Giới thiệu về Burke

Posted on
  • Thứ Tư, 24 tháng 6, 2015
  • by
  • Minh Anh
  • in
  • Nhãn: ,
  • TIỂU SỬ
    EDMUND BURKE (12/1/1729 – 9/6/1797), triết gia và chính khách Anh, được bầu vào Nghị viện Anh năm 37 tuổi với tư cách là thành viên của đảng Whig (viết tắt chữ Whiggamore. Được thành lập vào cuối thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 19 ở Anh, đảng Whig tìm cách hạn chế quyền hành của nhà vua và gia tăng quyền hành của Nghị viện).
    Ông nổi tiếng vì đã ủng hộ các kiều dân Mỹ trong cuộc tranh đấu chống lại Vua George III dẫn đến Cách mạng Mỹ, đồng thời vì sự chống đối mạnh mẽ của ông đối với Cách Mạng Pháp. Việc làm sau khiến Burke trở thành một trong những khuôn mặt hàng đầu trong nhóm bảo thủ của Đảng Whig (ông gọi là ''Cựu Whigs''), đối lập lại nhóm “Tân Whigs'' ủng hộ cách mạng, dẫn đầu bởi Charles James Fox. Burke còn xuất bản tác phẩm triết lý về mỹ học và sáng lập tạp chí chính trị Annual Register. Sinh thời, ông được coi là một trong những nhà hùng biện giỏi nhất ở Anh.
    Burke ra đời tại Dublin, Ireland, cha theo đạo Tin Lành và mẹ theo Công giáo. Ông được giáo dục như một tín hữu Tin Lành và theo học tại Học viện Chúa Ba ngôi, Dublin năm 1744. Năm 1750, ông bắt đầu học luật tại Middle Temple ở London (một trong bốn tòa án cổ ở London), nhưng ngay sau đó ông bỏ học để đi du lịch khắp châu Âu Lục địa. Năm 1757, ông xuất bản một khảo luận về mỹ học, Tìm hiểu nguồn gốc những ý tưởng của chúng ta về cái trác tuyệt và cái đẹp, thu hút sự chú ý của các nhà tư tưởng kiệt xuất ở Lục địa như Denis Diderot và Immanuel Kant. Tại London, Burke gắn bó với nhiều tri thức và nghệ sĩ hàng đầu, trong đó có Samuel Johnson, David Garrick, Oliver Goldsmith và Joshua Reynolds.
    TƯ TƯỞNG
    Lập trường triết lý xuyên suốt sự nghiệp chính trị và trong các trước tác của ông là lập trường hoài nghi, một sự ngờ vực sâu sắc đối với Chủ nghĩa duy lý chính trị, tức là, thành tựu trong vương quốc chính trị của những cấu trúc trừu tượng và duy lý, những lý tưởng, và những mục tiêu. Sự thể hiện chính yếu chủ nghĩa bảo thủ hoài nghi của Burke được tìm thấy trong tác phẩm Suy nghĩ về Cách mạng Pháp (1790). Tuy nhiên, chủ nghĩa bảo thủ của Suy nghĩ được trình bày sớm hơn khi ông đáp lại những yêu sách cấp tiến ở Anh đòi cải cách dân chủ trong Nghị viện vào những năm đầu thập niên 1780. Những người cấp tiến Anh nghĩ rằng, các nhà lập pháp có thể thành lập những chính quyền mới, khi tất cả những người thông thái đều biết rằng, ''một chính quyền theo luật lệ không bao giờ được tạo lập trên bất kỳ lý thuốc tiên định nào''. Vì thế, thật là nực cười khi đặt các chính quyền trên những chiếc giường Procrustes(*) và làm cho chúng trùng khít với “những lý thuyết mà những học giả và những nhà tư biện đã nghĩ ra''. Một giả định đầy tự phụ như thế đòi hỏi nhiều năng lực lý trí hơn là có thể tìm thấy nơi những con người bình thường.
    Một nạn nhân của chủ nghĩa hoài nghi của Burke là ý tưởng tự do về khế ước xã hội được xưng tụng. Các khối thịnh vượng chung không được xây dựng và cũng không phải đổi mới theo những nguyên tắc tiên thiên. Khái niệm về một đạo luật nguyên thủy của khế ước chỉ là một nguyên tắc. Khế ước duy nhất trong chính trị là sự đồng thuận buộc chặt các thế hệ quá khứ, hiện tại và tương lai. Khế ước đó ''chỉ là một mệnh đề trong khế ước nguyên thủy vĩ đại của xã hội vĩnh cửu''.
    Burke phản đối tính duy ý chí của thuyết khế ước tự do duy lý chủ nghĩa. Các cá nhân không tự do sáng tạo nên những thiết chế chính trị cho riêng mình. Xã hội chính trị và luật lệ không ''nằm dưới quyền kiểm soát của những người, mà vì bổn phận, và vì cực kỳ ưu việt, buộc ý chí mình tuân thủ luật lệ đó''. Con người và các đoàn nhóm ''không được tự do về mặt đạo đức, không được tùy ý'' phá hủy các cộng đồng và gây nên ''tình trạng hỗn loạn phi xã hội, thô lỗ, không liên lạc gì với nhau''.
    Burke cho rằng, nguồn trí tuệ của chúng ta quá hạn hẹp; nhưng bất chấp điều này mọi người vẫn tìm cách vượt khỏi những giới hạn căn bản của mình để thực hiện những chuyến bay ý thức hệ viễn vông. Họ cho rằng, không có sự ngăn trở rào đối với sức mạnh của họ và thông qua chính trị, họ tìm cách làm cho thực tế phù hợp với những ảo tưởng tư biện của họ. Burke hy vọng rằng, mọi người sẽ đánh giá đúng tình trạng yếu kém của mình, ''đẳng cấp lệ thuộc của mình trong tạo hoá''. Thượng Đế bắt chúng ta đứng vào địa vị được chỉ định cho chúng ta. Và ở địa vị đó, chúng ta phải biết giới hạn của những quan năng lý trí và suy đoán của chúng ta.
    Thay vì dựa vào vốn trí tuệ nghèo nàn của chính mình, các chính trị gia nên tận dụng sự giúp đỡ từ “ngân hàng chung và vốn liếng của các quốc gia và của mọi thời đại''. Vì mọi người quên điều này nên họ bày ra những kế hoạch cải cách duy lý vượt quá sức thực hiện của họ.
    Burke nổi lên như nhà vô địch của chủ nghĩa hoài nghi chính trị trong cuộc nổi dậy chống lại chủ nghĩa duy lý của Thời kỳ ánh sáng và và “sự tự mãn siêu hình học giả mạo” của nó đã tạo nên ''cuộc cách mạng của lý thuyết suông và giáo điều không thực tế''. Tội lỗi của người Pháp được sinh ra bởi ''sự tinh tế khó hiểu của siêu hình học chính trị của họ''. “Niềm tin vào chủ nghĩa giáo điều của các triết gia'' dẫn họ đến chỗ lệ thuộc vào lý trí và những ý tưởng trừu tượng, vào sự tư biện và những nguyên lý tiên thiên của quyền tự nhiên, tự do, bình đẳng, coi đó như nền tảng cho các chính quyền cải cách. Người Anh, như Burke, không có những ảo tưởng như vậy; họ hiểu sự phức tạp và dễ vỡ của bản chất con người và những thiết chế do con người dựng lên...''.
    Những trước tác của Burke về nước Pháp, mặc dù rất sâu sắc, không thể đọc như những quan điểm chính trị chính xác của ông. Trên thực tế, Burke không bao giờ trình bày một cách hệ thống những niềm tin nền tảng của ông mà luôn luôn chỉ nhắc đến chúng trong tương quan với những vấn đề cụ thể. Nhưng có thể coi các trước tác của ông như một toàn thể hợp nhất của những nguyên tắc bất biến chi phối lập trường hành động của ông.
    Về bản chất, những nguyên tắc đó là sự khảo sát khái niệm ''tự nhiên” hay ''luật tự nhiên''. Burke nghĩ rằng, đời sống cảm xúc và tình thân của con người hài hòa với trật tự vĩ đại của vũ trụ. Nghĩa là xung lực của tự nhiên chứa đựng trong bản thân nó sự tự kiềm chế và tự phê bình; đời sống đạo đức và tinh thần liên tục với nó, xuất phát từ nó và về bản chất ủng hộ nó. Hệ luận là xã hội và nhà nước tạo điều kiện để con người thể hiện đầy đủ tiềm năng của mình, hiện thân của sự thiện hảo phổ biến, và đại diện cho sự thỏa thuận ngầm hay công khai về những quy phạm và cứu cánh. Cộng đồng chính trị hành động đúng theo lý tưởng như một khối thống nhất.
    Cách lý giải tự nhiên và trật tự tự nhiên này hàm ý một sự kính trọng sâu xa đối với tiến trình lịch sử, những tục lệ và những thành tựu xã hội qua thời gian. Do đó, biến đổi xã hội không chỉ là khả hữu mà còn là tất yếu và đáng ao ước. Nhưng phạm vi và vai trò của tư tưởng hoạt động như một công cụ cải cách đối với xã hội bị hạn chế. Nó phải hoạt động dưới sự thúc đẩy của tình trạng căng thẳng đặc biệt hay những khả thể đặc biệt, trong sự kết hợp chặt chẽ với tiến trình biến đổi tỉ mỉ, chứ không phải trong những kế hoạch suy đoán to tát đòi hỏi có sự can thiệp sâu rộng vào đời sống xã hội ổn định, quen thuộc. Hơn nữa, nó không nên quá nhấn mạnh vào một số cứu cánh trong khi gây tổn thất cho những người khác; cụ thể, nó không nên để cho chủ nghĩa duy tâm đạo đức (như trong Cách mạng Pháp) hoàn toàn tự do thể hiện sự đối lập cực đoan đối với trật tự hiện hành. Những nỗ lực như vậy tác động đến tiến trình tự nhiên của sự phát triển xã hội, khởi xướng những lực lượng không kiểm soát được hoặc kích hoạt một phản ứng biện chứng của những yếu tố bị loại trừ. Hy vọng của Burke, thật vậy, không phải là sự hiện thực hoà những cứu cánh cụ thể, như “tự do'' và ''bình đẳng'' của Cách mạng Pháp, nhưng là củng cố và hòa giải những thành tố khác nhau của cuộc sống tốt đẹp mà cộng đồng không ngừng vươn tới.
    Sinh thời, các trước tác của Burke về nước Pháp truyền cảm hứng đặc biệt cho tư tưởng phản cách mạng của người Đức và người Pháp. Ảnh hưởng của ông ở Anh còn rộng rãi hơn, cân bằng hơn, lâu bền hơn. Ông nổi lên như người biện giải đầu tiên cho những quy ước hiến pháp lâu đời, tư tưởng của đảng, và vai trò của nghị viên là người đại diện tự do, chứ không phải là người được ủy nhiệm; nói cách khác, quyền bỏ phiếu của nghị viên không thể được ủy nhiệm, bởi vì trách nhiệm của ông là bỏ phiếu theo suy xét riêng của mình.
    NHỮNG TÁC PHẨM CHÍNH
    Aphilosophical enquiry into the Origin of Our Ideas of the Sublime and Beautiful (1757; Tìm hiểu nguồn gốc những ý tưởng của chúng ta về cái trác tuyệt và cái đẹp).
    Thoughts on the Cause of the Present Discontent (1770; Suy tưởng về nguyên nhân những bất bình hiện thời).
    Reflection on the Revolution in France (1790; Suy nghĩ về cách mạng Pháp)
    (Trích từ tác phẩm 101 Triết gia, Mai Sơn biên soạn)
     
    Xem trang web chính thức tại Tinhthankhaiminh.org