Với
những người yêu mến và tranh đấu cho tự do cá nhân, cái tên F. A. Hayek hoàn toàn
không xa lạ. Từ chỗ là người có cảm tình với chủ nghĩa xã hội, dù chỉ màu hồng
kiểu Fabian, Hayek nhanh chóng nhận thức ra tính phi lý của nó và trở thành
người phê phán chủ nghĩa xã hội thành công nhất trong thế kỷ 20: chủ nghĩa xã
hội không mang lại sự sung túc về của cải vật chất vì nó không thể nào sử dụng
được một cách có hiệu quả các tri thức thực tiễn sở hữu bởi các cá nhân trong
xã hội, và chủ nghĩa xã hội cũng không đem đến tự do cho con người vì nó luôn
bắt các cá nhân phải tôn thờ một khách thể không tồn tại trên thực tế nhưng lại
có hình hài được vẽ ra bởi một nhóm thiểu số nắm quyền lực. Tuy nhiên, Hayek
không dừng lại ở đó. Ông còn xây dựng nên cả một nền tảng triết học kinh tế
chính trị cho một xã hội vì tự do cá nhân. Bài luận “Chủ nghĩa cá nhân: Chân và
Giả” (Individualism: True and False) dưới đây, lấy từ cuốn Chủ nghĩa cá
nhân và trật tự kinh tế (Individualism and Economic Order, xuất
bản năm 1948), được xem như là một bản tuyên ngôn về chủ nghĩa tự do cá nhân,
tại đó, ông xác lập các nguyên lý chung nhất mà một xã hội thực sự vì sự phát
triển của con người cần phải tựa vào. Dựa trên các tiền đề cơ bản này, ông đã
triển khai thành những tác phẩm đồ sộ, chi tiết sau này như Hiến pháp
về tự do (The Constitution of Liberty, 1960),Luật, Luật
pháp, và Tự do (Law, Legislation, and Liberty, ba tập in lần
lượt vào các năm 1973, 1976, và 1979), và Sự tự phụ chết người: Các sai
lầm của Chủ nghĩa xã hội (The Fatal Conceit: The Errors of Socialism,
1988).
Bài
luận này được Hayek viết vào năm 1945, ngay sau kết thúc Thế chiến thứ II, thời
điểm mà cả thế giới dường như tin rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội với thể hiện của
nó là hoạch định tập thể, do chính phủ thực hiện, mới đem lại thịnh vượng và
tránh khỏi các nguy cơ chiến tranh. Lịch sử phát triển kinh tế thế giới từ bấy
đến nay đã chứng tỏ rằng niềm tin của đa số đã sai và những lập luận của Hayek
ngày càng trở nên đúng. Chúng ta không chỉ tìm thấy bằng chứng lịch sử qua sự
chuyển đổi nền kinh tế ở Đông Âu và của các nước thuộc Liên Xô cũ thoát khỏi sự
trì trệ của nền kinh tế hoạch định tập trung trước đây mà còn thấy ở khối các
nước phát triển qua sự phát triển nhanh hơn của Mỹ và Anh so với Đức, Pháp, và
Nhật trong hai thập kỷ vừa qua do đã tiến hành tự do hoá nền kinh tế của mình
sớm hơn và dứt khoát hơn. Lịch sử kinh tế của Việt Nam cũng không phải là một
trường hợp ngoại lệ. Dù các nhà chính trị có nói vòng vo như thế nào thì tất cả
chúng ta đều thấy rằng: mỗi bước chính phủ nới lỏng cho dân chúng được làm ăn
dễ dàng, chẳng hạn như khoán 10, như cho phép doanh nghiệp tư nhân hoạt động,
như rút bỏ các loại giấy phép ngăn cản doanh nghiệp tư nhân giao dịch với các
đối tác nước ngoài, và gần đây, rút bỏ các loại giấy phép cản trở quyền đăng ký
kinh doanh của doanh nghiệp, là một bước giúp cho nền kinh tế trở nên phát
triển hơn. Hay nói một cách khác, thực tế cho thấy rằng mỗi bước từ bỏ chủ
nghĩa xã hội (và một biến thể của nó là chủ nghĩa dân tộc) để tiến gần hơn tới
chủ nghĩa tự do cá nhân là một bước thúc đẩy sự đi lên của xã hội.
Người dịch
*
"Du
dix-huitième siècle et de la révolution, comme d’une source commune, étaient
sortis deux fleuves: le premier conduisait les hommes aux institutions libres,
tandis que le second les menait au pouvoir absolu."
"Kể
từ thế kỷ XVIII và từ cuộc Cách mạng Pháp, có hai dòng chảy tư tưởng dường như
có chung một nguồn: Dòng thứ nhất hướng con người tới các thể chế tự do, dòng
thứ hai hướng họ về phía quyền lực tuyệt đối.
(Alexis de Tocqueville)
1.
Ngày
nay, ai cổ xuý cho bất kỳ nguyên lý rõ ràng nào về trật tự xã hội hầu như chắc
chắn sẽ phải gánh chịu điều tiếng là nhà lý luận giáo điều không thực tế. Một
người sẽ được xem là có đầu óc sáng suốt đối với các vấn đề xã hội nếu anh ta,
thay vì bám chặt vào các nguyên lý cố định, lại nhìn nhận từng vấn đề “dựa trên
các phẩm giá của nó”; nghĩa là người đó, nói chung, được định hướng bằng mưu
lợi và sẵn sàng thỏa hiệp giữa các quan điểm. Tuy nhiên, các nguyên lý tự chúng
có cách chiếm lĩnh xã hội ngay cả khi chúng không được công nhận một cách minh
bạch mà chỉ được ngụ ý trong các hành động cụ thể, hoặc ngay cả khi chúng chỉ
hiện diện như là các ý tưởng mơ hồ về cái gì đang diễn ra hoặc không đang diễn
ra. Vì thế, dưới tấm biển “không chủ nghĩa cá nhân cũng không chủ nghĩa xã
hội”, chúng ta đã thấy một hiện tượng, rằng trên thực tế chúng ta đang nhanh
chóng chuyển từ một xã hội của các cá nhân tự do sang một dạng xã hội mang màu
sắc tập thể hoàn toàn.
Tôi
dự định không chỉ tiến hành việc bảo vệ một nguyên lý tổng quát về tổ chức xã
hội mà sẽ còn cố gắng chỉ ra rằng sự sợ hãi động chạm đến các nguyên lý chung
và sở thích chuyển từ hết vấn đề cụ thể này sang vấn đề cụ thể khác là sản phẩm
của cái trào lưu mà dưới dạng “nước chảy đá mòn”, sẽ đưa chúng ta từ một trật
tự xã hội dựa trên việc công nhận tổng quát các nguyên lý chung nhất định trở
về một xã hội mà trật tự được hình thành bằng các mệnh lệnh một chiều.
Sau
kinh nghiệm của 30 năm vừa rồi, có lẽ chúng ta không cần phải nhấn mạnh một
thực tế: nếu như không bám vào các nguyên lý, chúng ta đã bị cuốn phăng rồi.
Thái độ thực dụng ngự trị trong thời gian đó, thay vì làm tăng năng lực phát
triển của chúng ta, trên thực tế, lại đưa chúng ta tới một tình trạng mà chẳng
ai mong muốn, và kết quả duy nhất của việc bỏ qua các nguyên lý có lẽ là việc
chúng ta bị dẫn dắt bởi một xâu các sự kiện mà chúng ta không thể, dù có muốn,
phớt lờ logic của nó. Vấn đề bây giờ không phải là liệu chúng ta có cần các
nguyên lý để chỉ dẫn cho chúng ta hay không mà là: liệu có còn một bộ các
nguyên lý chứa đựng khả năng ứng dụng tổng quát hòng có thể chỉ đường cho chúng
ta khi cần? Chúng ta có thể tìm thấy ở đâu những đạo lý làm cẩm nang dẫn đường
cho chúng ta để giải quyết các vấn đề của thời đại? Liệu có tồn tại một triết
lý nhất quán khả dĩ có thể cung cấp cho chúng ta không chỉ đơn thuần các giá
trị đạo đức mà còn cả một phương pháp thoả đáng để đạt tới các giá trị
đó?
Các
nỗ lực của nhà thờ trong việc xây dựng chi tiết một triết lý xã hội hoàn chỉnh
và các kết quả do những người có cùng nền tảng Thiên chúa giáo đưa ra lại hoàn
toàn đối nghịch nhau là sự minh chứng cho việc bản thân tôn giáo không trao cho
chúng ta một cẩm nang dẫn đường trong các vấn đề này. Không còn nghi ngờ gì, sự
suy giảm ảnh hưởng của tôn giáo là một nguyên nhân chính dẫn đến sự thiếu hụt
ngày nay về định hướng trí tuệ và đạo đức; mặc dù vậy, sự phục hồi trở lại của
nó sẽ không làm giảm nhu cầu về một nguyên lý được chấp nhận phổ quát về trật
tự xã hội. Chúng ta sẽ vẫn cần có một triết lý chính trị vượt lên trên những
đạo lý không chỉ có tính nền tảng mà là có tính phổ quát của tôn giáo hoặc của
các loại luân lý.
Tiêu
đề mà tôi chọn cho bài luận này cho thấy, đối với tôi, dường như vẫn tồn tại
một loại triết lý như thế - một tập hợp các nguyên lý thực ra được ngụ ý hầu
như xuyên suốt trong tập quán chính trị phương Tây hoặc Thiên chúa giáo nhưng
lại chưa bao giờ được mô tả theo cách không gây ra nhầm lẫn dù nó có vận dụng
bất kỳ thuật ngữ đã biết nào. Do vậy, chúng ta cần trình bày lại những nguyên
lý này một cách đầy đủ trước khi có thể phán quyết liệu chúng vẫn còn hữu ích
cho chúng ta với vai trò như là các loại cẩm nang hành động hay không.
Khó
khăn mà chúng ta gặp phải không chỉ đơn thuần vì một thực tế quen thuộc là các
thuật ngữ chính trị hiện tại nổi tiếng là mơ hồ, hoặc thậm chí các trường phái
khác nhau có thể thường xuyên sử dụng cùng một thuật ngữ nhưng lại mang những
nghĩa gần như trái ngược nhau, mà còn vì một thực tế nghiêm trọng hơn là: có
loại thuật ngữ thường xuyên dùng để chỉ những người cùng chí hướng nhưng trong
thực tế lại tin vào những lý tưởng mâu thuẫn và không thể dung hoà. Các thuật
ngữ như “chủ nghĩa tự do” hay “dân chủ”, “chủ nghĩa tư bản” hay “chủ nghĩa xã
hội” ngày nay không còn đại diện cho những hệ thống tư tưởng nhất quán. Chúng
có xu hướng mô tả những tập hợp các nguyên lý và các sự kiện hoàn toàn khác
biệt mà việc gắn chúng với các thuật ngữ này là do ngẫu nhiên lịch sử, thay vì
là do có cùng những điểm chung, dù cho các nguyên lý này được cổ vũ bởi cùng
một nhóm người ở những thời điểm khác nhau hoặc thậm chí đơn thuần là dưới cùng
một cái tên trường phái.
Ở
khía cạnh này, không có thuật ngữ chính trị nào lại có tình trạng tồi dở như
thuật ngữ “chủ nghĩa cá nhân”. Nó không những chỉ bị các đối thủ bóp méo thành
một bức tranh biếm họa không tài nào có thể nhận biết được – và chúng ta nên luôn
nhớ rằng hầu hết các bạn đồng nghiệp của chúng ta biết đến các thuật ngữ chính
trị, vốn đã trở nên lỗi mốt trong hiện tại, chỉ qua bức tranh biếm họa do kẻ
thù của họ vẽ ra – mà còn được sử dụng để mô tả một vài thái độ xã hội mà thực
ra giữa chúng hầu như chẳng có đặc điểm gì chung, tựa như giữa chúng với các
thái độ không đội trời chung với chúng. Thực ra, trong quá trình chuẩn bị để
viết bài luận này, tôi đã khảo sát một số bài luận được xem là mẫu mực về “chủ
nghĩa cá nhân”, nhưng, thật đáng tiếc, tôi phải thú nhận tôi không thể nào nối
mạch được các lý tưởng mà mình tin với cái thuật ngữ vốn đã bị lạm dụng và gây
hiểu lầm một cách quá thể. Tuy vậy, dù cho thuật ngữ “chủ nghĩa cá nhân” có
thêm nhiều nghĩa khác so với các lý tưởng của tôi đi chăng nữa thì vẫn còn hai
lý do để giữ lại thuật ngữ theo quan điểm mà tôi sẽ phải bảo vệ: (i) quan điểm
luôn được biết đến bởi tên của chính thuật ngữ này, bất kể nó có thể mang những
nghĩa khác ở những thời điểm khác nhau, và (ii) thuật ngữ này khác biệt với thuật
ngữ “xã hội chủ nghĩa” được xây dựng một cách có chủ ý để bày tỏ sự đối lập với
chủ nghĩa cá nhân [1] . Nó gắn với loại hệ thống có tính loại
trừ với chủ nghĩa xã hội mà tôi sẽ đề cập tới.
2.
Trước
khi giải thích chủ nghĩa cá nhân chân chính là gì, có lẽ sẽ hữu dụng nếu tôi
trình bày đôi chút về dòng lịch sử trí tuệ của nó. Chủ nghĩa cá nhân chân chính
mà tôi sẽ cố gắng bảo vệ khởi đầu giai đoạn phát triển hiện đại nhờ đóng góp
của John Locke, đặc biệt là nhờ Mandeville và David Hume, và lần đầu tiên nó có
hình hài đầy đủ trong những tác phẩm của Josiah Tucker, Adam Ferguson và Adam
Smith, đồng thời cũng trong tác phẩm của một nhà tư tưởng vĩ đại cùng thời với
họ - Edmund Burke – nhân vật mà Smith mô tả là người duy nhất trong số những
người mà ông đã từng biết đến có suy nghĩ về các vấn đề kinh tế giống hệt như
ông trước khi có những đàm thoại qua lại[2] .Trong thế kỷ XIX, tôi thấy dòng tư tưởng
này được trình bày hoàn chỉnh nhất trong các tác phẩm của hai nhà sử học và
triết học chính trị vĩ đại nhất: Alexis de Tocqueville và Lord Acton. Với tôi,
hai người này đã kế thừa thành công những cái hay nhất trong triết học chính
trị của các nhà triết học người Scotland, Burke và những người thuộc nhóm Whig
của Anh hơn bất kỳ tác giả nào mà tôi biết; trong khi đó, các nhà kinh tế cổ
điển của thế kỷ XIX, hoặc ít nhất là những người theo chủ thuyết Vị công lợi
(Benthamites) hay các nhà có tư tưởng triết học cấp tiến ngày càng bị ảnh hưởng
bởi một dòng chủ nghĩa cá nhân có nguồn gốc khác.
Dòng
tư tưởng thứ hai và hoàn toàn khác, cũng dưới cái tên chủ nghĩa cá nhân, được
đưa ra chủ yếu nhờ các tác giả khác người Pháp và Châu Âu lục địa – mà theo
tôi, nguyên nhân là do vai trò thống trị của chủ nghĩa duy lý Descartes trong
chủ thuyết này. Những đại biểu xuất sắc nhất của trường phái này là các nhà
Bách khoa (Encyclopedist), Rousseau, và những người theo phái trọng nông
(physiocrat) và vì những lý do chúng ta xét đến ở đây, chủ nghĩa cá nhân duy lý
này luôn có xu hướng phát triển thành thứ đối nghịch với chủ nghĩa cá nhân
[chân chính], nghĩa là phát triển thành thứ có tên gọi là chủ nghĩa xã hội hay
chủ nghĩa tập thể. Chúng ta phải phân biệt điều này chỉ vì loại chủ nghĩa cá
nhân thứ nhất nhất quán với với cái tên tôi gọi chủ nghĩa cá nhân chân chính,
trong khi đó, loại chủ nghĩa cá nhân thứ hai có lẽ cần phải được xét đến như là
nguồn gốc của chủ nghĩa xã hội hiện đại với ảnh hưởng không kém các triết
thuyết thuần tuý chủ nghĩa tập thể [3] .
Tôi
không thể đưa ra một minh hoạ rõ ràng nào cho sự nhầm lẫn phổ biến về nghĩa của
chủ nghĩa cá nhân hơn là qua hiện tượng Edmund Burke, một người, theo tôi, là
đại diện xuất sắc nhất của chủ nghĩa cá nhân chân chính, người thường được xem
(và đúng như vậy) là đại diện đối trọng với cái cũng được gọi là “chủ nghĩa cá
nhân” của Rousseau - nhân vật đề xuất những lý thuyết mà Burke sợ rằng nó sẽ
nhanh chóng đốt cháy nền thịnh-vượng-chung thành “tro bụi” [4] , và qua hiện tượng de Tocqueville, một
đại biểu vĩ đại khác của chủ nghĩa cá nhân chân chính, đã sử dụng thuật ngữ
“chủ nghĩa cá nhân” với một thái độ đầy xót xa trong tác phẩm Democracy
in America (Nền dân chủ ở Mỹ) [5] . Tới thời điểm này, chúng ta không còn
nghi ngờ gì về việc cả hai người, Burke và de Tocqueville, hoàn toàn đứng về
phía Adam Smith, người mà không ai dám tước bỏ danh hiệu đại diện của chủ nghĩa
cá nhân và do đó, cái thứ “chủ nghĩa cá nhân” mà hai người bác bỏ là một cái gì
đó hoàn toàn khác so với quan điểm của Smith.
3.
Vậy
thì, đâu là các đặc điểm then chốt của chủ nghĩa cá nhân chân chính? Trước hết
cần phải thấy, trên hết thảy, nó là một lý thuyết xã hội, một
nỗ lực để hiểu các xung lực định đoạt đời sống xã hội của con người, còn vai
trò như là một tập hợp các châm ngôn chính trị rút ra từ quan điểm xã hội này
thì chỉ là vai trò phụ của nó mà thôi. Thực tế này, tự bản thân nó, đủ để bác
bỏ những hiểu lầm phổ biến, ngờ nghệch nhất: niềm tin cho rằng chủ nghĩa cá
nhân đặt trên nền tảng (hoặc xây dựng các luận cứ của nó trên các giả thiết) về
sự tồn tại của các cá nhân tách biệt hoặc cô lập, thay vì bắt đầu từ quan điểm
cho rằng đặc điểm và bản chất tổng thể của con người được định đoạt bởi sự tồn
tại của họ trong xã hội [6] . Nếu giả sử điều này đúng thì thật sự nó
chẳng có đóng góp gì cho hiểu biết xã hội của chúng ta. Nhưng luận điểm cơ bản
của nó là một cái hoàn toàn khác; đó là không có cách nào có thể hiểu được các
hiện tượng xã hội mà không phải thông qua sự hiểu biết của chúng ta về các hành
động của cá nhân hướng tới những người khác và được định hướng bởi kỳ vọng về
hành vi của những người khác đó [7] . Luận điểm này được đưa ra trước tiên để
chống lại những lý thuyết xã hội thuần tuý tập thể mà có tham vọng có thể trực
tiếp hiểu biết các tổng thể có tính chất xã hội, chẳng hạn xã hội được hiểu như
là các thực thể sui generis (có thế giới riêng của nó - ND),
tồn tại độc lập với những cá nhân cấu thành chúng. Tuy nhiên, bước tiếp theo
trong phân tích dựa trên chủ nghĩa cá nhân về xã hội là chống lại chủ nghĩa cá
nhân giả hiệu trên nền tảng chủ nghĩa duy lý - thứ chủ nghĩa mà rốt cục, trên
thực tế, cũng dẫn đến chủ nghĩa tập thể. Chủ nghĩa cá nhân chân chính cho rằng,
qua việc tìm hiểu những ảnh hưởng kết hợp của các hành động cá nhân, chúng ta
phát hiện ra rằng đa phần các thể chế mà thành tựu của nhân loại xây dựng trên
đó đã hình thành và đảm nhiệm các chức năng mà không cần phải dựa vào một bộ óc
chuyên trách việc thiết kế hay định hướng; rằng như Adam Ferguson nói, “các
quốc gia xuất hiện trên các thiết chế thực ra là kết quả của hành động của con
người chứ không phải là kết quả của sự thiết kế của con người” [8] ; và rằng sự hợp tác tự nguyện của những
con người tự do thường tạo ra những cái vĩ đại hơn bất cứ những gì mà những bộ
óc đơn lẻ có thể hiểu biết được một cách đầy đủ. Đó là chủ đề vĩ đại của Josiah
Tucker và Adam Smith, của Adam Ferguson và Edmund Burke, là phát kiến kỳ vĩ của
kinh tế chính trị cổ điển vốn đã trở thành nền tảng cho hiểu biết của chúng ta
không chỉ trong phạm vi đời sống kinh tế mà còn đúng cho hầu hết các hiện tượng
xã hội.
Sự
khác nhau giữa quan điểm cho rằng hầu hết các loại trật tự tìm thấy trong đời
sống của con người như là kết quả không dự đoán trước được của các hành động cá
nhân và quan điểm qui mọi loại trật tự (xã hội) mà chúng ta có khả năng phát
hiện ra được cho sự thiết kế có chủ đích là sự đối nghịch lớn nhất giữa chủ
nghĩa cá nhân chân chính của các nhà tư tưởng Anh thế kỷ 18 và cái thứ mang
cùng tên “chủ nghĩa cá nhân” của học phái Descartes [9] . Nhưng đó chỉ đơn thuần là một khía cạnh
của một sự khác biệt rộng lớn hơn nhiều giữa một quan điểm vốn luôn đánh giá
thấp vai trò của lý trí trong đời sống con người, cho rằng con người đã đạt
được cái mà anh ta đang sở hữu dù rằng anh ta chỉ được dẫn dắt một phần bởi lý
trí và rằng lý trí cá nhân của anh ta rất hạn chế và kém hoàn hảo với một quan
điểm giả thiết rằng Lý Trí, hai chữ Lý Trí viết hoa, luôn luôn hiện hữu đầy đủ
và hoàn hảo đối với tất cả mọi người, và rằng mọi thứ mà con người đạt được là kết
quả trực tiếp của, và do đó phụ thuộc vào, sự kiểm soát của lý trí cá nhân.
Người ta thậm chí có thể nói rằng loại quan điểm đầu là sản phẩm của một sự
hiểu biết sâu sắc về những giới hạn của trí tuệ cá nhân, dẫn đến một thái độ
khiêm cung đối với các quá trình xã hội vô danh mà nhờ đó, các cá nhân trợ giúp
tạo ra những cái vĩ đại hơn nhiều những thứ họ biết, trong khi loại quan điểm
sau là sản phẩm của một niềm tin cường điệu vào sức mạnh của lý trí cá nhân và
theo đó là sự coi khinh bất cứ thứ gì mà không được thiết kế một cách có ý thức
bởi lý trí hoặc không thể hiểu đầy đủ được bằng lý trí.
Phương
pháp phản-duy-lý-trí luận vốn xem con người không như là một loài có lý trí và
trí tuệ cao mà lại như là một loài rất phi lý trí (irrational) và có khả năng
mắc lỗi lầm, mà những lỗi lầm cá nhân này được hiệu chỉnh chỉ trong tiến trình
của một quá trình xã hội, và hướng tới mục đích làm cho một chất liệu rất không
hoàn hảo trở nên hữu dụng nhất, có lẽ là điểm đặc trưng nhất của chủ nghĩa cá
nhân Anh. Với tôi, việc đặc điểm này chiếm ưu thế trong suy nghĩ của người Anh
đa phần là do chịu ảnh hưởng sâu sắc của Bernard Mandeville, người đầu tiên đã
hệ thống hoá một cách mạch lạc tư tưởng trung tâm của hệ thống triết lý
này [10] .
Tôi
không thể nào có một minh họa nào tốt hơn sự tương phản giữa “chủ nghĩa cá
nhân” duy lý trí luận hay chủ nghĩa cá nhân theo học phái Descartes với quan
điểm của chủ nghĩa cá nhân Anh bằng cách trích dẫn một đoạn nổi tiếng trong
phần II cuốn Discourse on Method (Luận về phương pháp). Descartes
cho rằng “những công trình chắp ghép lại từ nhiều phần riêng biệt được tạo ra
bởi nhiều bàn tay khác nhau hiếm khi đạt được độ hoàn hảo so với những công trình
được hoàn thiện bởi một bậc thầy đơn lẻ”. Sau đó, ông (quan trọng là sau khi đã
trích dẫn minh họa hình ảnh một kỹ sư thiết kế các kế hoạch của mình) đi tới
chỗ cho rằng “những quốc gia nào có khởi điểm từ một tình trạng còn man rợ và
tiến tới nền văn minh một cách chậm chạp mà lần lượt xây dựng các bộ luật và
tuân thủ các bộ luật này đơn giản qua kinh nghiệm từ những di hại do các loại
tội phạm và tranh chấp cụ thể gây ra sẽ có những thể chế kém hoàn thiện hơn so
với những quốc gia mà từ lúc hình thành sự liên kết xã hội như là các cộng đồng
tuân thủ sự bổ nhiệm của một nhà lập pháp sáng suốt nào đó”. Để lái quan điểm
này tới đích, Descartes bổ sung thêm theo ý ông “sự ưu việt trong quá khứ của
[chế độ] Sparta không phải là do tính ưu việt của từng bộ luật của nó nói
riêng… mà là do hoàn cảnh, theo đó, khởi tạo bởi một cá nhân đơn lẻ, tất cả các
bộ luật này có xu hướng hướng tới cùng một đích” [11] .
Sẽ
có nhiều thú vị khi xem xét kỹ càng hơn sự phát triển của thứ chủ nghĩa cá nhân
dựa trên khế ước xã hội hay các lý thuyết thiên về “thiết kế” các thể chế xã
hội từ Descartes qua Rousseau và cuộc Cách mạng Pháp cho tới thái độ đặc trưng
của các kỹ sư đối với các vấn đề xã hội [12] . Một lược đồ như thế sẽ cho thấy chủ
nghĩa duy lý Descartes đã không ngừng cản trở sự hiểu biết về các hiện tượng
lịch sử, do đó, nó phải chịu trách nhiệm lớn cho niềm tin vào những quy luật
tất yếu về sự phát triển của lịch sử và chủ nghĩa định mệnh hiện đại xuất phát
từ niềm tin đó [13] .
Tuy
nhiên, tất cả những điều chúng ta quan tâm ở đây là: quan điểm này, mặc dù cũng
có tên là “chủ nghĩa cá nhân”, đối nghịch hoàn toàn với chủ nghĩa cá nhân chân
chính ở hai điểm có tính quyết định. Trong khi với thứ chủ nghĩa cá nhân giả
hiệu này, hoàn toàn đúng là “đối với bất kỳ triết gia nào mà coi con người cá
thể như là điểm khởi đầu và giả thiết anh ta tham gia vào việc hình thành xã
hội bằng cách liên hợp ý nguyện cá thể của mình với người khác thông qua một
bản khế ước chính thức thì niềm tin vào các sản phẩm xã hội tự phát, xét về mặt
logic, là không thể chấp nhận được,” [14] thì chủ nghĩa cá nhân chân chính là loại
lý thuyết duy nhất dám cho rằng việc hình thành các sản phẩm xã hội tự phát là
điều có thể lý giải được. Và trong khi các lý thuyết thiên về thiết kế tất yếu
đi đến kết luận, rằng các quá trình xã hội chỉ có thể được hình thành để phục
vụ các mục đích của loài người khi chúng nằm dưới sự điều khiển của lý trí con
người đơn lẻ (the control of individual human reason) và do vậy, trực tiếp dẫn
đến chủ nghĩa xã hội thì ngược lại, chủ nghĩa cá nhân chân chính tin là nếu
được tự do, con người sẽ thường đạt được nhiều thứ hơn những cái mà lý trí con
người đơn lẻ có thể thiết kế hoặc viễn kiến được.
Sự
đối lập giữa chủ nghĩa cá nhân chân chính, phản-duy-lý-trí luận và chủ nghĩa cá
nhân giả hiệu, duy lý trí luận thâm nhập vào mọi tư tưởng xã hội. Nhưng bởi vì
cả hai lý thuyết này được biết đến với cùng một cái tên và một phần bởi vì các
nhà kinh tế học cổ điển thế kỷ XIX, đặc biệt là John Stuart Mill và Herbert
Spencer, hầu như đã bị ảnh hưởng bởi nền tảng Pháp quốc nhiều như Anh quốc, nên
tất cả các cách nhận thức và giả thiết hoàn toàn xa rời chủ nghĩa cá nhân chân
chính lại có xu hướng được xem như là những phần cốt yếu trong lý thuyết về xã
hội.
Có
lẽ minh hoạ tốt nhất cho sự nhầm lẫn hiện nay về chủ nghĩa cá nhân của Adam
Smith và nhóm của ông là niềm tin phổ biến cho rằng họ đã tạo ra kẻ tội đồ “con
người kinh tế” và do vậy, các kết luận của họ đã bị lệch lạc do giả thiết về
hành vi lý trí tuyệt đối, hay nói chung, do nền tảng tâm lý duy lý sai lầm. Tất
nhiên, họ hoàn toàn không bao giờ có những thứ giả thiết kiểu đó. Chính xác hơn
là trong mắt của họ, con người về bản chất là uể oải và biếng nhác, cạn nghĩ và
lãng phí và do vậy, chỉ nhờ áp lực của hoàn cảnh, con người mới có thể hành sự
một cách kinh tế và cẩn thận để cải tiến phương tiện anh ta sở hữu nhằm đạt
được mục đích của mình. Nhưng ngay cả như vậy, điều này vẫn không lột tả được cái
nhìn rất hiện thực và phức tạp mà những tác giả này quan niệm về bản chất của
con người. Vì việc bài bác Smith và các đồng nghiệp đương thời của ông, cho
rằng nền tảng tâm lý của họ là sai lầm thường đã trở thành cái mốt nên có lẽ
tôi đánh bạo đưa ra ý kiến là: để phục vụ cho tất cả các mục đích thực tiễn thì
chúng ta vẫn có thể học được nhiều thứ về hành vi của con người từ tác
phẩm The Wealth of Nations (Của cải của các quốc gia) hơn là
từ hầu hết các học thuyết hiện đại đầy tính tự mãn về “tâm lý xã hội”.
Tuy
nhiên, chúng ta có thể có một chút nghi ngờ về một luận điểm chính, đó là Smith
đã không dành quá nhiều quan tâm cho cái mà con người có lẽ thỉnh thoảng đạt
được khi anh ta ở trạng thái đỉnh cao nhất, mà là cho việc anh ta nên có càng
ít cơ hội càng tốt để làm điều tồi tệ khi anh ta ở trạng thái tồi tệ nhất. Sẽ
không quá đáng khi cho rằng tinh thần chính của chủ nghĩa cá nhân mà ông và
đồng nghiệp của ông cổ vũ là một hệ thống mà những con người tồi có thể gây ra
ít điều tồi tệ nhất. Nó là một hệ thống xã hội mà vai trò của nó không phụ
thuộc vào việc tìm kiếm những con người tốt để vận hành nó, hoặc vào việc tất
cả mọi người trở nên tốt hơn so với cái họ có ngày hôm nay, đúng hơn, nó là một
hệ thống sử dụng được hết mọi người với tất cả sự đa dạng và phức tạp vốn có
của họ, có lúc tốt và có lúc xấu, đôi khi thông minh và thường xuyên ngốc
nghếch. Mục đích chính của họ là một hệ thống có khả năng đem lại sự tự do cho
tất cả mọi người, thay vì hạn chế nó vào cái khung “đức hạnh và thông thái”
(“the good and the wise”) như các các đồng nghiệp Pháp của họ đã từng mong
muốn [15] .
Mối
quan tâm chính của các lý thuyết gia về chủ nghĩa cá nhân có tên tuổi thực ra
là đi tìm một bộ các thể chế mà con người có thể đúc kết được, bằng sự lựa chọn
của chính mình và từ các động cơ dẫn tới cách cư xử hàng ngày của mình, để đóng
góp nhiều nhất có thể cho nhu cầu của tất cả những người khác; và điều mà họ đã
khám phá ra được là hệ thống tư hữu đã tạo ra những đóng góp như thế nhiều hơn
cả mức vẫn thường được hiểu. Tuy nhiên, họ không cho rằng hệ thống này không có
khả năng tiếp tục cải thiện được và rằng, như những luận điệu bẻ cong lập luận
của họ ngày nay, đã tồn tại một “sự hài hoà tự nhiên giữa các sở thích” bất kể
các thể chế tích cực nào. Họ còn vượt lên cả sự nhận thức đơn thuần về các xung
đột sở thích cá nhân và nhấn mạnh sự cần thiết của “các thể chế được tạo dựng
một cách công phu”, mà ở đó, “các qui tắc và nguyên lý duy trì các sở thích và
các lợi-thế-được-thoả-hiệp” [16] sẽ dung hoà các sở thích trái nhau, thay
vì phải trao quyền lực cho bất kỳ một nhóm nào để đưa quan điểm và sở thích của
nhóm này luôn vượt lên trên quan điểm và sở thích của tất cả những nhóm
khác.
4.
Có
một điểm trong số những giả thiết về tâm lý này đòi hỏi chúng ta phải xem xét
kỹ lưỡng hơn. Vì niềm tin cho rằng chủ nghĩa cá nhân xác nhận và khuyến khích
tính ích kỷ của con người là một trong những lý do chính khiến cho có quá nhiều
người không thích nó và vì sự nhầm lẫn hiện diện trong khía cạnh này còn có
nguyên nhân từ một khó khăn thực sự về mặt trí tuệ nên chúng ta phải cẩn thận
xem xét ý nghĩa của các giả thiết mà nó đưa ra. Tất nhiên, không còn nghi ngờ
gì, trên khía cạnh ngôn ngữ của các tác giả vĩ đại thế kỷ XVIII thì chủ nghĩa
cá nhận là “tình yêu cái tôi” của con người, hoặc thậm chí là “các lợi ích vị
kỷ” được thể hiện như là “động lực phổ quát” và do vậy, bằng những thuật ngữ
này, họ đề cập chủ yếu tới quan điểm đạo đức mà họ nghĩ là phổ biến rộng rãi.
Tuy nhiên, những thuật ngữ này không hàm nghĩa chủ nghĩa vị kỷ theo nghĩa hẹp,
vốn chỉ liên quan tới các nhu cầu trước mắt cho cái tôi thuần tuý của một ai
đó. Từ “cái tôi” mà những con người đơn độc giả định quan tâm tới, dĩ nhiên là
quan trọng, còn bao gồm gia đình và bạn bè của họ và luận điểm này cũng không
có gì thay đổi nếu như nó bao gồm bất kể cái gì mà con người thực sự quan tâm,
chăm sóc.
Có
một tiền đề còn quan trọng hơn hẳn tiền đề đạo đức này – loại tiền đề mà có lẽ
có thể thay đổi theo thời gian. Đó là một tiền đề thực tiễn không thể tranh cãi
được về mặt trí tuệ, loại không ai có thể thay thế, và tự bản thân nó đủ là một
nền tảng cho các kết luận mà các triết gia về chủ nghĩa cá nhân đưa ra: tiền đề
sự giới hạn có tính bản thể (constitutional limitation) về mặt trí tuệ và những
mối quan tâm của con người. Thực tế là con người không thể biết nhiều
hơn một phần rất nhỏ của toàn bộ xã hội và do vậy, tất cả những gì có thể ảnh
hưởng đến động cơ của anh ta là các tác động tức thì gây ra bởi các hành động
của anh ta, trong phạm vi anh ta biết được. Tất cả những sự khác nhau có thể
nhận biết được giữa các quan niệm về đạo đức của loài người chỉ có ý nghĩa rất
nhỏ, xét về vai trò của chúng đối với tổ chức xã hội, so với thực tế là tất cả
những gì mà trí tuệ của một con người có thể thực sự hiểu chỉ là những thứ rất
gần gũi xung quanh anh ta; do đó, dù anh ta có hoàn toàn ích kỷ hay là người vị
tha hoàn hảo nhất thì những nhu cầu mà anh ta thực sự có thể chăm
nom được chỉ là một phần hầu như không đáng kể trong các nhu cầu của toàn bộ
các thành viên của xã hội. Do vậy, câu hỏi thực sự không phải là liệu con người
bị, hay bắt buộc bị, dẫn dắt bởi các động cơ ích kỷ, mà là: liệu chúng ta có
thể cho phép anh ta tự dẫn dẵn các hành động của mình bằng những hậu quả tức
thì mà anh ta có thể biết và chăm sóc, hay là liệu anh ta bắt buộc phải làm
những cái dường như thích hợp với một người nào đó mà được giả định là sở hữu
một sự hiểu biết đầy đủ về ý nghĩa của những hành động này đối với xã hội như
là một tổng thể?
Đối
với truyền thống Thiên chúa giáo được thừa nhận, theo đó, con người phải được
quyền tự do theo đuổi tín ngưỡng của mình trong các vấn đề về
đạo đức nếu các hành động của anh ta phải thuộc về một loại đức hạnh nào đó,
thì các nhà kinh tế đã đưa thêm một luận cứ nữa là anh ta cần được tự do để sử
dụng toàn bộ tri thức và kỹ năngcủa mình, nghĩa là, anh ta cần được cho
phép theo đuổi những mối quan tâm của anh ta liên quan đến những cái cụ thể
mà anh ta biết và quan tâm chăm sóc, nếu chúng ta muốn anh ta
đóng góp nhiều nhất trong khả năng của mình vào những mục đích chung của xã hội.
Vấn đề chính của các nhà kinh tế là những mối quan tâm có giới hạn này, mà
trong thực tế quyết định các hành động của con người, có thể tạo ra những đóng
góp thiết thực để khiến cho họ tự nguyện đóng góp nhiều nhất có thể vào các nhu
cầu nằm ngoài tầm nhìn của họ. Điều mà các nhà kinh tế hiểu vào thời điểm ban
sơ của kinh tể học là thị trường, như đã hiện hữu, là một phương cách có hiệu
quả khiến cho con người gánh vác một phần của một công cuộc phức tạp và rộng
lớn hơn nhiều cái anh ta có thể hiểu và vì thế, thông qua thị trường, anh ta đã
thực hiện việc đóng góp vào “các mục tiêu vốn nằm ngoài mục đích của bản thân
anh ta”.
Một
điều hầu như khó tránh khỏi là các tác giả cổ điển khi giải thích lý lẽ của
mình hay sử dụng ngôn từ có xu hướng gây hiểu lầm và vì thế, họ hay bị mang
tiếng là những người tán dương tính vị kỷ. Nhưng khi chúng ta cố gắng phát biểu
lại lý lẽ đúng đó bằng loại ngôn ngữ giản dị, chúng ta nhanh chóng phát hiện ra
lý do của sự hiểu lầm. Nếu chúng ta phát biểu nó một cách chính xác bằng cách
nói rằng loài người phải và cần phải được dẫn dắt hành động của họ bằng sự quan
tâm và mong muốn của chính họ thì, một lần nữa, điều này sẽ bị
hiểu nhầm hoặc bị bóp méo thành dạng luận điểm sai là: họ phải hoặc cần phải
được dẫn dắt bởi không gì khác hơn là các nhu cầu cá nhân hoặc các mối quan tâm
ích kỷ của họ, trong khi điều chúng ta muốn nói là: họ cần phải được phép tranh
đấu cho bất kỳ thứ gì mà họ nghĩ là đáng theo đuổi.
Một
cụm từ gây hiểu lầm khác, được sử dụng để làm nổi bật một luận điểm quan trọng,
là giả định nổi tiếng theo đó mỗi người biết tốt nhất các mối quan tâm của
mình. Ở dạng này, luận điểm hoặc không hợp lý, hoặc không cần thiết cho các kết
luận của người theo chủ nghĩa cá nhân. Cơ sở đúng trong lập luận của người theo
chủ nghĩa cá nhân là không ai có thể biết ai biết tốt nhất và
cách duy nhất theo đó chúng ta có thể biết được (điều này) là thông qua một quá
trình xã hội, tại đấy mọi người được phép cố gắng và tìm hiểu xem mình có thể
làm được gì. Giả thiết nền tảng, ở chỗ này cũng như chỗ khác, là sự đa dạng
không giới hạn của tài năng và kỹ năng của con người và hệ quả là sự hầu như vô
minh của bất kỳ cá nhân đơn lẻ nào về cái được biết đối với tất cả các thành
viên khác của xã hội khi gộp chung vào. Hoặc, phát biểu luận điểm nền tảng này
theo một cách khác, Lý Trí của con người, với Lý Trí viết hoa, không tồn tại
dưới dạng đơn lẻ như là nó được cho sẵn hoặc có sẵn đối với bất kỳ một người cụ
thể nào, điều mà trường phái duy lý dường như giả thiết, mà chắc chắn phải được
nhận thức như là một quá trình giữa các cá nhân với nhau mà tại đó, sự đóng góp
của bất kỳ ai cũng phải được kiểm nghiệm và hiệu chỉnh bởi những người khác.
Luận điểm này không giả thiết là tất cả mọi người đều bình đẳng về các nguồn
tài nguyên tự nhiên và năng lực thiên phú, mà là không ai đủ khả năng để đưa ra
phán xét cuối cùng về các loại năng lực mà người khác sở hữu hoặc được phép thể
hiện.
Có
lẽ ở đây, tôi xin được phép nói rằng chỉ vì trên thực tế, mọi người không bình
đẳng nên chúng ta [những nhà nghiên cứu – ND] mới có thể xem họ như là bình
đẳng. Nếu giả sử tất cả mọi người hoàn toàn bình đẳng về lộc trời cho cũng như
về khả năng phán xét thì chúng ta sẽ phải xem xét họ theo cách khác hẳn nhằm
đạt tới bất kỳ dạng tổ chức xã hội nào. Thật may mắn là họ không bình đẳng; và
chỉ nhờ có điều này mà sự khác biệt về các chức năng không cần thiết phải được
xác định bởi các quyết định độc đoán của một loại ý chí tổ chức nào đó mà là
sau khi tạo dựng được sự bình đẳng hình thức về các qui tắc áp dụng theo cùng một
cách cho tất cả, chúng ta có thể nhường chỗ cho mỗi cá nhân tự đi tìm vị trí
của mình.
Có
sự khác nhau hoàn toàn giữa việc xem mọi người như là bình đẳng và việc cố gắng
làm cho họ bình đẳng. Trong khi trường hợp đầu là điều kiện cho một xã hội tự
do thì trường hợp sau, như de Toqueville đã mô tả về nó, đồng nghĩa với “một
hình thức nô lệ mới” [17] .
(Còn tiếp)
Chú thích
[1]Cả hai thuật ngữ “chủ
nghĩa cá nhân” và “chủ nghĩa xã hội” đều được những người thuộc học phái Saint‑Simon,
những người đặt nền móng cho chủ nghĩa xã hội hiện đại, sáng tạo ra. Đầu tiên,
họ đưa ra thuật ngữ “chủ nghĩa cá nhân” để mô tả loại xã hội cạnh tranh mà họ
chống lại và sau đó, họ sáng tạo ra từ “chủ nghĩa xã hội” để mô tả loại xã hội
được hoạch định tập trung, tại đó mọi hoạt động được định hướng bởi cùng một thứ
nguyên lý được áp dụng trong một phân xưởng đơn lẻ. Xem nguồn gốc của những
thuật ngữ này trong bài luận của tôi “The Counter‑Revolution of Science” [Cuộc
cách mạng ngược của khoa học], Economica, VIII (sêri
mới, 1941), 146.
[2]R. Bisset, Life of Edmund Burke [Cuộc đời của
Edmund Burke] (ấn bản thứ 2, 1800), II, 429. Cũng xem W. C. Dunn, “Adam Smith
and Edmund Burke: Complimentary Contemporaries, [Tạm dịch thoát: Adam Smith và
Edmund Burke: Những người cùng thời với chúng ta] Southern Economic
Journal (trường đại học North Carolina), Quyển VII, Số 3 (tháng Một,
1941).
[3]Carl Menger là một trong những người đầu tiên trong thời hiện đại
đã công phu khôi phục lại chủ nghĩa cá nhân mang tính hệ thống từ Adam Smith và
học phái của ông. Carl Menger có lẽ cũng là người đầu tiên chỉ ra mối liên hệ
giữa lý thuyết thiên về thiết kế về các thể chế xã hội và chủ nghĩa xã hội. Xem
tác phẩm của ông, Untersuchungen über die Methode der
Sozialwissenschaften (1883), đặc biệt c. IV, ch. 2, cho tới phần cuối
(tr. 208) ông viết “một chủ nghĩa thực dụng mà, ngược lại với chủ ý của những
người đại diện nó, sẽ không tránh khỏi việc dẫn đến chủ nghĩa xã hội”.
Đặc
biệt là những người thuộc học phái trọng nông đã đi từ chủ nghĩa cá nhân duy lý
trí luận – nền tảng của họ – không chỉ tới gần chủ nghĩa xã hội (được phát
triển đầy đủ trong Le Code de la nature [1755] [Mật mã của tự
nhiên] của Morelly, một tác giả trong thời đại của họ), mà còn cổ vũ cho chế độ
chuyên quyền đầy xấu xa. Bodeau viết: “L'État fait des hommes tout ce qu'il
veut” [Tạm dịch: Nhà nước có thể tạo ra con người theo tất cả
những gì mà nó muốn].
[4]Edmund Burke, Reflections on the Revolution in
France [Những suy nghĩ về Cách mạng Pháp] (1790), trong Works [Các
tác phẩm] (ấn bản của World's Classics), IV, 105: “Vì thế khối thịnh vượng
chung, chỉ trong một vài thế hệ, tự nó sẽ phân rã thành tro bụi, và rốt cuộc bị
cuốn trôi theo gió mây”. Là Burke (như A. M. Osborn chỉ ra trong tác phẩm của
bà về Rousseau and Burke [Rousseau và Burke] [Oxford, 1940], tr.
23), sau khi ông tấn công Rousseau về thứ “chủ nghĩa cá nhân” cực đoan của ông
ta, thì lại tấn công tiếp thứ chủ nghĩa tập thể cực đoan của ông ta, thay vì là
giữa chúng không có mối liên hệ gì thì ngược lại trong trường hợp của Rousseau,
cũng như của tất cả những người thuộc cùng trường phái, chủ nghĩa tập thể đơn
thuần là kết quả không thể tránh khỏi của chủ nghĩa cá nhân duy lý
trí luận.
[5]Alexis de Tocqueville, Democracy in America, [Nền
dân chủ ở Mỹ] dịch bởi Henry Reeve (London, 1864), q. II, c. 11, ch. 2, ở đây
de Tocqueville định nghĩa chủ nghĩa cá nhân là “một cảm giác trưởng thành và
tĩnh lặng, khiến mỗi thành viên của cộng đồng trở thành chủ nhân của chính mình
từ đồng loại, và đối chọi một phần với gia đình và các bạn bè của anh ta; để
rồi, sau khi anh ta đã hình thành cho mình một khoảng trời riêng, anh ta sẵn
lòng hầu như rời bỏ cộng đồng để thu về ốc đảo của riêng mình". Trong một
chú thích về đoạn này, người dịch đã xin lỗi việc đưa thuật ngữ tiếng Pháp
“individualism” vào tiếng Anh và giải thích là ông ta biết rằng “không có từ
tiếng Anh nào thực sự tương đương với nghĩa của từ này”. Như Albert Schatz chỉ
ra trong cuốn sách đề cập ở chú thích phía dưới, việc de Tocqueville sử dụng
một thuật ngữ tiếng Pháp phổ biến theo nghĩa cụ thể này là hoàn toàn tuỳ tiện
và dẫn tới sự nhầm lẫn nghiêm trọng với nghĩa phổ biến.
[6]Trong khảo cứu xuất sắc về lịch sử của các lý thuyết về chủ nghĩa cá nhân, Albert Schatz (đã quá cố) có một kết luận đúng đắn là “nous voyons tout d'abord avec évidence ce que l'individualisme n'est pas. C'est précisément ce qu'on croit communément qu'il est: un système d'isolément dans l'existence et une apologie de l'égoisme”(L'individualisme économique et social [Chủ nghĩa cá nhân trong kinh tế và xã hội] [Paris, 1907], tr. 558). [Tạm dịch: Đầu tiên, chúng ta có thể thấy một cách hiển nhiên cái không phải là chủ nghĩa cá nhân. Nhưng người đời thông thường lại nghĩ rằng chính đó mới là chủ nghĩa cá nhân: một hệ thống tách rời khỏi đời sống chung và một sự biện hộ cho thói vị kỷ.] Cuốn sách này, vốn rất có ý nghĩa đối với tôi, được biết đến rộng rãi như là một sự đóng góp không chỉ trong chủ đề mà tiêu đề của cuốn sách chỉ ra, mà còn trong chủ đề về lịch sử lý thuyết kinh tế nói chung.
[6]Trong khảo cứu xuất sắc về lịch sử của các lý thuyết về chủ nghĩa cá nhân, Albert Schatz (đã quá cố) có một kết luận đúng đắn là “nous voyons tout d'abord avec évidence ce que l'individualisme n'est pas. C'est précisément ce qu'on croit communément qu'il est: un système d'isolément dans l'existence et une apologie de l'égoisme”(L'individualisme économique et social [Chủ nghĩa cá nhân trong kinh tế và xã hội] [Paris, 1907], tr. 558). [Tạm dịch: Đầu tiên, chúng ta có thể thấy một cách hiển nhiên cái không phải là chủ nghĩa cá nhân. Nhưng người đời thông thường lại nghĩ rằng chính đó mới là chủ nghĩa cá nhân: một hệ thống tách rời khỏi đời sống chung và một sự biện hộ cho thói vị kỷ.] Cuốn sách này, vốn rất có ý nghĩa đối với tôi, được biết đến rộng rãi như là một sự đóng góp không chỉ trong chủ đề mà tiêu đề của cuốn sách chỉ ra, mà còn trong chủ đề về lịch sử lý thuyết kinh tế nói chung.
[7]Liên quan đến khía cạnh này như Karl Pribram đã làm sáng tỏ, chủ
nghĩa cá nhân là một kết quả cần thiết của chủ nghĩa duy danh trên bình diện
triết học, trong khi các lý thuyết mang màu sắc chủ nghĩa tập thể có nguồn gốc
từ truyền thống “duy thực luận” hay (như K. R. Popper hiện nay dùng một thuật ngữ
phù hợp hơn) “bản chất luận” (Pribram, Die Entstehung der
individualistischen Sozialphilosophie [Leipzig, 1912]). Nhưng cách
tiếp cận “duy danh luận” này là đặc trưng chỉ của chủ nghĩa cá nhân chân chính,
trong khi chủ nghĩa cá nhân giả hiệu của Rousseau và những người theo chủ nghĩa
trọng nông (physiocrats), thuộc nhánh bắt nguồn từ học phái Descartes, hoàn
toàn theo duy thực luận hay “bản chất luận”.
[8]Adam Ferguson, An Essay on the History of Civil Society [Luận
văn về lịch sử xã hội dân sự] (ấn bản thứ nhất, 1767), tr. 187. Cũng xem trong
sđd: “Các hình thái xã hội bắt nguồn từ một nguồn gốc mờ mịt và xa xăm; chúng
xuất hiện, trước khi có triết học rất lâu, và từ các bản năng, chứ không phải
từ sự tư biện của con người… Chúng ta gán cho cái thiết kế kiểu trước là cái
được biết đến chỉ bằng kinh nghiệm, cái mà không có sự minh triết nào của con
người có thể nhìn thấy trước được, và cái mà không có cơ quan quyền lực nào có
thể khiến cho một cá nhân phải thi hành, nếu như không có sự đồng thuận từ phía
anh ta” (tr. 187 và 188).
Sẽ thú vị khi so sánh các trích đoạn trên với những phát biểu tương tự về cùng ý tưởng nền tảng bởi những nhà kinh tế Anh cùng thời với Ferguson trong thế kỷ XVIII:
Sẽ thú vị khi so sánh các trích đoạn trên với những phát biểu tương tự về cùng ý tưởng nền tảng bởi những nhà kinh tế Anh cùng thời với Ferguson trong thế kỷ XVIII:
Josiah
Tucker, Elements of Commerce [Những thành tố của hoạt động
thương mại] (1756), in lại trong Josiah Tucker: A Selection from His
Economic and Political Writings[Josiah Tucker: Tuyển chọn các bài viết về
kinh tế và chính trị], biên tập bởi R. L. Schuyler (New York, 1931), tr. 31 và
92: “Luận điểm chính là không dập tắt cũng như không làm yếu đi tình yêu bản
thân, mà là đưa nó vào một hướng mà nó có thể làm lợi cho lợi ích xã hội bằng
cách thúc đẩy lợi ích cá nhân… Mục đích chính của chương này là phải chỉ ra
rằng động lực phổ quát trong bản chất của con người, tình yêu bản thân, có thể
tiếp nhận sự chỉ dẫn trong trường hợp này (cũng như trong tất cả các trường hợp
khác) như là sự thúc đẩy lợi ích công cộng bằng chính những nỗ lực mà tình yêu
bản thân tạo ra để theo đuổi những mục tiêu của chính nó".
Adam
Smith, Wealth of Nations [Của cải của các quốc gia] (1776),
biên tập bởi Carman, I, 421: “Bằng cách hướng ngành nghề theo cách thức có thể
sản sinh ra nhiều giá trị nhất, anh ta dự định mang lại lợi ích chỉ cho chính
anh ta, và trong hoàn cảnh đó, cũng như trong nhiều hoàn cảnh khác, anh ta bị
dẫn dắt bởi bàn tay vô hình để tạo ra một kết cục ngoài dự tính của anh ta. Sự
theo đuổi mục đích riêng này cũng không phải luôn là điều tệ hại nhất cho xã
hội, cái mà nó không đếm xỉa tới. Bằng cách theo đuổi lợi ích của chính mình,
anh ta thường xuyên thúc đẩy lợi ích của xã hội hiệu quả hơn khi anh ta thực sự
mong muốn thúc đẩy nó". Cũng xem The Theory of Moral
Sentiments [Lý thuyết về những tình cảm luân lý] (1759), Phần IV (ấn
bản lần thứ 9, 1801), ch. 1, tr. 386.
Edmund
Burke, Thoughts and Details on Scarcity [Suy nghĩ và phân tích
về sự khan hiếm] (1795), trong Works (ấn bản của World's
Classics), VI, 9: “Chúa tể nhân từ và sáng suốt của muôn loài, người buộc con
người, dù con người có muốn hay không, trong khi theo đuổi lợi ích riêng cho
bản thân mình, phải kết nối giá trị chung với thành công cá nhân của riêng
mình”.
Sau
khi những phát biểu này bị đa số các học giả khinh miệt và nhạo báng trong hàng
trăm năm trở lại đây (cách đây không lâu, C. E. Raven gọi phát biểu của Burke
trong đoạn trích dẫn cuối cùng là một câu “báng bổ” – xem tác phẩm của
ông Christian Socialism [Chủ nghĩa xã hội Thiên Chúa giáo]
[1920], tr. 34), thì có một điều thú vị hiện nay là một trong những lý thuyết
gia hàng đầu của chủ nghĩa xã hội hiện đại lại đi mô phỏng lại các kết luận của
Adam Smith. Theo A. P. Lerner (The Economics of Control [Kinh
tế học về kiểm soát] [New York, 1944], tr. 67), tính hữu dụng xã hội thiết yếu
của cơ chế giá cả là “nếu nó được sử dụng một cách thích hợp nó sẽ khiến cho
mỗi thành viên trong xã hội, trong khi tìm kiếm lợi ích của riêng mình, thực
hiện cái mà đem lại lợi ích xã hội tổng thể. Về cơ bản, đây là phát kiến vĩ đại
của Adam Smith và phái trọng nông”.
[9] Cũng xem Schatz, sđd., tr. 41 ‑ 42, 81, 378, 568 ‑ 69, đặc
biệt đoạn mà ông trích dẫn (tr. 41, chú thích 1) từ một bài xã luận của Albert
Sorel (“Comment j'ai lu la 'Réforme sociale,'” [Tôi đã đọc ‘Cải cách xã hội như
thế nào?] trong Réforme sociale [Cải cách xã hội], ngày
1, Tháng 11, 1906, tr. 614): “Quelque fut mon respect, assez commandé et
indirect encore, pour le Discours de la méthode, je savais
déja que de ce fameux discours il était sorti autant de déraison sociale et
d'aberrations métaphysiques, d'abstractions et d'utopies, que de données
positives, que s'il menait à Comte il avait aussi mené à Rousseau.” [Tạm dịch:
Dẫu dành sự kính trọng cho tác phẩm Luận về phương pháp, một sự
kính trọng có phần do bị áp đặt và lại còn gián cách nữa, tôi vẫn biết rằng từ
cái luận văn nổi tiếng này, có thể nảy sinh những quan điểm phi lý về xã hội
cũng như những lệch lạc về mặt siêu hình học, những tư tưởng trừu tượng và
không tưởng nhiều không kém những dữ liệu thực tế, rằng nó sẽ dẫn đến tư tưởng
của Comte cũng như trước đó, nó đã dẫn đến tư tưởng Rousseau.] Về ảnh hưởng của
Descartes đối với Rousseau xem thêm P. Janet, Histoire de la science
politique [Lịch sử chính trị học] (ấn bản lần thứ 3, 1887), tr. 423;
F. Bouillier, Histoire de la philosophie cartésienne [Lịch sử
của dòng triết học theo khuynh hướng Descartes] (ấn bản lần thứ 3, 1868), tr.
643; và H. Michel, L’Idée de l’etat [Lý tưởng của nhà nước] (ấn bản lần thứ 3, 1898), tr. 68.
[10]Vai trò quyết định của Mandeville trong lịch sử kinh tế học, vốn
đã bị đánh giá thấp trong một thời gian dài hay chỉ được ghi nhận chỉ bởi một
số ít các tác giả (đặc biệt Edwin Cannan và Albert Schatz), giờ đây bắt đầu
được nhìn nhận lại, chủ yếu là nhờ ấn bản tuyệt vời Fable of the Bees [Ngụ
ngôn của loài ong] do F. B. Kaye (đã quá cố) biên soạn. Mặc dù các ý tưởng chủ
đạo trong tác phẩm của Mandeville đã được đề cập trong bài thơ đầy tính sáng
tạo năm 1705 thì sự triển khai có tính quyết định và đặc biệt, sự nhìn nhận
hoàn chỉnh của ông liên quan tới nguồn gốc của phân công lao động, tiền tệ, và
ngôn ngữ chỉ xuất hiện tại Phần II của cuốn Fable xuất bản năm
1728 (xem Bernard Mandeville, The Fable of the Bees, biên soạn
bởi F. B. Kaye [Oxford, 1924], II, 142, 287 ‑ 88, 349 ‑ 50). Ở đây, tôi chỉ
trích dẫn một đoạn quan trọng liên quan đến nhìn nhận của ông về sự phát triển
của phân công lao động mà ông quan sát được “chúng ta thường ca tụng khả năng
thiên tài cũng như khả năng thấu hiểu đáng kinh ngạc của con người, cái mà trên
thực tế có được là nhờ tuổi tác, và nhờ kinh nghiệm của nhiều thế hệ, mà nếu
xét trên khía cạnh thể chất và độ sắc sảo, thì giữa họ chẳng mấy khác biệt”
(sđd., tr. 142).
Người
ta thường mô tả Giambattista Vico và câu phương ngôn của ông (thường bị trích
dẫn sai), homo non intelligendo fit omnia (Opere, biên tập bởi
G. Ferrari [2d ed.; Milan, 1854], V, 183), như là điểm khởi đầu của lý thuyết
chống lại duy lý trí luận về các hiện tượng xã hội, nhưng có lẽ là Mandeville
đã thực hiện trước và xuất xắc hơn ông ta.
Có
lẽ cũng phải nói rằng, không chỉ Mandeville mà cả Smith đều xứng đáng chiếm
những vị trí danh dự trong việc phát triển lý thuyết về ngôn ngữ, mà dưới nhiều
cách thức khác nhau, chứa đựng các vấn đề về bản chất có cùng gốc rễ như các ngành khoa học xã hội khác.
[11]Réné Descartes, A Discourse on Method [Bàn về
phương pháp] (ấn bản của Everyman), tr. 10 ‑ 11.
[12]Về cách tiếp cận đặc trưng của loại tâm hồn kỹ sư đối với các hiện
tượng kinh tế, xem nghiên cứu của tôi “Scientism and the Study of Society” [Chủ
nghĩa duy khoa học và nghiên cứu về xã hội], Economica, q. IX ‑
XI (sêri mới, 1942 ‑ 44), đặc biệt q. XI, 34.
[13]Từ lúc bài giảng này được công bố lần đầu tiên, tôi đã nhận được
thông báo là có một bài mang tính giới thiệu của Jerome Rosenthal về “Attitudes
of Some Modern Rationalists to History” [Những khuynh hướng của một số nhà tư
tưởng duy lý hiện đại về lịch sử] (Journal of the History of Ideas, cuốn
IV, số 4 [Tháng 10, 1943], 429 ‑ 56), chỉ ra một cách khá chi tiết thái độ bài
lịch sử của Descartes và đặc biệt là môn đồ của ông ta Malebranche và đưa ra
các ví dụ thú vị về thái độ khinh miệt mà Descartes biểu lộ trong tác phẩm của
ông Recherche de la vérité par la lumière naturelle [Đi tìm sự
thật dưới ánh sáng của tự nhiên] về việc nghiên cứu lịch sử, ngôn ngữ, địa lý,
và đặc biệt là các trước tác kinh điển.
[14]James Bonar, Philosophy and Political Economy [Triết học và Kinh tế chính trị] (1893), tr. 85.
[14]James Bonar, Philosophy and Political Economy [Triết học và Kinh tế chính trị] (1893), tr. 85.
[15]A. W. Benn, trong tác phẩm của ông History of English
Rationalism in the Nineteenth Century [Lịch sử Chủ nghĩa duy lý Anh
thế kỷ XIX], (1906), phát biểu một cách đúng đắn: “Với Quesnay, tuân theo tự
nhiên có nghĩa là tìm ra sự chắc chắn, qua nghiên cứu về thế giới chúng ta và
về các qui luật của nó, về hành vi nào là có ích nhất cho sức khỏe và hạnh
phúc; và các quyền tự nhiên có nghĩa là tự do theo đuổi công cuộc đã được minh
định là đủ chắc chắn. Kiểu tự do như thế chỉ thuộc về những kẻ đức hạnh và
thông thái, và có thể chỉ được ban phát cho những kẻ mà có quyền giám hộ thuộc
về nhà nước – những kẻ được hân hạnh xem là có phẩm chất như thế. Với Adam
Smith và các môn đồ của ông, thì tự nhiên lại có nghĩa là tổng của tất cả các
xung lực và bản năng tạo sinh khí cho các cá nhân trong xã hội; và nhận định
của họ là các sắp đặt tốt nhất là những cái có được từ việc trao tự do cho các
xung lực này thể hiện, với sự tin tưởng rằng các sai lầm cục bộ sẽ được bù đắp
hơn thế bởi các thành công ở nơi khác, và rằng sự theo đuổi lợi ích riêng của
mỗi cá nhân sẽ dẫn tới hạnh phúc tổng thể cho tất cả" (I, 289).
Về toàn bộ vấn đề này xem Elie Halévy, The Growth of Philosophic Radicalism [Sự phát triển của Chủ nghĩa cưc đoan trong triết học] (1928), đặc biệt các trang 266 ‑ 70.
Về toàn bộ vấn đề này xem Elie Halévy, The Growth of Philosophic Radicalism [Sự phát triển của Chủ nghĩa cưc đoan trong triết học] (1928), đặc biệt các trang 266 ‑ 70.
Sự
đối lập giữa các triết gia Scotland ở thế kỷ XVIII với các đồng nghiệp người
Pháp đương thời cũng được làm sáng tỏ trong nghiên cứu gần đây của Gladys
Bryson, Man and Society: The Scottish Enquiry of the Eighteenth Century [Con
người và xã hội: Tư biện của người Scotland thế kỷ XVIII] (Princeton, 1945),
tr. 145. Bà nhấn mạnh là tất cả các triết gia Scotland “đều muốn phá bỏ chủ
nghĩa duy lý Descartes, mà trọng tâm của nó là chủ nghĩa duy trí tuệ trừu tượng
và các ý tưởng bẩm sinh,” và nhấn mạnh lặp đi lặp lại về các khuynh hướng “bài
chủ nghĩa cá nhân” của David Hume (các tr. 106, 155) – với thuật ngữ “chủ nghĩa
cá nhân” theo nghĩa mà chúng tôi đề cập ở đây là giả hiệu, duy lý trí. Nhưng bà
thỉnh thoảng lại mắc vào sai lầm chung khi coi họ là “đại diện và tiêu biểu cho
luồng tư tưởng của thế kỷ” (tr. 176). Vẫn còn khá nhiều sự cách biệt, phần lớn
là do sự chấp nhận quan niệm của người Đức về “Khai Sáng,” liên quan đến việc
xem các quan điểm của các triết gia thế kỷ XIII là tương tự, trong khi sự khác
biệt trên nhiều khía cạnh giữa các triết gia Anh và Pháp trong thời kỳ này lại
có ý nghĩa quan trọng hơn là sự tương tự. Thói quen chung của việc gộp Adam
Smith và Quesnay với nhau, bắt nguồn từ niềm tin trước đây là Smith đã chịu ơn
nhiều từ các nhà trọng nông, đã bị phản bác lại bởi các khám phá gần đây của W.
R. Scott (xem tác phẩm của ôngAdam Smith as Student and Professor [Adam
Smith - Chàng sinh viên và vị Giáo sư] [Glasgow, 19371, tr. 124). Có một điểm
cũng quan trọng là cả Hume và Smith đều được phát hiện là đã bị kích động qua
tác phẩm của họ bằng sự chống đối lại Montesquieu.
Bàn
luận về sự khác biệt giữa các triết gia Anh và Pháp, nên xem Rudolf
Goldscheid, Grundlinien zu einer Kritlik der Willenskraft (Vienna,
1905), tr. 32 – 37, dù là phần nào đã bị bóp méo do thái độ thù địch của tác
giả đối với “chủ nghĩa tự do trong kinh tế” của các triết gia
Anh.
[16]Edmund Burke, Thoughts and Details on Scarcity [Suy
nghĩ và phân tích về sự khan hiếm] (1795), trong Works (ấn bản của World's Classics), VI, 15.
[17]Cụm từ này được de Tocqueville sử dụng đi sử dụng lại để mô tả các
ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội, đặc biệt nên xem Oeuvres complètes, [Tác
phẩm toàn tập] IX (1886), 541, ở đây ông nói: “Si, en définitive, j'avais à
trouver une formule générale pour exprimer ce que m'apparait le socialisme dans
son ensemble, je dirais que c'est une nouvelle formule de la servitude.” [Tạm
dịch: Nếu như rốt cục, tôi tìm thấy được một thể thức chung để diễn đạt cái mà
đối với tôi là chủ nghĩa xã hội trong tổng thể của nó thì đó chính là một thể
thức nô lệ mới.] Có lẽ tôi nên nói thêm là cụm từ này của de Tocqueville đã gợi
ý cho tôi đặt tên cho một tác phẩm gần đây của tôi [tác phẩm the Road to Serdom
[Con đường dẫn đến nô lệ], 1945 - ND].