1. Bối cảnh
·
Aristotle
viết hai tác phẩm triết học đạo đức vĩ đại là: Nichomachean Ethics và Chính
trị học. Chúng ta sẽ tập trung chủ yếu vào Chính trị
học.
2. Chính trị học (Quyển I)
Trong quyển sách này Aristotle khảo
sát:
·
các
kiểu kết hợp khác nhau của con người để hình thành một thành bang
·
các
kiểu cai trị khác nhau, đặc biệt là kiểu cải trị của chủ đối với nô
2.1. Từ Hộ gia đình tới Thành bang. Thành bang được tạo thành từ một số
làng, và làng được tạo thành từ một số
hộ gia đình:
a. hộ gia đình
Các quan hệ cơ bản nhất của con người là:
|
Chúng là tự nhiên, và là kết quả trực tiếp của chính bản
chất con người
|
·
chồng và
vợ
|
·
bắt
nguồn từ ước muốn tự nhiên cho sự tái tạo sự sống
|
·
chủ nô
|
·
bắt
nguồn từ sự ưu việt hơn từ bản chất; một số vốn phù hợp làm người cai trị,
trong khi một số khác vốn phù hợp làm nô lệ.
|
Các
quan hệ này cùng nhau tạo thành hộ gia đình. Chúng được “tổ chức để thỏa mãn
các như cầu hàng ngày”
|
b. Làng
·
Làng
là một nhóm hộ gia đình; trong dạng thức cơ bản nhất của nó, làng là một gia
đình mở rộng sống trong sự liên kết gần gũi.
c. Thành bang
·
"Là
sự kết hợp cuối cùng và hoàn hảo"...
·
Hình
thành từ một số làng
·
Tự
nhiên, không phải là thỏa ước (cũng giống như hộ gia đình và làng); nó tồn tại tự nhiên, không phải do thỏa ước.
·
"Đỉnh cao của sự tự túc hoàn toàn"
·
Trong
khi gia đình và làng tồn tại là “vì mục đích của cuộc sống đơn thuần”, thành
bang tồn tại là “vì mục đích của một đời sống tốt lành” Aristotle nối kết sự tự
túc với đời sống tốt lành – nguyên nhân cuối cùng (mục đích, chức năng) của
thành bang là sự tự túc, theo nghĩa cho phép cá nhân sống đời sống tốt lành.
Những điều này nằm trong sự miêu tả về thành bang của Aristotle trong Chính trị học:
“…Điều làm nên một thành bang là sự
kết hợp của các hộ gia đình và thị tộc để tạo nên đời sống tốt lành, tức là đạt
được một sự tồn tại tự túc và hoàn hảo”.
Vì vậy, dù thành bang là một hiện
tượng tự nhiên, nó vẫn có một mục đích, một chức năng, một “nguyên nhân cuối
cùng”. Điều làm cho độc giả hiện đại thấy khá kì cục – làm thế nào mà một thứ
không được tạo ra có chủ đích lại có một mục đích? Một cái rìu có một mục đích,
tức là công việc mà nó được dự định thực hiện bởi người làm ra nó. Nhưng làm
sao mà một thứ vốn xảy ra một cách tự nhiên (cục đá, lá cỏ, hoặc –một nhà nước)
lại có một mục đích:
Quan điểm của Aristotle về thế giới
tự nhiên là theo thuyết mục đích luận – tất cả mọi đối tượng trong tự nhiên đều
có một mục đích, chức năng nào đó, bao gồm cả con người!
2.2. Con người, động vật chính trị. Một trong những ý tưởng nổi
tiếng nhất trong triết học chính trị của Aristotle là: “con người từ bản chất
là một động vật chính trị” – đó là bản chất của con người khi kết hợp với các
cá nhân khác trong một nhà nước – thành bang:
“…thành bang thuộc về loại sự vật mà
tồn tại một cách tự nhiên, và …con người từ bản chất là một động vật chính trị.
Những người sống ngoài thành bang, thì từ bản chất của chính anh ta, hoặc là
một dạng tồn tại thấp kém, hoặc là một tồn tại cao hơn con người…”
Ở đây không đơn giản là chúng ta
sống trong một nhóm – hầu hết các động vật khác đều như vậy. Con người thì
khác:
·
chỉ
con người sử dụng ngôn ngữ, điều này cho phép con người cho nhau biết về điều
gì là có lợi và điều gì có hại
·
chỉ
chúng ta mới có thể hiểu được sự khác nhau giữa tốt và xấu, công bằng hay bất
công
Aristotle
nói ở phần kết cuối mục I:2 là “thành bang là có trước trong trật tự tự nhiên
so với gia đình và cá nhân”. Với điều này dường như ông muốn nói là con người
sống tách rời thành bang không thực sự là con người; anh ta hoặc là “thú vật
hoặc là thần thánh”, dù chúng ta có thể gán nhãn “con người” tới anh ta. Một cá
nhân không thực sự là con người khi tách rời với thành bang.
Chú ý: Plato miêu tả sự phát triển
của một thành bang hoàn hảo mang tính giả thiết; trong khi Aristotle muốn giải
thích bằng cách nào một thành bang thực sự đi đến tồn tại. Nhưng cả hai đồng ý
là thành bang là một hiện tượng tự nhiên, chứ không phải nhân tạo (không như
Hobbes, người thấy nhà nước là một thỏa ước, và đặc biệt là dựa trên một quan
hệ khế ước giữa người cai trị và thần dân).
2.3. Nô lệ tự nhiên. Tự nhiên vốn chưa đựng nhiều mối quan hệ cai trị/phụ
thuộc:
cai trị
|
phụ thuộc
|
tâm hồn
|
thể xác
|
phần duy lý của tâm hồn
|
phần xúc cảm của tâm hồn
|
con người
|
động vật thuần hóa
|
đàn ông
|
đàn bà
|
Những mối quan hệ này là tự nhiên và
có lợi. Mối quan hệ giữa người chủ và nô lệ cũng giống như những mối quan hệ
này: là mối quan hệ tự nhiên và có lợi.
Một người
là nô lệ tự nhiên thỏa mãn hai điều kiện
a.
Anh
ta có khả năng trở thành tài sản của người khác (và bởi vì điều này thực sự làm
cho trở thành tài sản của người khác). Trong I:6, Aristotle thừa nhận rằng
những người đàn ông tự do có thể bị bắt giữ và buộc trở thành nô lệ khi họ bị
đánh bại trong chiến tranh…vì vậy điều này là một điều kiện cần nhưng không đủ
để trở thành một nô lệ tự nhiên.
b.
Anh
ta có thể hiểu lập luận của người khác nhưng không thể tự mình lập luận – tức
là, anh ta có thể hiểu và thực hiện một kế hoạch mà người khác đưa cho anh ta,
nhưng anh ta không thể phát triển một kế hoạch của riêng mình.
Ở đây
Aristotle đang ủng hộ một lý thuyết về sự lệ thuộc tự nhiên đối với uy quyền.
Khi nó xuất hiện trong quan hệ chủ và nô (và đàn ông và đàn bà), chủ (đàn ông)
có thẩm quyền đạo đức để cai trị nô lệ (đàn bà) vì những kết quả tốt (cho cả
chủ và nô) bắt nguồn từ thực tế là, bên này vốn từ bản chất là cao cấp hơn đang
kiểm soát bên kia vốn từ bản chất là thấp kém hơn.
Đây có thể là một câu trả lời công
bằng cho câu hỏi thứ hai của chúng ta: Điều gì biện minh cho một xã hội chính
trị (nguyền gốc của quyền lực chính trị hợp pháp là gì?). Cụ thể là, nó có thể
giống như câu trả lời tới câu hỏi áp dụng cho chủ và nô: đó là có một sự ưu
việt tự nhiên (liên quan đến sự duy lý) của người chủ đối với nô dùng để biện
minh cho sự cai trị của chủ đối với nô. Nhưng thẩm quyền của chủ đối với nô
không phải là thẩm quyền chính trị (và do vậy không phải là thẩm quyền chính
trị hợp pháp). Thẩm quyền của một người cai trị chính trị hợp pháp không bắt
nguồn từ sự ưu việt tự nhiên, vì nó là một thẩm quyền của những người bình đẳng
đối với những người bình đẳng…[chúng ta sẽ thảo luận điều này khi chúng ta tới
chương 4 của quyền VII].
3. Chính trị
học Quyển II
3.1. Phê phán quan niệm của Plato về tầm quan trọng của sự
thống nhất
Aristotle phê phán giả định mà Plato
tạo ra khi ủng hộ sự chia sẻ chung vợ giữa những người cai trị. Giả định này là
“sự thống nhất của toàn thành bang là sự tốt lành tối cao” Theo lời của chính
Plato:
“… Bạn biết điều gì có hại cho thành
bang hơn là việc xé rời nó ra thành từng mảnh, và làm nó thành vô số thành bang
thay vì một thành bang? Hay liệu bất cứ sự tốt lành nào cao hơn cái sẽ ràng
buộc thành bang lại với nhau và làm cho nó thành một thể thống nhất?”.
Sự phê
phán của Aristotle là phải có một sự giới hạn đối với mức độ thống nhất -- vì
sự thống nhất tối đa sẽ phá hủy thành bang.
“…
một thành bang, bởi chính bản chất của nó, là sự đa dạng. Nếu nó trở nên thống
nhất hơn, trước tiên nó sẽ trở thành một hộ gia đình thay vì thành bang, và sau
đó là một cá nhân thay vì hộ gia đình; vì tất cả chúng ta có thể thấy hộ gia đình
thống nhất hơn thành bang, cá nhân thống nhất hơn hộ gia đình. Điều này theo
sau là, chúng ta không nên đạt đến mục đích này, vì nó sẽ phá hủy thành bang”.
Nếu thành bang ngày càng thống nhất
hơn, trước tiên nó sẽ trở thành một hộ gia đình, và sau đó trở thành một cá
nhân – do vậy, nó không còn là thành bang nữa.
Vì vậy điều mà Plato cho là tốt cho
thành bang (sự thống nhất) thự sự là “sự phá hủy của nó”. Aristotle cho rằng có
ba điều kiện cần thiết cho sự ổn định của thành bang là: (1) đa nguyên; (2) đa
dạng và (3) có đi có lại.
a.
Đa nguyên: một thành bang mạnh không phải là
một đơn vị duy nhất – nó phải được cấu thành từ một số đơn vị.
b.
Đa dạng: “thành bang không chỉ được cấu thành bởi một số người; nó
cũng được cấu thành từ các dạng người khác nhau, vì một thành bang không thể
được cấu thành bởi những người giống nhau”
c.
Có đi có lại: "mỗi bộ
phận của nó mang lại cho một bộ phận khác một lượng tương đương với những gì mà
nó nhận được từ bộ phận khác" Các dạng người khác nhau trong
một thành bang phải cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho nhau. Như, bác sĩ có thể
dựa vào nông dân vì thực phẩm; nông dân có thể dựa vào bác sĩ vì sự chăm sóc
sức khỏe. Những gì mà nhóm này cung cấp cho nhóm khác phải không có giá trị hơn
những gì mà họ nhận được – nếu không, họ sẽ dừng cung cấp hàng hóa và dịch vụ
của người khác.
Đây là tất cả những thứ cần thiết,
không chỉ cho sự ổn định, mà cho sự tự đầy đủ của thành bang.
3.2. Phê phán chủ nghĩa cộng sản gia đình của Plato
Các vấn đề bắt nguồn từ bản chất “tập thể” của các mối quan
hệ
Ở đây Aristotle đưa ra một dự đoán
về thái độ của người cai trị sẽ có đối với tài sản khi mà họ dùng chung (bao
gồm vợ và con họ). Khi họ nghĩ về tài sản như là “của tôi”, ở đây muốn nói tới tập
thể chứ không phải cá nhân, thì không ai nghĩ về tài sản 100% thuộc về anh ta
(cũng như 100% thuộc về người khác); thay vào đó, anh ta nghĩ về nó như chỉ một
phần thuộc về chính anh ta (một phần thuộc về người khác). Và kết quả là:
i.
cá
nhân trở nên thờ ơ với tài sản khi nó là của chung, do đó sẽ bỏ mặc nó [ở đây
dường như Aristotle nghĩ về hiện tượng mà các nhà tâm lý xã hội gọi là sự khếch
tán trách nhiệm – khi nhiều người hơn chịu trách nhiệm tập thể cho một vấn đề
cụ thể, thì mỗi trong số họ sẽ cảm thấy trách nhiệm cá nhân sẽ ít hơn]
ii.
các
mối quan hệ sẽ là phân số, ví dụ nếu 1000 người đàn ông có chung một con, thì
đứa con đó chỉ là 1/1000 của mỗi người họ
Các vấn đề khác
iii.
Sự
sắp xếp của Plato yêu cầu là tất cả không biết ai thực sự là cha mẹ đẻ của ai –
nhưng điều này không luôn đảm bảo, vì một số đứa trẻ sẽ mang những đặc điểm vật
lý giống với cha mẹ chúng. Vì vậy cuối cùng một số sẽ biết những đứa trẻ nào
thực sự là con cái họ.
iv.
Nếu
bạn không biết ai thực sự có quan hệ huyết thống với bạn, bạn có thể vu khống,
tấn công, hoặc giết chết những người mà không nhận ra họ là họ hàng của bạn.
Điều tồi tệ hơn, bạn có thể có quan hệ thể xác đối với họ!
v.
Sẽ
có ít tình bạn giữa những người cai trị nếu họ chia sẽ chung vợ và con, và điều
này làm mất đi sự ổn định: “tình bạn ….là cái tốt lành chính của thành bang,
bởi vì nó là sự bảo vệ tốt nhất chống lạ mối nguy của những sự tranh chấp phe
phái”.
vi.
Liên
quan đến sự trao đổi những đứa trẻ giữa các tầng lớp: những sự trao đổi như vậy
sẽ không thể giữ bí mật – bởi vì một số phải quản lý chúng! Cộng với vấn đề
(iv) sẽ làm tồi tệ thêm cho những ai bị trao đổi – như một người lãnh đạo là
con của thợ thủ công không nghĩ về các thành viên của tầng lớp thợ thủ công như
có quan hệ với anh ta – vì vậy anh ta có khả năng vu không, tấn công, giết hoặc
không cảm thấy có “cảm xúc tự nhiên” với những người mà anh ta có quan hệ huyết
thống.
3.3 Phê phán chủ nghĩa cộng sản về sở hữu của Plato
Bây giờ Aristotle đi đến câu hỏi về
việc sử dụng và sở hữu tài sản (thay vì sở hữu vợ và con). Quan hệ nào sau đây
là tốt nhất?:
1.
tài
sản được sở hữu tư, sử dụng chung
2.
tài
sản được sở hữu chung, sử dụng tư
3.
tài
sản được sở hữu chung và sử dụng chung
(Thật kì lạ, ông không cân nhắc khả
năng thứ tư: tài sản được sở hữu tư và sử dụng tư)
Thứ nhất Aristotle lập luận rằng sở
hữu tư là tốt hơn sở hữu chung: chắc chắn, có một số người sẽ làm việc chăm chỉ
hơn người khác và sử dụng ít hơn người khác, điều này dẫn đến xung đột giữa
những người sở hữu tài sản: “nếu họ không chia đều về công việc và sự sử dụng
các sản phẩm, thì những người làm nhiều hơn, và nhận ít hơn sẽ phàn nàn về
những người nhận nhiều làm ít”.
Sau đó ông
nhấn mạnh rằng cần phải có một hệ thống sở hữu tư nhân và sử dụng chung:
·
Khi
tài sản được sở hữu tư, có ít sự bất đồng giữa các nhân, và cá nhân sẽ làm việc
chăm chỉ hơn để chăm lo cho những gì mà họ sở hữu.
·
Tài
sản được sở hữu tư, điều đó tốt về mặt đạo đức cho người sở hữu chia sẻ những
gì họ sở hữu với người khác, ví dụ cho phép người khác sử dụng nô lệ, ngựa, và
chó của họ; cho phép người đi lại lấy những gì họ cần từ trang trại khi họ đi
qua vùng quê, vv.
·
Suy
nghĩ về một thứ như là của chính bạn thì mang đến sự hài lòng hơn - điều này
chỉ có thể nếu tài sản được sở hữu tư.
·
Sự
thực hành của đức hạnh rộng lượng chỉ có thể nếu tài sản được sở hữu tư. Ở đây
Aristotle một lần nữa mở rộng sự phê phán của ông nhắm đến không chỉ tới chủ
nghĩa cộng sản về sở hữu mà còn tới chủ nghĩa cộng sản cực đoan vốn bao gồm
việc chia sẻ vợ và con – nó ngăn chặn con người thực hành đức hạnh chừng mực
trong các vấn đề về quan hệ thể xác – vì một cách để thực hành một tính khí như
vậy là kiềm chế ước muốn vợ của người khác.
4. Các loại thể chế và sự biện minh cho chúng
4.1. Các loại thể chế và sự biện minh cho chúng
Thể chế (politeia) của một thành bang là tổ chức hay cấu trúc
của thành bang; thể chế của thành bang quyết định dạng thành bang sẽ là (dân
chủ, quý tộc...). Một sự dịch chính xác của "politeia"
là hệ thống chính trị.
Vì vậy Aristotle muốn khảo sát các
dạng thể chế, hệ thống chính trị khác nhau: có bao nhiêu thể chế, và chúng khác
nhau như thế nào?
Thứ nhất, câu hỏi mở đầu: mục đích
của thành bang là gì? câu trả lời của Aristole: đời sống tốt lành: chức năng
của thành bang là tạo ra đời sống tốt lành, cho mỗi người và cho toàn bộ thành
bang. Như Aristotle nói sau đó (trong chương 4 quyển VII): “có một thứ rõ ràng
về thể chế tốt nhất: nó phải là kiểu tổ chức chính trị mà cho phép mọi người
sống cuộc sống tốt nhất và hạnh phúc nhất”.
Điều này chỉ dẫn chúng ta hướng đến
một câu trả lời sơ bộ cho câu hỏi về các dạng thể chế:
“... Những thể chế nào quan tâm đến
lợi ích chung là các thể chế đúng đắn. Những
thể chế chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân của người cai trị là những thể
chế sai lầm, xuyên tạc của các dạng thể chế đúng đắn. Những thể chế xuyên tạc
như vậy là có tính chuyên chế; trong khi thành bang là một sự kết hợp của những
người tự do”.
Với sự phân biệt này, ông miêu tả
sáu dạng chính quyền khả hữu:
Đúng đắn -
thực thể nắm giữ quyền tối cao cai trị vì lợi ích chung
|
Sai trái (xuyên tạc) -
thực thể nắm giữ quyền tối cao cai trị vì lợi ích của chính nó
|
|
Cai trị bởi một người
|
vua
|
chuyên chế - cai trị bởi một người, vì lợi ích riêng của
anh ta
|
Cai trị bởi số ít
|
quý tộc (từ quý tộc nghĩa là những người tốt nhất)
|
đầu sỏ - cai trị bởi những người giàu có vì lợi ích của họ
|
Cai trị bởi đa số
|
“chính quyền hợp hiến” hay Polity
|
"dân chủ" - cai trị bởi người nghèo, vì lợi ích
của riêng họ
|
4.2 Dạng thể chế nào là tốt nhất?
Aristotle đưa ra câu hỏi sau: “ai sẽ
nắm quyền tối cao của thành bang?” ông trở lại với các dạng thể chế mà ông liệt
kê trong 4.1 và bác bỏ tất cả ngoại trừ một:
·
người
nghèo (đa số) – nếu họ lấy tài sản của người giàu để phân phối cho mọi người,
thì rõ ràng họ “đang phá hủy thành bang” – và bất cứ thứ gì phá hủy thành bang
thì bất công.
·
kẻ
chuyên chế - sử dụng quyền lực để củng cố ý chí của anh ta – rõ ràng là bất
công
·
người
giàu (thiểu số) – như ở trên, họ sử dụng quyền lực để lấy tài sản của người
khác, cũng là bất công
·
“dạng
tốt hơn ” – cũng không công bằng vì nếu nhóm người này nắm giữ chính quyền lâu
dài, thì không ai còn cơ hôi có được danh dự khi nắm giữ chức vụ, và việc phủ
nhận danh dự đó đối với người khác là không công bằng.
·
“người
tốt nhất” – dạng này thậm chí tồi tệ hơn, vì danh dự của việc giữ chức vụ bị
phủ nhận đối với mọi người ngoại trừ ông ta.
·
[luật
pháp – tức là nếu thực thể nắm giữ quyền tối cao cai trị theo luật của thành
bang, thay vì của cá nhân hay tổ chức khác – vẫn không tốt, vì luật có thể nhất
quán với các dạng chính quyền vừa bị bác bỏ]
Chỉ còn lại một dạng cai trị: “chính
quyền hợp hiến – Polity”, cai trị bởi nhiều người vì lợi ích chung. Aristotle
bảo vệ dạng chính quyền hợp hiến trong đó những người tự do (không phải nô lệ
hay phụ nữ) tham dự trong chính quyền bằng cách lựa chọn các cá nhân cho các
chức vụ công. [đây không phải là nền dân chủ Athens, trong đó tất cả những
người đủ tư cách phục vụ trong hội đồng lập pháp, mà nó tương tự với nền dân
chủ đại diện hiện nay].
Hai lời cảnh báo
Aristotle không hoàn toàn tán thành
Chính quyền hợp hiến (Polity) như là hệ thống chính trị tốt nhất, vì hai lý do:
1.
Dù
bất kể dạng thể chế nào mà thành bang có, thì quyền hợp pháp tối cao phải nằm
trong luật. Nhưng bởi vì không thể hình thành luật chung đủ để bao gồm tất cả
mọi hoàn cảnh thực tế, nên vẫn có một nhu cầu cho các cá nhân cụ thể giữ quyền
lực lập pháp và tư pháp. Vì vậy sự bảo vệ của ông đối với chính thể hợp hiến
phải được hiểu như là sự phòng vệ: thẩm quyền chính trị kì cùng thuộc về luật
pháp của một thành bang công bằng (thành bang với thể chế đúng đắn), nhưng thẩm
quyền đó đôi khi phải mở rộng tới các cá nhân, và cách tốt nhất cho nó là được
mở rộng trong một chính thể hợp hiến.
2.
Dạng thể chế lý tưởng là quân chủ (hoặc có lẽ là quý
tộc):
Do vậy, bất cứ khi nào mà toàn bộ
gia đình, hay một số người trong số họ, xuất hiện ra quá nổi bật về đức hạnh so
với đức hạnh của mọi người, thì đó là công bằng khi gia đình này địa vị của
vua, và có quyền kiểm soát đối với mọi thứ, và anh ta sẽ là vua.
Về ba chế độ [chế độ quân chủ, chế
độ quý tộc, và chế độ hợp hiến], chế độ quân chủ là tốt nhất, và chế độ hợp
hiến là tồi tệ nhất.
Nhưng nền quân chủ không thể hoạt
động trong thực tế - nó chỉ hoạt động nếu có những người mà siêu việt hơn những
người bình thường – như là thần thánh. Vì không thể có người cai trị hoàn hảo
như vậy, nên Aristotle tập trung vào dạng thể chế thực tiễn nhất có thể, dạng
mà có khả năng tồn tại trong thế giới thực
Lập luận của Aristotle khi ủng hộ chính thể hợp hiến
Luận điểm
của ông dựa trên vào yêu sách trung tâm: tất cả mọi người, xem như tập thể, tốt
hơn một nhóm nhỏ những các nhân tốt nhất:
·
Cụ thể hơn, họ sẽ phán đoán tốt hơn về ai là người
nên trao thẩm quyền chính trị. Nhớ rằng Aristotle đang bảo vệ dạng chính thể
hợp hiến trong đó số nhiều không được phép giữ chức vụ, nhưng họ được phép lựa
chọn các cá nhân sẽ giữ các chức vụ. Đây là lý tưởng cho rằng về mặt tập thể,
họ sẽ đưa ra quyết định tốt hơn về việc ai sẽ cai trị, nhưng họ phải bị ngăn
cản khỏi sự phục vụ cá nhân – vì họ chỉ là người bình thường và các phán đoán
cả nhân của họ không thể tin tưởng.
·
Ông
cho rằng đa số có thể tốt hơn, nhưng không phải là tất yếu sẽ tốt hơn. Tất cả
những gì mà Aristotle đang yêu sách là khả năng một nhóm lớn gồm các cá nhân ít
tốt hơn trở nên tốt hơn về mặt tập thể so với một nhóm những người tốt nhất là
có thể.
Phản bác 1: Một cá nhân có thực hiện một công việc tốt trong nghề nghiệp của anh ta
hay không được đánh giá tốt nhất bởi các thành viên khác của nghề nghiệp đó.
Ví dụ, các bác sĩ có thể đưa ra các đánh giá tốt nhất về năng lực của các bác
sĩ khác. Vì vậy người tốt nhất để đánh giá liệu một cá nhân có là một chính
khách tốt hay không là các chính khách khác, chức không phải “số đông”.
Câu trả lời của Aristotle:
·
Một
lần nữa, rất có thể để cho số đông trên phương diện tập thể là một quan tòa tốt
hơn
·
Yêu
sách chung trên không áp dụng cho tất cả nghề nghiệp, dù sao (người dực tiệc có
thể nói về thức ăn tốt từ thức ăn dở, ngay cả khi họ không nấu ăn; chủ nhà có
thể nói khi nào có một điều gì đó sai sót với ngôi nhà của mình ngay cả khi anh
ta không xây dựng nó)
Phản bác 2: Thật vô lý khi nghĩ rằng số đông,
tức những người có tính cách tương đối nghèo nàn, có thể phán đoán tốt hơn
trong các vấn đề quan trọng (giống như người đang giữ chức vị) – những người
với tính cách tốt nhất sẽ là những người phán đoán tốt hơn.
Câu trả lời của Aristotle:
·
(tương
tự như trước): Đó là số đông khi xem xét trên phương diện tập thể là ( hay ít nhất có thể là) người phán đoán tốt hơn đối với
những thứ quan trọng nhất.
·
Số
đông, một lần nữa khi xét trên phương diện tập thể, sở hữu nhiều tài sản hơn
thiểu số {dường như Aris dùng câu trả lời này nói với những người vẫn nghĩ
thiểu số phải cai trị nhờ vào tài sản mà họ sở hữu}
Vì vậy “đa
số”, bởi vì họ có thể thực hiện sự phán đoán tập thể tốt hơn ngay cả đối với
một thiểu số những người tốt nhất, có quyền đạo đức (không phải cai trị trực
tiếp, nhưng) tham dự vào các chức năng thảo luận và phán quyết của chính
quyền - bao gồm bầu cử các quan chức.
4.3. Nguồn gốc của quyền lực chính trị hợp pháp
Dù Aristotle đã chỉ ra dạng thể chế
mà ông nghĩ là hiện thực nhất (chính thể hợp hiến), ông vẫn chưa chỉ ra thẩm
quyền đạo đức để cai trị bắt nguồn từ đâu. Ông không đưa ra câu trả lời rõ ràng
cho câu hỏi này, nhưng có một manh mối quan trọng trong mục VII:
“…thành bang là sự kết hợp của những
người bình đẳng; và mục đích của nó là đời sống tốt nhất và cao cả nhất có thể.
Cái tốt lành cao nhất là hạnh phúc. Nhưng, khi mọi thứ xảy ra, một số có thể
chia sẻ nó đầy đủ, nhưng số khác chỉ chia sẻ nó một phần hoặc thậm chí không
chia sẻ gì cả. Rõ ràng đây là lý do tại
sao có các dạng thành bang khác nhau, và một số hiến pháp khác nhau. Theo đuổi
mục tiêu này theo các cách khác nhau và bằng các phương tiện khác nhau, những
người khác nhau tạo ra các lối sống và hiến pháp khác nhau.”
Điều này, cùng với sự bảo vệ của ông
đối với chính quyền hợp hiến, chỉ ra rằng Aristotle đang thừa nhận một lý
thuyết về thẩm quyền chính trị dựa trên sự đồng thuận, tức là câu trả lời của
ông cho câu hỏi Q 2 (điều gì biện minh cho một xã hội chính trị) đó là sự đồng
thuận của người dân mang lại cho quyền lực cai trị thẩm quyền đạo đức. Những
người tự do đồng ý rằng họ sẽ có một dạng thể chế cụ thể (hoặc cai trị bởi một
người hoặc bởi một số người, hoặc bởi đa số) – và đó là sự đồng thuận mang lại
cho thiểu số hoặc đa số thẩm quyền chính trị để cai trị.
Điều này gợi ý rằng một chế độ cai
trị với thẩm quyền chính trị hợp pháp vẫn có thể cai trị yếu kém. Theo sơ đồ
của Aristotle, có thể để các công dân đồng thuận được cai trị bởi một người
hoặc một nhóm người (do đó hợp pháp hóa sự cai trị của cá nhân hay nhóm đó)
nhưng sau đó nhóm đó có thể cai trị kém cỏi – không thực hiện những điều là lợi
ích của tất cả các công dân, không giúp mở mang giáo giục giữa các công dân
trong thành bang. Điều này là không thể trong nền cộng hòa của Plato, nơi cá
nhân hoặc nhóm có thẩm quyền nếu và chỉ nếu họ có tri thức về cái gì là tốt cho
thành bang.
5. Phân phối công bằng (Chính trị học Quyển III)
Hai chương của quyển III của tác phẩm Chính trị học bàn về vấn đề phân phối công bằng. III:9 bàn về phân
phối tài sản; III:12 bàn về phân phối quyền lực chính trị
5.1. Tài sản (III:9). Aristotle xem xét và bác bỏ hai lập
luận về bản chất của công bằng và sự phân phối tài sản.
Lập luận của những người theo chính thể đầu sỏ
Công bằng là không bình đẳng cho những người không bình
đẳng. Chúng ta là không bình đẳng.
Vì vậy công bằng đòi hỏi rằng chúng ta có những lượng
không bằng nhau
|
Lập luận của những người theo chính thể dân chủ
Công bằng là bình đẳng cho những người bình đẳng. Chúng ta
là bình đẳng
Vì vậy công bằng yêu cầu rằng chúng ta có những lượng như
nhau
|
·
Theo một
nghĩa nào đó, cả hai bên đồng ý với giả thiết đầu tiên của họ: giả thiết đầu
tiên này là tương tự, và trong thực tế là hai mặt của cùng một yêu sách: công
bằng là không bình đẳng cho những người không bình đẳng và bình đẳng cho
những người bình đẳng.
·
Nhưng họ bất đồng về giả thiết thứ hai, bởi vì mỗi
bên đưa ra một giả thiết sai lầm:
|
|
·
Những
người bất bình đẳng theo một khía cạnh (ví dụ như giàu có) là bất bình đẳng
trong mọi khía cạnh
|
·
Những
người bình đẳng theo một khía cạnh (như sinh ra là tự do) là bình đẳng trong
mọi khía cạnh
|
Aris bác bỏ cả hai giả thiết và đưa
ra một khái niệm khác trong lập luận sau, lập luận bắt đầu với yêu sách nền
tảng của ông về chức năng của thành bang:
1. Mục đích/chức năng/ mục tiêu của
thành bang là đảm bảo rằng các công dân của nó sống một đời sống tốt lành [...mục đích của thành bang
không đơn thuần là; sống; mà thay vào đó là một đời sống có chất lượng tốt.
Điều tạo nên một thành bang là một sự kết hợp của các hộ gia đình và các bộ tộc
vì mục tiêu đạt được một sự hiện hữu hoàn hảo và tự chủ…]
2. Mức độ mà một người chia sẻ các
lợi ích của thành bang là tỷ lệ với đóng góp của anh ta cho mục đích/mục
tiêu/chức năng của thành bang.
3. Do đó, những người đóng góp nhiều
nhất để đảm bảo cuộc sống tốt lành cho thành bang và các công dân của nó phải
được hưởng nhiều nhất các lợi ích của nó.
5.2. Quyền lực (III:12). Aristotle tiếp tục thảo luận về sự
phân phối công bằng một lần nữa trong III:12. Trong III:11, ông lập luận rằng
quyền bầu cử và xét xử phải được giành cho đa số, và giải thích điều này ở
chương này: sự phân phối quyền lực chính trị như một nỗ lực để xác định những
người được bầu vào các chức vụ chính trị.
Aristotle
xem xét (và bác bỏ) luận điểm sau:
1.
Khi
các cá nhân khác nhau theo một số khía canh nào đó, như một số tốt hơn số khác,
thì những gì mà họ nhận được sẽ tỉ lệ với sự xứng đáng của họ.
2.
Do
đó, “các chức vụ và danh dự phải được phân phối không như nhau trên cơ sở sự ưu
việt hơn”. Nói cách khác, quyền lực chính trị phải thuộc về những ai ưu trội
hơn mọi người.
Bác
bỏ 1: khi phân phối một cái gì đó (x),
chúng ta nên xem xét những người có thể sử dụng nó tốt nhất. Ví dụ, nếu chúng
ta đang phân phối sáo và không có đủ sáo tốt cho tất cả mọi người, thì cách
phân phối công bằng nhất là gì? Giả sử chỉ có một cây sáo tốt nhất – ai sẽ nhận
được nó? Không phải là người cao nhất, hoặc người từ gia đình tốt nhất – vì
người cao hay người sinh ra trong gia đình tốt là không thích hợp. Người sẽ
nhận được nó là người có thể sử dụng nó tốt nhất. Vì vậy, ngay cả khi người
chơi sáo tốt nhất thiếu những phẩm chất khác (anh ta xấu xí, thấp bé, vv), anh
ta vẫn nên nhận được cây sáo tốt nhất - vì khả năng sử dụng sáo là tiêu chí duy
nhất liên quan đến phân phối sáo. Nhìn chung, khả năng sử dụng x là tiêu chí
duy nhất liên quan đến việc phân phối của x.
Bác
bỏ 2: luận điểm này ngụ ý rằng "
phẩm chất này sẽ có thể so sánh được với phẩm chất khác" – điều này là sai
lầm. Tức là, nếu chúng ta chấp nhận luận điểm này, thì chúng ta cũng phải chấp
nhận rằng điều sau là có lý:
·
A
thì thông minh hơn chiều cao của B;
·
Nước
da của C thì tốt hơn so với tầm vóc D…
Nhưng những câu trên không có ý
nghĩa, vì nó ngụ ý rằng một phẩm chất này cũng có thể tương đương một phẩm chất
khác.
Dựa trên những phản bác này,
Aristotle kết luận: "trong vấn đề chính trị không có lý do chính đáng để
đặt yêu sách về sự thực thi quyền lực trên bất kỳ sự ưu việt nào".
Vì vậy, tiêu chí nào chúng ta căn cứ
vào đó để phân bố quyền lực chính trị? Câu trả lời Aristotle đã được ám chỉ
trong Phản bác 1 ở trên: nhìn chung, khả năng sử dụng x là tiêu chuẩn duy nhất
liên quan đến sự phân bố của x. Vì chức năng của thành bang là để cung cấp cho
cuộc sống tốt đẹp cho tất cả, quyền lực chính trị và danh dự cũng phải được
phân phối giữa những người có thể sử dụng nó tốt nhất để phục vụ chức năng này:
những người đó là ...
·
sinh
ra tự do và có một mức độ giàu có [cần thiết cho cuộc sống của thành bang]
·
công
chính và là những người lính tốt [cần thiết cho cuộc sống tốt lành của thành
bang]
6. Đời sống tốt lành
Aristotle đã lập luận (trong quyển
III của tác phẩm Chính trị học) ủng
hộ cho Polity (“chính thể hợp hiến”, politeia theo nghĩa quy phạm là cai trị bởi số nhiều vì lợi ích chung) như
là dạng hệ thống chính trị tốt nhất (dù ông tìm cách thoái thác điều này
bằng cách nói rằng thẩm quyền chính trị tối cao nằm trong trong luật của thành
bang, và Polity là dạng chính thể tốt nhất có thể trong thực tế – chế độ
quân chủ sẽ là tốt nhất nếu tồn tại một người siêu vượt hơn so với những người
khác, từ đó có thể trao cho anh ta toàn bộ thẩm quyền chính trị).
Đến lúc này, ông muốn tìm hiểu chi
tiết hơn một thành bang như vậy sẽ như thế nào, và đặc biệt làm thế nào nó có
thể khiến cho mọi người trong thành bang có thể có một cuộc sống tốt lành. Vì
vậy ở đây Aristotle hướng đến câu hỏi:
“Kiểu sống nào” là đáng mong muốn nhất? Nghĩa
là cách sống tốt nhất là gì? Đời sống hạnh phúc là gì?
Trong tác phẩm Nichomachean
Ethics, một tác phẩm ra đời trước
Chính trị học, Aristotle nói rất nhiều về vấn đề đời sống tốt
lành, sự thịnh vượng, hạnh phúc. Trước khi chúng ta tìm hiểu sự giải thích về
đời sống tốt lành trong Chính trị học,
thì chúng ta cần quay trở lại với tác phẩm này.
6.1. Bối cảnh từ Nichomachean Ethics: Đời
sống tốt lành
Aristotle cho rằng con người có một
chức năng độc nhất. Cũng như các đối tượng tự nhiên và nhân tạo khác có một
chức năng độc nhất (cái rừu – để cắt, mắt – để nhìn…), vì vậy con người cũng có
một chức năng độc nhất: hoạt động duy lý (“một hoạt động của tâm hồn theo sau các
nguyên tắc duy lý”).
Cũng như một cái rừu tốt sẽ cắt tốt,
và một mắt tốt có thể nhìn tốt, thì một người tốt là người mà:
·
thể hiện sự xuất sắc trong các hoạt động duy lý ….
·
không chỉ thỉnh thoảng, mà còn trong suất tiến trình
của cuộc đời
Chú ý sự nhấn mạnh nên sự tích cực:
hạnh phúc/đời sống tốt lành nhất thiết là một đời sống tích cực, đời sống của
hành động, và hành động tốt đẹp.
Vì vậy đối với Aris, hạnh phúc không
phải là xúc cảm hay cảm nhận. Nó là một trạng thái mà một người đạt được một
đời sống tích cực được thực hiện phù hợp với các khả năng duy lý đã được nhận
ra một cách đầy đủ.
6.2. Ba dạng tốt lành (chương VII Quyển 4).
Người với đời
sống tốt lành sở hữu ba dạng tốt lành ….
·
những cái tốt bên ngoài (thức ăn, quần áo, sự giàu
có, quyền lực, tài sản, danh tiếng)
·
những
cái tốt của thể xác (sức khỏe)
·
những cái tốt của tâm hồn (trí tuệ và các phẩm chất
đạo đức, như sự can đảm, sự khôn ngoan, sự ôn hòa, và công bằng) …..và chúng là
những cái tốt lành là quan trọng nhất:
“… những cái tốt của tâm hồn không
thể đạt được hoặc được duy trì bằng cái tốt bên ngoài. Nó là một con đường
khác. Bạn có thể thấy rằng đời sống hạnh phúc – dù nó bao gồm sự hài lòng hay
sự tốt lành, hay cả hai – thuộc về những ai mở mang tính cách và tinh thần của
họ tới mức độ cao nhất, và giữ cho sự đạt được những cái tốt bên ngoài trong
các giới hạn vừa phải”.
Aristotle đưa ra ba lý lẽ để cho
việc nghĩ rằng cái tốt lành của tâm hồn thì quan trọng hơn cái tốt lành bên
ngoài:
·
có
một giới hạn về số lượng cái tốt bên ngoài mà có thể mang lại lợi ích cho bạn –
sớm hay muộn, thêm càng nhiều cái tốt bên ngoài sẽ gây ra tác hại cho bạn, hoặc
ít nhất là không còn mang lại cho bạn bất cứ sự tốt lành nào; nhưng sẽ là không
đúng khi cho rằng sự gia tăng cái tốt lành của tâm hôn sẽ gây ra tác hại cho
bạn hoặc ngừng mang lại lợi ích cho bạn.
·
Nếu
x có giá trị hơn y, thì trạng thái tốt nhất của x siêu vượt hơn so với trạng
thái tốt nhất của y. Tâm hồn giá trị hơn thể xác và giá trị hơn những thứ bên
ngoài (và do đó giá trị hơn những cái tốt lành của thể xác)
·
“…đó là vì lợi ích của tâm hôn mà những thứ khác trở
nên đáng mong muốn, và do đó phải được mong muốn bởi những người tốt”
Vì vậy quan niệm của Aristotle về
đời sống tốt dường như là một đời sống được đặc trưng bởi ba cái tốt lành (vì
không ai có thể hạnh phúc mà không có một mức độ nào đó của cái tốt lành bên
ngoài và cái tốt lành thể xác), với cái tốt quan trọng nhất là cái tốt lành của
tâm hồn: “….lượng hạnh phúc đến với mỗi cá nhân tương đương với lượng tốt lành và
sự khôn ngoan của anh ta, và sự tốt hành và sự khôn ngoan của các hành động mà
anh ta thực hiện.”
Bây giời
Aristotle đưa ra một hành động mà trái ngược với chiến lược của Plato; thay vì
bắt đầu với yêu sách đạo đức của thành bang và lập luận từ đó đến các yêu sách
đạo đức đối với cá nhân, Aristotle ủng hộ điều đối lập: ông nói rằng sự giải
thích về đời sống tốt lành cho một cá nhân cũng đúng cho một thành bang.
… Sự can đảm của thành bang, và công
lý và sự khôn ngoan của thành bang, có cùng sức mạnh, và cùng đặc điểm, như các
phẩm chất mà khiến cho các cá nhân có chúng được gọi là công chính, khôn ngoan
và tiết độ.
Vì vậy một
thành bang, giống như một cá nhân, có một đời sống tốt lành nếu nó có một số
đức hạnh nào đó và tham gia vào các hoạt động phản ánh những đức hạnh đó.
6.3. Hành động bên ngoài và sự phát triển bên trong. Dạng hành động nào quan trọng hơn
đối với đời sống tốt lành cho thành bang?
hành động bên ngoài
|
sự phát triển bên trong
|
sự mở rộng đế chế, chiềm giữ ngày càng nhiều lãnh thổ
|
thành bang quan tâm đến sự phát triển văn hóa và các nguồn
lực của mình
|
Aristotle lưu ý một quan điểm phổ
biến: sự chinh phục và cai trị đối với các thành bang bên ngoài (nghĩa là chủ
nghĩa đế chế) cấu thành một đời sống tốt cho thành bang
Với quan
điểm ủng hộ chủ nghĩa đế chế này, việc cho rằng sự chinh phạt các thành bang
khác là không công bằng là không thích đáng; vì hầu hết mọi người quan tâm về
công bằng trong trừng mực mà họ và thành bang của họ có liên quan đến.
Aristotle
phản ứng với quan điểm ủng hộ chủ nghĩa đế chế này bằng cách khẳng định rằng
chiến tranh và chinh phạt là phương tiện cho mục đích chủ yếu của thành bang
(hạnh phúc/ đời sống tốt lành) – chúng không là các mục đích tự thân.
Dù ông
không nói rõ ràng, nhưng Aristotle dường như gợi ý rằng sự chinh phạt các thành
bang khác được bảo chữa chỉ khi nó cần thiết để đảm bảo hạnh phúc cho thành
bang của kẻ đi chinh phạt.
6.4. Sự tích cực và sự thời ơ. Aristotle tìm hiểu giá trị tương
đối giữa đời sống tích cực (bao gồm việc tham gia vào chính trị) và đời sống cô
độc của sự trầm tự. Ông tiếp tục một chiến lược trái ngược với Plato mà ông đã
bắt đầu trước đó: trong khi Plato đưa ra các yêu sách đạo đức đối với thành
bang và sau đó sử dụng chúng để bảo vệ cho các yêu sách đạo đức đối với cá
nhân, thì Aristotle bắt đầu với cá nhân và suy luận từ đó cho thành bang.
Aris đồng ý với quan điểm cho rằng
đời sống tích cực tốt hơn cho cá nhân so với đời sống không tích cực: “hạnh phúc
là một trạng thái tích cực”.
Nhưng ông
bác bỏ giả định vốn thường đi kèm với quan điểm đó, đó là đời sống trí tuệ, đời
sống của sự phản tư và theo đuổi tri thức vì mục đích của chính nó, là một đời
sống không tích cực. Tư duy là hoạt động tích cực, vì vậy đời sống tinh thần là
đời sống tích cực.
Nói cách
khác, đời sống tích cực -bên trong (của
các công việc trí tuệ và trầm tư) là tốt hơn cho cá nhân so với đời sống tích
cực bên ngoài.
Vì vậy
(theo sau cách nhìn trái ngược với Plato này, từ cá nhân rồi mới tới thành
bang), ông kết luận rằng đời sống của sự phát triển – bên trong là tốt hơn cho
thành bang so với đời sống của sự tích cực – bên ngoài.
7. Đạt được đời sống tốt lành
Aristotle nói với chúng ta công việc
còn lại phải làm:
“Mục tiêu mà tôi là khám phá ra thể
chế tốt nhất. Thể chế tốt nhất là thể chế mà từ đó thành bang được cấu thành
tốt nhất. Thành bang được cấu thành tốt nhất là thành bang sở hữu khả năng lớn
nhất để đạt được sự hạnh phúc”.
Do đó, thể
chế tốt nhất là thể chế mà từ đó thành bang có thể đạt được hạnh phúc lớn nhất,
nghĩa là đời sống tốt lành, và vì vậy câu hỏi mà chúng ta cần trả lời là: dạng
thể chế nào thực hiện điều này? Nói cách khác, làm thế nào một thành bang đạt
được đời sống tốt lành?
Câu trả lời của Aristotle liên quan
đến bản chất, thói quen, và lý trí
·
Bản chất, hay sự thúc đẩy tự nhiên: Phần
bản chất của con người, và duy nhất chỉ có ở bản chất con người, đó là mong
muốn tìm kiếm hạnh phúc hay đời sống tốt lành. Chỉ có con người có khả năng
này, và chỉ có con người thực sự cố gắng để đạt được nó. Không có loài nào khác
có thể có đời sống sống tốt /có thể hạnh phúc.
Để một cá nhân đạt được hạnh
phúc (một đời sống tích cực phù hợp với lý trí), "thì chúng [ba khả năng
này của con người] phải được xắp xếp để thỏa mãn điều kiện: con người phải được
dẫn dắt bởi lý trí, và không theo sau thói quen và các thôi thúc tự nhiên, một
khi họ có được sự thuyết phục rằng có một số tiến trình khác tốt hơn".
Điều này sẽ liên quan đến giáo dục
với hai kiểu: sự khắc sâu các thói quen và sự hướng dẫn của các lý trí. Vậy
kiểu giáo dục nào là tốt nhất? Giáo dục nên nhấn mạnh những khía cạnh cao hơn,
những khía cạnh có giá trị nội tại:
·
chiến tranh chỉ có giá trị trong trừng mực là
một phương tiện để đạt hòa bình
·
công việc chỉ có giá trị trong trừng mực là
một phương tiện để đạt được sự hài lòng
Vì lý do này, các nhà lập pháp nên xem hòa bình và sự hài
lòng là những mục đích chính của việc lập pháp liên quan đến chiến tranh.
Có hai khía cạnh trong giải thích của Aristotle về giáo dục:
1.
tập
trung vào chiến tranh/hòa bình và công việc/giải trí và những phẩm chất mà
những việc này đòi hỏi
2.
tập
trung vào cơ cấu của tâm hồn
7.1. Chiến tranh/hòa bình và lao
động/giải trí.
Đó phải là một hệ thống giáo dục xem
xét đến các kết luận đạt trước đó:
·
đó
là tất cả công dân sẽ chia sẻ việc cai trị
·
nhưng
không phải đồng thời (người trẻ sẽ bị cai trị và người già sẽ cai trị)
Đây là lý do tại sao hiến pháp của
Sparta không có lợi cho đời sống tốt lành: nó nhấn mạnh việc đào tạo các công
dân của mình cho mục tiêu chiến tranh và chinh phục trên hết.
Rõ ràng, Aristotle nghĩ rằng thành
bang nên đào tạo các công dân của mình cho chiến tranh. Nhưng đó không phải là
kiểu đào tạo của Sparta vốn nhấn mạnh việc chinh phục các thành bang khác; thay
vào đó, cần phải nhấn mạnh:
·
sự
phòng thủ ("để chúng ta không bao giờ trở thành nô lệ của kẻ khác")
·
sự
lãnh đạo (cần thiết cho các công dân trẻ tuổi khi một ngày chính họ trở thành
người cai trị
·
trở
thành một ông chủ tốt của những người nô lệ tự nhiên
Sau khi xác định các điều kiện có
giá trị nội tại của hòa bình và giải trí, bây giờ Aristotle mô tả những đức
tính cần thiết cho việc sử dụng tốt những điều kiện này:
Lao
động/chiến tranh
|
Giải trí/hòa bình
|
Can
đảm
sự khôn ngoan
Sự chịu đựng
Tự
chủ*
Công
bằng*
|
Tự chủ và công bằng được “áp đặt một cách tự động” bởi chiến
tranh – chúng đặc biệt cần thiết cho những ai đang hưởng thụ hòa bình và sự hài
lòng, vì nếu không có chúng những người hưởng thụ hòa bình và sự hài lòng có
thể trở nên “hống hách”.
7.2. Cấu trúc của tâm hồn và trật tự của giáo dục
Từ tất cả điều này, vậy điều nào nên
giáo dục đầu tiên, đào tạo thói quen hay đào tạo khả năng duy lý? Aristotle liệt
kê những quan điểm sau đây:
1. Mục đích (mục tiêu, kết quả) của một
con người là tư duy, suy luận, hoạt động duy lý; vì vậy việc đào tạo nên được
quy định để thúc đẩy sự tư duy.
2. Thể xác cần được đào tạo trước tâm
hồn, và các mặt phản duy lý của tâm hồn cần được đào tạo trước khi mặt duy lý
...
Tâm hồn
|
||
Mặt duy lý
(mặt
tốt hơn)
Suy
luận, tư duy
|
Mặt phản duy lý
(mặt
kém hơn)
Ham
muốn, ý chí, ước muốn
|
|
Suy
luận thực tiễn
|
Suy
luận tự biện
|
|
Những mỗi bước đào tạo nên hướng
trực tiếp tới các lợi ích cuối cùng của mặt duy lý của tâm hồn, hay tâm trí.
Quyển VII
trình bày chi tiết sự giáo dục từ bé đến lớn. Lúc đầu tập trung vào giáo dục
thể chất, sau đó mới đến tri thức. Các nhà lập pháp sẽ quyết định ai có thể kết
hôn vì mục đích sinh đẻ, và tuổi mà họ có thể - phụ nữ khoảng 18, và nam khoảng
37 – điều này để cho (a) mỗi lần dừng có thể sinh đẻ đồng thời, (b) họ không
sinh con khi còn quá trẻ, vì như vậy đứa trẻ sẽ yếu ớt. Còn nhiều điều nữa…(bao
gồm lời khuyên về chế độ dinh dưỡng, như cho trẻ uống sữa, chứ không phải rượu
vang…).