Bùi Quang
Vơm
Chế
độ chính trị của một Quốc gia có giá ảnh hưởng quyết định tới sinh
mệnh quốc gia, tới số phận hàng triệu con người, tới tương lai của
nhiều thế hệ. Chế độ chính trị quyết định con đường đi của một dân
tộc trong một thời gian dài, nó có thể thúc đẩy quá trình phát
triển tiến bộ vượt bậc, nhưng trong trường hợp ngược lại, trước khi
bộc lộ các khuyết tật đủ để bị đào thải, nó có thể cướp đi của
một dân tộc nhiều chục năm của lịch sử, chặn dòng chảy lịch sử
dừng lại, thậm chí kéo lùi nền văn minh của một dân tộc ngược trở
lại nhiều chục năm.
Vì ý nghĩa đó, lựa
chọn chế độ chính trị cho một quốc gia là một việc làm cần một
thái độ nghiêm túc, quyết định một lựa chọn phải là một hành vi
thận trọng với đầy đủ trách nhiệm.
Tuy nhiên, trên thực
tế, một mặt, thực tiễn lịch sử phát triển xã hội chính trị cuả
nhân loại diễn ra đa dạng, phức tạp, hình mẫu các thể thức chế độ
chính trị cho tới hiện tại chưa bộc lộ đầy đủ những đặc trưng để
có thể phân biệt một cách rành mạch, mặt khác, các chế độ chính
trị được lựa chọn của mỗi quốc gia chỉ có thể gặp nhau ở những
nét lớn đặc trưng, trên thực tế cơ cấu của thể chế và cơ chế vận
hành các thiết chế công quyền của từng quốc gia không hề giống nhau.
Các khác biệt đó có xuất xứ từ nguồn gốc lịch sử, văn hoá, tập
quán sinh hoạt, các điều kiện địa lý, tương quan quốc tế v.v... của
mỗi quốc gia.
Cho nên, mô hình thể
chế chính trị cho mỗi quốc gia, mặc dù căn cứ trên các tiêu chí cơ
bản có tính phổ biến về mặt lý thuyết, việc lựa chọn và áp dụng
một thể chế vào việc tổ chức bộ máy nhà nước trên thực tế không
thể chịu ràng buộc về mặt hình thức thể loại một cách cứng nhắc.
Những đặc tính chung của một loại hình không phải là các điều kiện
bắt buộc phải tuân thủ đối với mỗi quốc gia. Ngay trong từng hình
mẫu, không phải quốc gia nào cũng vận hành giống nhau.
Vì vậy, lựa chọn một
thể chế chính trị cho một Quốc gia, về nguyên tắc chỉ dựa trên Hệ
thống các Giá trị quốc gia. Chế độ chính trị, cơ cấu và cơ chế vận
hành của các thiết chế công quyền, kết cấu và cơ chế vận hành của
các định chế nhà nước phải phù hợp tương ứng với hệ thống giá trị
đó. Chế độ chính trị có chức năng bảo đảm vận hành bộ máy công
quyền quốc gia giới hạn trong khuôn khổ hệ thống giá trị quốc gia,
chịu sự quản chế của hệ thống giá trị quốc gia và có nghĩa vụ
bảo vệ sự bền vững bất biến và tính bất tử của nó. Chế độ chính
trị chỉ thay đổi khi triết lý dân tộc hay hệ thống giá trị dân tộc
thay đổi. Cũng vì vậy, chỉ có thể thay đổi một chế độ chính trị
khi đạt được sự thay đổi của hệ thống giá trị.
Như vậy, không phải
là lựa chọn kiểu mẫu nào có sẵn. Nội dung của việc lựa chọn thể
chế chính trị suy cho cùng là việc lựa chọn Hệ thống các giá trị
quốc gia và phương thức Quản trị các giá trị đó.
Hệ thống giá trị
quốc gia bao gồm hai giá trị nền tảng, giá trị vật chất và giá trị
tinh thần, là tài nguyên quốc gia và lịch sử văn hoá dân tộc, giá
trị có trên mặt đất trong giới hạn cương vực lãnh thổ nơi cộng đồng
dân tộc sinh sống và giá trị của cộng đồng người sinh sống trên cương
vực lãnh thổ đó, nói một cách đơn giản, là chủ quyền quốc gia và
quyền của con người sống trong quốc gia đó.
Giá trị hữu hình,
tức giá trị vật chất của quốc gia khi cương vực lãnh thổ đã ổn
định là giá trị cố định, bất biến. Có nghĩa là chủ quyền quốc gia
là xác định. Chỉ còn quyền con người, tức là các quyền cơ bản của con
người cá thể và các quyền con người sống thành cộng đồng trong cương
giới lãnh thổ chung, trong một quốc gia chung, dưới một Nhà nước
chung, gọi là quyền công dân. Như vậy, loại giá trị thứ hai, giá trị
vô hình hay giá trị tinh thần sẽ bao gồm quyền cá nhân và quyền công
dân.
Quyền cá nhân là
quyền mọi con người đều có như nhau, quyền mà thượng đế ban cho con
người như một loài trong muôn loài. Đó là quyền được sinh ra, quyền
được sống, quyền được ăn và tìm kiếm cái ăn, quyền được đi lại khi
cần phải đi lại, quyền được nói khi muốn nói, quyền được suy nghĩ và
nói ra những điều mình nghĩ, quyền được tự do tìm nơi ở, nơi sinh
sống, quyền tìm cách nuôi sống mình và dòng giống của mình, quyền
tư vệ và tìm cách tự vệ, quyền chống lại tước điạt và áp bức...
Những quyền này gọi là quyền tự nhiên, quyền đương nhiên của loài
người, bất kể "cái con người" đó sinh ra ở đâu trên mặt đất
và "cái con người" đó sống dưới chế độ chính trị nào.
Những cá thể tự do
đó sống thành cộng đồng và tạo thành xã hội. Khi thực thi quyền tự
do cá nhân, các cá thể đụng chạm lẫn nhau, và một quy tắc bắt buộc
phải chấp nhận để được thật sự tự do, đó là khi thực thi tự do,
mỗi cá thể không làm tổn hại quyền tự do của những cá thể
khác.
Quyền của những con
người cùng sinh hoạt trong một cộng đồng xã hội, cùng có một quy ước
chung, chia sẻ với nhau một số phận và một không gian văn hoá chung,
cùng thống nhất một hệ thống quyền lực công cộng chung là Nhà nước,
thì các quyền đó được gọi là quyền công dân - quyền của người dân
sống trong quốc gia, xã hội và Nhà nước chung đó. Quyền công dân là
các quyền chính trị, quyền kinh tế, quyền xã hội và quyền văn hóa.
Giá trị hữu hình của
Quốc gia tồn tại độc lập tương đối với chế độ chính trị cuả quốc
gia, trong khi giá trị vô hình, hay nhân quyền có thể có và có thể
bị tước đoạt hoàn toàn, tuỳ thuộc vào chế độ chính trị hình thành
và tồn tại trên quốc gia đó.
Như vậy, Hệ thống
giá trị quốc gia bao gồm hai bộ phận gắn kết hữu cơ tạo ra nền tảng
tồn tại của quốc gia, phần hữu hình có đặc tính bền vững, ít chịu
tác động bởi sự thay đổi của chế độ chính trị, phần vô hình, ngược
lại, phụ thuộc gần như hoàn toàn vào chế độ chính trị được áp đặt
lên quốc gia.
Một cách tóm tắt,
có thể định nghĩa Chế độ chính trị là hình thái kết cấu nhà nước
có hai chức năng chính là bảo vệ chủ quyền và bảo vệ nhân quyền.
Dưới chế độ chính
trị Dân chủ Đa nguyên, Chính phủ nằm trong tay đảng chính trị cầm
quyền, có tính chất luân phiên. Chính phủ được hình thành và ra đời
từ chiến dịch tranh cử giữa các đảng chính trị khác nhau. Đảng có
Dự án thắng thế giành được đa số ghế trong Quốc hội được quyền lập
Chính phủ. Sự bền vững của Chính phủ tuỳ thuộc vào khả năng và
mức độ thực hiện các cam kết trong chương trình tranh cử. Vì lý do
này, tất cả các chính phủ cầm quyền đều chịu sức ép chính trị lớn
trước áp lực của quốc hội và của dư luận. Trong quá trình chuyển
chính sách thành luật, chính phủ luôn có xu hướng tự tăng quyền thực
thi pháp luật và lấn áp quyền của công dân. Đó là một đặc tính có
tính quy luật của moị chính phủ.
Việc phân tích, so
sánh các loại hình thể chế chính trị khác nhau là một việc khó,
cần nhiều tài liệu và nhiều thời gian, có thể không hợp với diễn
đàn thảo luận rộng rãi, vì vậy, như các đề tài trước, người viết
chỉ làm việc cuả người nêu ra ý kiến.
Cá loại hình Chế độ
chính trị trên thế giới hiện đại.
Các hình mẫu thể
chế chính trị đặc trưng hiện nay trong lý thuyết chính trị xã hội
học hiện đại, chỉ phân biệt hai chế độ duy nhất, đó là chế độ Quân
chủ và chế độ Cộng hoà.
Chế độ gọi là Quân
chủ khi Nguyên thủ quốc gia, hay người đại diện duy nhất cho chủ quyền
quốc gia là một vị Vua, được quan niệm là chủ sở hữu toàn quyền và
tuyệt đối với mọi tài sản thuộc quốc gia, bất kể tài sản đó là
hữu hình hay vô hình. Vua không do ai bầu, Vua nhân danh Thượng đế, Đấng
Toàn năng cai quản quốc gia, chăn dắt quốc dân, có quyền cha truyền con
nối.
Quân chủ là tuyệt
đối khi moị tài sản thuộc quyền sở hữu của nhà Vua và mọi thực
quyền tập trung hoàn toàn trong tay nhà Vua. Nhà Vua làm ra luật, quy
định các quy tắc sinh hoạt xã hội. Nhà Vua lập ra điều khiển các
công cụ công lực để kiểm soát xã hội.
Quân chủ lập hiến là
mô hình thể chế khi nhà Vua chỉ còn là Nguyên thủ tượng trưng, biểu
tượng cho chủ quyền quốc gia, tượng trưng cho tính toàn vẹn và sự
thống nhất các giá trị quốc gia. Mặc dù nhà Vua có quyền cha truyền
con nối, không phải qua bầu cử, nhưng không có quyền thực tế trong các
thiết chế quyền lực. Quyền của Quốc vương do Hiến pháp quy định.
Quyền hành pháp được một Quốc hội do dân bầu trực tiếp giao cho Thủ
tướng và Chính phủ, vẫn duy trì Quân Vương như thời phong kiến, nhưng
không có thực quyền. "Nhà vua cai trị, nhưng không quản tri"̣.
Trong chế độ Quân chủ
Lập hiến, quyền lực tập trung vào Quốc hội là cơ quan duy nhất nắm
quyền lập pháp. Quốc hội bầu Thủ tướng và bầu ra các bộ trưởng
trong số các nghị sĩ. Việc Quốc Vương chỉ định Thủ tướng và chấp
nhận Nội các chỉ là hình thức. Gọi là lập hiến vì quyền lợi và
quyền hạn của Quốc Vương do Hiến Pháp quy định. Chính phủ chỉ chịu
trách nhiện trước Quốc hội và chỉ bị bãi miễn bởi quốc hội. Chế
độ quân chủ lập hiến về nguyên tắc giống với chế độ Cộng hoà Đại
nghị, còn gọi là Đại nghị Đơn chế hay Đại nghị Độc chế.( Parlement
Moniste)
1- Quân chủ Tuyệt đối
2- Quân chủ Lập hiến
Khác với chế độ Quân
chủ, trong một chế độ chính trị khi người đứng đầu quốc gia, hay
Nguyên thủ Quốc gia, đại diện cho chủ quyền tối cao của quốc gia không
phải do cha truyền con nối mà là do dân chúng trực tiếp hay gián tiếp
bầu ra, gọi là chế độ Cộng Hoà. Chữ Cộng hoà (répupblique) nghĩa
là công cộng, ngụ ý, tất cả tài sản quốc gia thuộc về công chúng.
Trong nền Cộng hoà,
có Ba hình thức khác nhau, đó là Cộng hoà Tổng thống và Cộng hoà
Đại nghị, vả Cộng Hoà Bán Đại Nghị hay còn gọi là Cộng Hoà Bán
Tổng Thống (sơ đồ 1).
1- Chế độ Cộng hoà
Tổng Thống ra đời cùng một lúc nhằm hai mục đích:
- Xóa bỏ chế độ cha
truyền con nối, xoá bỏ quyền cá nhân đối với tài sản quốc gia,
- Khắc phục tính
chất siêu quyền lực của Quốc hội, ban đầu là chỉ gồm một viện gọi
là viện Lãnh chúa, hay Nguyên lão, vốn xuất xứ từ nhóm quý tộc và
tư sản giàu có, quyền thế lấn át nhà Vua, không qua bầu cử. Nhóm cá
nhân này quy tụ lập ra Viện lập pháp, nhằm tước đọat quyền lực
tuyệt đối của nhà Vua và giành quyền độc lập, quyền tự do thao túng
nền chính trị quốc gia, phục vụ lợi ích của tầng lớp tư sản công
nghiệp đang lên.
Sự lộng quyền của
Viện Lãnh chúa thúc đẩy sự ra đời của viện dân cử gọi là Hạ viện,
có chức năng kiềm chế quyền lực của Viện Lãnh chúa, sau này gọi là
Thượng viện. Tuy nhiên, do thế lực xã hội rất hạn chế của các nghị
sĩ dân bầu so với các nghị sĩ thuộc thượng viện, nên trên thực tế,
Thượng viện vẫn là cơ chế chi phối có tính quyết định và là nguyên
nhân của nạn tham nhũng chính trị.
Trong chế độ Cộng
hoà Tổng thống, hai thiết chế công quyền là Lập pháp và Hành pháp
tách biệt nhau tuyệt đối. Quyền lực tuyệt đối của Cử tri được thể
hiện ngang bằng khi vưà trực tiếp bầu ra Tổng thổng, vừa đồng thời
trực tiếp bầu ra Quốc hội.
Quốc hội, mặc dù có
cấu tạo lưỡng viện, nhưng không bầu ra tổng thống vì vậy không có
quyền bãi miễn hay phế truất tổng thống. Ngược lại, Tổng thống cũng
không có quyền giải tán Quốc hội, nhưng cũng không chịu trách nhiệm
chính trị trước Quốc hội, tức là không phải báo cáo hay tường trình
các hoạt động thuộc phạm vi quyền hành pháp. Nếu phù hợp các cam
kết giúp tổng thống thắng cử và không trái luật, các sắc lệnh do
tổng thống ký có hiệu lực pháp lệnh tương đương luật.
Cơ quan quyền lực công
thứ ba là Toà án cũng được phân lập tách biệt và được đảm bảo
tính độc lập, thông qua việc Hiến pháp quy định các Thẩm phán do
tổng thống bổ nhiệm, có nhiệm kỳ suốt đời, với một mức thu nhập
luôn đảm bảo đủ cao để khó bị ảnh hưởng bởi các tác động có tính
tham nhũng, nhưng lại dễ dàng bị bãi miễn vĩnh viễn chỉ do lỗi vi
phạm pháp luật dù rất nhỏ.
Trong chế độ Tổng
Thống quyền Hành pháp tập trung duy nhất vào tay Nguyên thủ quốc gia.
Chính phủ không tồn tại, thực chất là Nội các hay Văn Phòng tổng
thống, gồm các Thư ký có chức năng tương tự bộ trưởng. Vì không có
quyền lực trung gian như Tổng thư ký hay Chủ tịch hội đồng thư ký có
mục đích phân tán quyền lực của tổng thống, cùng với những quy
trình phức tạp trong việc bác bỏ hay hay vô hiệu các quyết định của
Tổng Thống, cơ chế này trên thực tế tạo ra cơ hội cá nhân hoá và
nguy cơ chuyên chế hoá bộ máy hành pháp quốc gia, trong các tình
huống đặc biệt có thể chuyển hoá thành chế độ độc tài, thậm chí
phát xít. Đó là trường hợp của HítLe, Mútxôlini, Franco, Pinochet, và
gần đây là hiện tượng Donald TRUMP và Ricardo DUTERTE gây lo ngại cho
tinh thần dân chủ và an toàn thế giới.
Trên sơ đồ 3, chúng ta
thấy rõ con đường quyền lực đi từ cử tri, qua tổng thống và nội các
để quay trở về công chúng. Tổng thống phê chuẩn luật sau khi Hạ và
Thượng viện thông qua. Quốc hội có thể kiểm sóat, sát hạch Nội các,
nhưng mang tính hình thức (vạch đứt).
2- Chế độ Cộng Hoà
Đại nghị hay Đại Nghị Đơn chế (Parlement Moniste).
Sơ đồ 4. BQV.
Chế độ Cộng hoà Đại
nghị ra đời do tâm thức khắc phục nhược điểm của thể chế Tổng thống
theo khuôn mẫu Hoa Kỳ và lấy cảm hứng từ sự kế thưà di sản của chế
độ Quân chủ Lập hiến đang áp dụng tại Vương quốc Anh và các quốc gia
trong khối cộng đồng thịnh vượng chung, thuộc Liên Hiệp Anh. Nó gần
như giữ nguyên các cơ chế quyền lực theo nguyên tắc tuyệt đối hoá
quyền lực cơ quan lập pháp, tức là của Quốc Hội.
Quốc hội, thông
thường có cấu tạo Lưỡng viện.
Hạ viện bao gồm
những đại biểu do cử tri toàn quốc bầu theo chế độ phổ thông trực
tiếp, bỏ phiếu kín. Số đại biểu được tính theo số dân chúng, thông
thường một đại biểu cho 200.000-500.000 người.
Ở các nước dân chủ
đa đảng, số ghế của Hạ Viện được phân phối theo nguyên tắc tỷ lệ
các đảng chính trị có số ghế trong Hạ viện tỷ lệ với số phiếu
giành được qua bầu cử. Nguyên tắc này đảm bảo mọi tổ chức chính trị
đều có tiếng nói trong quốc hội, phản ánh trung thành và rộng rãi
nhất ý nguyện của mọi tầng lớp dân chúng trong xã hội.
Tuy nhiên, để chế áp
xu thế tầm thường hoá cơ quan Lập pháp, kiểm soát chất lượng của
Luật Pháp, sau khi thông qua Hạ Viện, trước khi trình tổng thống phê
chuẩn, các Luật hay bộ Luật bắt buộc phải được thông qua Thượng
Viện.
Thượng Viện bao gồm
các đại biểu được chia đều cho mỗi địa phương bất kể số dân của
từng địa phương đó. Thành viên Thượng viện, gọi là thượng nghị sĩ là
những cá nhân ưu tú nhất cuả mỗi địa phương, cả về năng lực trí
tuệ, năng lực xã hội và phẩm chất nhân cách. Thượng Viện có vai trò
cân bằng Quốc hội, đảm bảo tính ổn định của Pháp Luật.
Tổng thống do Quốc
hội bầu ra là Nguyên thủ quốc gia, đại diện cho chủ quyền và hệ
thống giá trị quốc gia, nhưng chỉ mang tính biểu tượng, không có một
quyền lực hành pháp cụ thể và trực tiếp nào. Danh nghĩa bổ nhiệm,
hay bãi nhiệm Thủ tướng và các thành viên của Chính phủ, nhưng thực
chất chỉ đơn thuần là phê chuẩn đề xuất qua kết quả bầu cử của
Quốc hội.
Quốc hội bầu ra và
bãi miễn Thủ tướng chính phủ, trực tiếp bỏ phiếu phê chuẩn hay bãi
miễn các chức danh trong nội các chính phủ theo đề nghị của Thủ
tướng. Sẽ có hai trường hợp có thể xảy ra.
Trường hợp thứ nhất,
khi không thuộc đảng có đa số trong quốc hội, vị trí Thủ tướng luôn
chịu áp lực rất lớn từ phía Quốc Hội. Chỉ một chính sách thiếu
hiệu quả, hoặc gây các phản ứng tiêu cực trong xã hội, Thủ tướng có
thể bị Quốc Hội phế truất và có thể kéo theo toàn bộ nội các. Trong
trường hợp này, Chính phủ là một cơ chế yếu và kém hiệu quả, có
thể bị Quốc hội làm tê liệt trong một thời gian dài, gây thiệt hại
lớn cho nền kinh tế và sinh hoạt xã hội. Mặt khác, Thủ tướng do
quốc hội bầu ra có thể thuộc đảng chính trị ít uy tín và thiếu
một chương trình cụ thể, gây tranh cãi và thiếu bền vững của các
chính sách, nguyên nhân của việc phải thay đổi liên tục Thủ tướng và
thành viên chính phủ, gây ra hủng hoảng chính trị nhiều khi trầm
trọng.
Trường hợp thứ hai,
khi Thủ tướng thuộc đảng có đa số, nhất là đa số tuyệt đối trong
Quốc hội, thì ngược lại, Quốc hội không còn vai trò gì đối với
Chính phủ. Nếu Thủ tướng đồng thời là thủ lĩnh của đảng đa số,
thì chế độ rơi trở lại vào chế độ Tổng thống. Mọi quyền lực nằm
trong tay Thủ tướng, và không một cơ chế nào kiểm soát. Thủ tướng có
thể giải tán quốc hội, và bãi miễn Tổng thống, bằng cơ chế đa số.
Thủ tướng, dù trong trường hợp này nắm trong tay tuyệt đối quyền
hành pháp, nhưng vì không phải là tổng thống, nên về trên nguyên tắc
và theo thông lệ Hiến pháp, không chiụ trách nhiệm đối với Chủ quyền
quốc gia và Hệ thống giá trị quốc gia, vì vậy tiềm ẩn các nguy cơ vi
phạm hiến pháp, lạm quyền và tha hoá, nguy hại tới an ninh quốc gia
và ổn định trật tự xã hội.
Các quốc gia theo thể
chế Đại Nghị có thể kể ra hiện nay gồm các quốc gia Quân chủ Lập
hiến thuộc liên hiệp Anh, Vương quốc Bỉ, Đan mạch, Hà Lan, Canađa, Úc,
Nhật, các Quốc gia Cộng Hoà Đại nghị như Đức, Áo, Italie, cộng Hoà
Séc, Phần lan, Island, Hylạp, Ấn Độ, Liban.
Có thể thấy, chế độ
Đại nghị, từ mong muốn khắc phục nhược điểm siêu quyền lực của cá
nhân tổng thống, đến lượt mình, lại rơi vào việc tạo ra siêu quyền
lực cho Quốc hội, vừa vô hiệu hoá, làm tê liệt chính phủ trong kịch
bản Thủ tướng không có đa sô, vừa có nguy cơ tạo ra siêu Thủ tướng
trong kịch bản ngược lại.
3- Chế độ Bán Tổng
Thống - Bán Đại Nghị hay Đại nghị lưỡng chế. (Parlement Dualiste)
Thể chế chính trị
Bán Tổng Thống hay Bán Đại Nghị ra đời tại Pháp, là kết quả lai
ghép giữa hai thể chế Tổng thống và Đại nghị, có tính cực đoan rất
rõ, bắt đầu bằng hiến pháp 1958, được tăng cường và chính thức vận
hành năm 1962 khi Tổng thống Pháp được bầu trực tiếp bằng phổ thông
đầu phiếu.
Sự ra đời thể chế
này, chiụ sự tác động rất cơ bản của chính Tổng thống Charles De
Gaulle, người rất hiểu Nghị viện Anh đã lũng đoạn Chính phủ như thế
nào, nhưng lại nghi ngờ tính dân chủ mà chế độ Tổng thống của Hoa
Kỳ trao quá nhiều quyền lực vào tay cá nhân tổng thống.
Năm 1964 Tổng thống
Charles de Gaulle xác định vai trò của Tổng thống và Thủ tướng như
sau: "Ở nước ta, tổng thống và Thủ tướng không phải cùng một
người là chuyện bình thường. Đúng là người ta khó có thể chấp nhận
hai đầu lĩnh trên thượng đỉnh, nhưng, đúng thế, không hề có gì như
vậy. Tổng thống là người duy nhất đại diện chủ quyền quốc gia,
nhưng, tính chính xác, tính bản chất, tầm rộng lớn, tính kéo dài
của các nhiệm vụ kéo theo sự căng thẳng không thể buông lỏng và không
có giới hạn, bởi tình hình, bởi chính sách, bởi quốc hội, bởi kinh
tế, bởi hành chính công vụ. Đối lại, đó là bổn phận vưà phức tạp,
xứng đáng vưà căn bản của Thủ tướng."
Sau này, được hoàn
chỉnh bằng hiến pháp 1968, thể chế Bán Tổng thống được khẳng định
ở Pháp với tham vọng cân bằng quyền lực giữa các thiết chế công
quyền của nhà nước, tránh dẫm lại vết chân của hai loại hình thể
chế Tổng Thống và Đại nghị truyền thống.
Lập pháp và Hành
pháp là hai cơ quan đều do dân bầu trực tiếp, vì vậy có tư cách pháp
nhân ngang nhau và độc lập với nhau. Nghĩa là Quốc hội không có quyền
bãi miễn Tổng Thống, nhưng lại có quyền bầu ra và bãi miễn Thủ tướng
chính phủ, là cơ quan hành pháp song song làm đối trọng và phân tán
quyền lực của Tổng Thống. Ngược lại, mặc dù Tổng Thống không có
quyền giải tán Quốc hội, không có quyền bãi miễn Thủ tướng và giải
tán Chính phủ, nhưng Tổng Thống cũng không chịu trách nhiệm chính trị
trước Quốc hội, nghĩa là không có trách nhiệm phải giải trình các
hoạt động trong phạm vi quyền hạn của Tổng thống phù hợp hiến pháp.
Trong chế độ Bán Đại
Nghị, hay còn gọi là Đại Nghị Lưỡng chế (parlement dualiste), Tổng
thống giữ vai trò Nguyên thủ quốc gia, đại diện chủ quyền quốc gia,
quyết định các chính sách của Chính phủ về mặt Ngoại giao và Quốc
phòng. Tổng thống đảm bảo tính liên tục của Quốc gia, là người đảm
bảo lợi ích chiến lược của quốc gia. Đồng thời, Tổng thống là người
đại diện tối cao của hệ thống quyền con người và quyền công dân,
quản chế và ngăn chặn các hành vi lạm quyền của Chính phủ.
Chính phủ và Thủ
tướng Chính phủ do Quốc hội bầu ra theo nguyên tắc đa số tuyệt đối.
Thông thường, Chính phủ do đảng chính trị hay liên minh các đảng chiếm
đa số ghế trong Quốc hội thành lập. Thủ tướng thường đồng thời được
bầu bởi đảng đa số hay đảng ưu thế trong liên minh đa số. Vì luôn là
lực lượng chiếm đa số ghế trong Quốc hội, nên trên thực tế, Quốc hội
nằm trong tay Thủ tướng.
Chế độ lưỡng đầu
chế này có tác dụng vừa san bớt quyền lực của tổng thống vừa
khống chế quyền lực của Quốc hội, nhưng đồng thời làm giảm tính
hiệu quả của các thiết chế thực thi pháp luật và khả năng thích
ứng hoàn cảnh của các chính sách kinh tế, chính trị và xã hội.
Tổng Thống có thể
không thuộc đảng phái nào, nhưng trên thực tế, nếu không thuộc một
đảng chính trị nhất định, cá nhân ứng viên thường không đủ khả năng
tiến hành vận động, và ít khả năng đọat đủ phiếu bầu.
Ở chế độ Bán Đại
Nghị, hay Đại Nghị lưỡng chế, hay còn gọi là chế độ Bán Tổng
Thống, có hai khả năng phải đối diện:
Một, là khi Tổng
thống đồng thời là Thủ lĩnh của đảng chính trị chiếm đa số trong
Quốc hội. Nói chung, điều này thường xảy ra trong nhiệm kỳ đầu, vì
khi cử tri ủng hộ chương trình của Tổng thống, thì tiếp tục ủng hộ
chương trình của cùng một đảng khi bầu Quốc hội. Trong trường hợp
này, Thủ tướng thường do Tổng thống chỉ định vì Tổng thống thường
là chủ tịch đảng. Ở đây có sự nhất quán giữa đường lối của Tồng
thống với chính sách của Chính phủ. Cơ chế nhị nguyên của Hành pháp
gần như không còn hiệu lực, thiết chế công quyền trở về gần với
dạng Tổng thống chế. Các quyết định của Tổng thống trở nên có hiệu
lực và Chính phủ làm việc có hiệu quả cao. Tuy nhiên, vì Hiến pháp
quy định chính phủ chịu sự quản chế của Quốc hội, nên trên thực tế,
các quyết định của Tổng thống không có tính độc đoán của thể chế
Tổng Thống.
Trong trường hợp thứ
hai, khi Thủ tướng không cùng đảng chính trị với Tổng thống. Trường
hợp này thường xảy ra khi trong nhiệm kỳ đầu, Tổng thống và Chính
phủ hoạt động kém hiệu quả, không tạo đủ niềm tin của công chúng. Đa
số của cử tri ủng hộ chương trình của đảng đối lập, tổng thống
đứng đầu một đảng, trong khi Thủ tướng đứng đầu chính phủ thuộc đảng
đối lập. Trong trường hợp này, điểm tích cực là với các chính sách
mới, Chính phủ mới có khả năng ngăn chặn được kịp thời những sai
phạm mắc phải trong các chính sách của Tổng thống và Chính phủ
nhiệm kỳ trước. Tuy nhiên, vì không cùng hệ thống chính trị và không
cùng chương trình, nên các chính sách thường gặp khó khăn trong việc
thực thi. Lưỡng đầu quyền lực, tổng thống và Thủ tướng thường khống
chế, cản trở lẫn nhau.
Chế độ Bán tổng
thống có tác dụng ngăn chặn sự quá đà dẫn đến chuyên chế của Tổng
thống vừa có khả năng ngăn chặn xu hướng siêu quyền lực của Quốc
hội, dễ gây ra tình trạng lũng đoạn pháp luật hoặc ngược lại tha hoá
phẩm chất pháp luật.
Nếu Tổng thống thực
sự có năng lực và chương trình kinh tế xã hội thực sự có kết quả,
thì nhiệm kỳ tiếp theo, chính phủ và tổng thống tiếp tục thuộc
cùng đảng đa số Quốc hội, có được tính nhất quán, tạo sự năng động
và hiệu quả. Lúc này, Nhà nước có mô hình hoạt động gần với chế
độ Tổng thống.
Ngược lại, nếu trong
nhiệm kỳ đầu, năng lực và sai phạm trong các chính sách đã thể hiện
rõ, thì ngay lập tức tình trạng đó được ngăn chặn và khắc phục
bằng một Quốc hội có đa số thuộc đảng chính trị đối lập. Người
điều hành chính phủ thuộc đảng phái khác, thực thi các chính sách
kinh tế xã hội khác dưới sự ủng hộ bảo trợ của Quốc hội. Vai trò
Tổng thống lui về chức năng trọng tài và bảo đảm các giá trị quốc
gia phù hợp Hiến pháp, giống như trong chế độ Đại nghị truyền
thống.
Chế độ Bán Tổng
thống có kết cấu gần nhất với các đặc trưng cần có của một nhà
nước dân chủ Đa nguyên. Tương ứng với hai chức năng chính của nhà nước
là Đại diện Chủ quyền quốc gia và hệ thống giá trị quốc gia là
Tổng thống và Đại diện lực lượng chính trị tiến bộ năng động, đáp
ứng đòi hỏi tình huống là Thủ tướng chính phủ. Tổng thống có tính
bền vững hơn, với nhiệm kỳ có thể dài hơn, trong khi Chính phủ có
thể luân phiên giữa các đảng phái chính trị khác nhau trong một chế
độ đa nguyên chính trị.
***
Trong các phân tích
trên đây, có thể rút ra một nhận xét rằng, với ba loại hình đặc
trưng hiện nay về kết cấu thể chế, mỗi kiểu mẫu đều có những ưu
khuyết điểm nhiều ít khác nhau, không có mô hình nào có ưu thế vượt
trội khuynh loát. Vì vậy, việc quyết định lựa chọn mô hình này hay
mô hình khác có lẽ sẽ phải cân nhắc chủ yếu dựa trên các điều kiện
đặc trưng về lịch sử, về văn hoá, các đặc điểm phương pháp tư duy và
các đặc tính tập quán sinh hoạt cuả cộng đồng mỗi dân tộc.
Tuy nhiên, cần chú ý
một điều đặc biệt khi quan sát các sơ đồ thể chế trên đây, có một
quy luật được thể hiện rất rõ, rằng, chỉ ở chế độ Quân chủ, cả
Tuyệt đối lẫn Lập hiến, quyền lực phát ra từ Vua và Quốc hội, theo một
chiều duy nhất từ trên xuống, còn lại, ở các thể chế Cộng Hoà,
quyền lực xuất phát từ Dân chúng, từ dưới lên, rồi mới quay lại tác
động vào Dân, từ trên xuống. Đặc biệt với các chế độ Dân chủ thì
Cử Tri là cơ chế quyền lực cao nhất, trên cùng. Điều 21-3 của Tuyên
ngôn phổ cập nhân quyền quốc tế do Liên Hợp quốc tuyên bố năm 1948, có
nói "Ý chí của dân chúng là nền tảng của mọi quyền lực".
Mọi thể chế có kết
cấu khác đều không được phép tự nhận là Dân chủ. Chế độ độc đảng
cộng sản hiện nay tại Việt Nam là chế độ có hệ thống quyền lực từ
trên xuống. Ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vưà nói "Hiến pháp
là thể chế hoá cương lĩnh của đảng", lại vừa kêu "Dân chủ
đến thế là cùng"!. Với những cái đầu như vậy, ít người đủ tri
thức để mất thì giờ tranh luận. Có thứ Dân chủ nào mà cơ quan quyền
lực cao nhất lại không phải là Cử tri không? Chỉ có thứ dân chủ nằm
trong túi nhà Độc tài.
Paris 26/01/2017