, đối với cả thành bang cũng như các cá nhân.”
    ·        Một anh hùng sẽ đứng lên để bảo vệ lợi ích của người nghèo chống lại những người giàu.
    ·        Hương vị của quyền lực mà người bảo vệ này trải nghiệm cuối cùng sẽ biến anh ta thành một bạo chúa.
    ·        Anh ta sẽ bao quanh mình bằng các vệ sĩ và giết tất cả kẻ thù của mình; anh ta sẽ liên tục chuẩn bị cho chiến tranh để bảo vệ chế độ của mình.
    ·        Công dân của anh ta ngày càng căm ghét anh ta.
    ·        Những người can đảm và khôn ngoan chỉ trích anh ta, và anh ta loại bỏ họ - do đó loại bỏ khỏi thành bang những người ưu tú nhất và để lại những kẻ tồi tệ nhất.
    ·        Cuối cùng thần dân của anh ta sẽ cố gắng trục xuất anh ta - nhưng thấy rằng họ yếu hơn rất nhiều so với lực lượng mà anh ta đã xây dựng để bảo vệ chính mình và quyền lực của mình.

    9. Tóm tắt quan điểm về  thành bang lý tưởng của Plato
    Hầu hết mọi người được cho là không đủ khả năng để biết điều gì thực sự tốt cho họ, vì vậy họ phải được cai trị bởi những người có tri thức này. Đó là lý do tại sao Plato chỉ trích nền dân chủ, trong đó việc cầm quyền nằm trong tay của một đám đông không có kiến thức.
    Giải pháp của Plato là giành lấy quyền kiểm soát nhà nước từ tay đa số dốt nát và cảm tính, và đặt nó trong tay của số ít duy lý, những người có thể kiểm soát chính mình và cả đa số. Những đức tính tiết độ và can đảm phải được đa số thấm nhuần thông qua các quy định của chính quyền. Kết quả là một xã hội được kế hoạch, tổ chức, và bắt đầu với việc kiểm soát sinh sản và giáo dục. Chỉ những người đủ tài năng mới được cung cấp một nền giáo dục "thực sự" và đào tạo cho địa vị cai trị. Những người không thể nắm bắt được các khái niệm trí tuệ sẽ được giáo dục theo cách khác. Vì họ không thể hiểu được bản chất hữu cơ của nhà nước và chức năng của mỗi công dân trong đó, nên họ được đào tạo để hành động phù hợp với những lý tưởng ấy.
    Trong việc lựa chọn nghề nghiệp, một người sẽ được kiểm tra để xem việc nào anh ta phù hợp nhất; sau đó sẽ được giao cho các công việc đó. Năng lực là tiêu chí duy nhất cho sự đào tạo chuyên biệt. Chỉ có tầng lớp sản xuất sẽ sở hữu tài sản. Tầng lớp chiến binh sẽ sống trong các công xã mà không biết đến quan hệ gia đình, sống chung với nhau như những người lính trong trại, không phân biệt phẩm chất vàng hay bạc. Chỉ có những người chiến binh tốt nhất sẽ được chọn để tham gia vào tầng lớp cai trị (họ phải trên 50 tuổi). Phần còn lại của tầng lớp bao gồm chiến binh, và những người hỗ trợ các quyết định của những người cai trị. Phụ nữ có địa vị bình đẳng trong tầng lớp chiến binh. Những cuộc hôn nhân được sắp xếp bởi tầng lớp cai trị trên nguyên tắc ưu sinh để giữ cho tầng lớp chiến binh được "thuần nhất".
    Sự khôn ngoan của nhà nước nằm trong tầng lớp cai trị, sự can đảm trong tầng lớp bảo vệ, và tiết độ trong sự phụ thuộc của người bị trị đối với người cai trị. Sự công chính của nhà nước nằm trong việc tất cả mọi người thực hiện công việc riêng của mình mà không can thiệp vào công việc của bất cứ ai khác. Bất công chính trị xảy ra khi một tầng lớp cản trở công việc của một tầng lớp khác .
    (http://www.westga.edu/~rlane/political/index.html).
     
    Xem trang web chính thức tại Tinhthankhaiminh.org